Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Bản án lừa đảo chiếm đoạt tài sản mô tô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.76 KB, 4 trang )

TỒ ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HẢI PHỊNG

CỘNG HỒ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số 23/2017/HSPT
Ngày: 05-4-2017
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tồ: Ơng Nguyễn Văn Thiệm
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Hữu Chế
Ông Lương Ngọc Dũng
Thư ký Toà án ghi biên bản phiên toà: Bà Trần Thị Quỳnh Như - Cán bộ Toà
án nhân dân thành phố Hải Phòng.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phịng tham gia phiên tịa:
Ơng Trương Ngọc Sơn - Kiểm sát viên.
Ngày 05/4/2017 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hải Phịng mở phiên
tồ cơng khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 97/HSPT ngày 29/12/
2016 do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số
73/2016/HSST ngày 24/11/2016 của Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành
phố Hải Phịng.
Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Thị Ngân, sinh năm 1987 tại Hải Phịng;
ĐKNKTT: Thơn Đơng Hạ, xã Ninh Phúc, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình;
chỗ ở: Tổ Hạnh Phúc 1, phường Tràng Minh, quận Kiến An, thành phố Hải
Phịng; trình độ văn hóa: Lớp 10/12; nghề nghiệp: Không; con ông Nguyễn Như
Lộng (đã chết) và bà Phạm Thị Thanh, sinh năm 1956; có chồng là Vũ Văn Hệ,


sinh năm 1986; có 02 con: Lớn nhất sinh năm 2010, nhỏ nhất sinh năm 2011; tiền
án, tiền sự: Không. Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ
ngày 30/9/2016; có mặt.
Bị cáo Lương Hồn Thích khơng kháng cáo, khơng bị kháng nghị nên Tịa
án khơng triệu tập.
NHẬN THẤY:

Theo bản Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Dương, thành
phố Hải Phòng và Bản án hình sự sơ thẩm của Tịa án nhân dân huyện An Dương,
thành phố Hải Phòng, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1


Hồi 17 giờ 30 phút, ngày 26/6/2016 chị Đỗ Thị Thu đi xe môtô nhãn hiệu
AirBlade BKS 15N1-087.16 chở Nguyễn Thị Ngân là bạn của Thu đi đến quán
Karaoke Hùng Tiến ở xã Đặng Cương, huyện An Dương, thành phố Hải Phịng là
nơi chị Thu làm việc gặp Lương Hồn Thích (Thích có quan hệ như vợ chồng với
Ngân). Thích đã nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe trên của chị Thu nên đã mời
chị Thu đi ăn cùng Ngân và Thích. Trong lúc chị Thu vào xin phép chủ qn thì
Thích bàn với Ngân chiếm đoạt chiếc xe trên để đem cắm lấy tiền ăn tiêu, Ngân
đồng ý. Cả ba người đi chung xe của chị Thu đến quán cơm, sau khi vào quán,
Thích bảo Ngân gọi đồ ăn rồi giả vờ hỏi mượn xe của chị Thu để đi đón bạn đến
ăn cùng cho vui. Chị Thu chưa đồng ý thì Ngân nói: “Bạn cho chồng tớ mượn xe
05 phút đi đón bạn tới ăn cùng” làm chị Thu tin tưởng để Thích cầm chìa khóa xe
mơ tơ để ở trên bàn ra mở khóa lấy xe đi. Khoảng 05 phút sau, Thích gọi điện lại
cho chị Thu nói đang chờ bạn và bảo đưa điện thoại cho Ngân nghe, Thích bảo
Ngân: “Vợ cứ ở đấy, chồng về đây”. Ngân hiểu ý là Thích sắp quay lại. Khi về
đến qn cơm, Thích dừng xe ở ngồi gọi Ngân ra, Ngân đứng dậy cầm mũ bảo
hiểm đi ra ngồi lên xe để Thích điều khiển chở đi. Chị Thu chạy ra gọi Thích và

Ngân khơng được nên đã gọi điện thoại cho Thích bảo mang xe về trả. Sau đó,
Thích và Ngân đi xe đến nhà Nguyễn Trung Kiên thế chấp chiếc xe trên vay được
15.000.000 đồng sử dụng vào việc trả nợ và ăn tiêu hết. Sau đó, chị Ngân đến
Cơng an huyện An Dương trình báo. Ngày 13/8/2016, Công an huyện An Dương
đã thi hành lệnh bắt khẩn cấp đối với Thích và triệu tập Ngân đến làm rõ, theo lời
khai của Ngân và Thích thì Cơ quan điều tra đã đến nhà Nguyễn Trung Kiên thu
giữ xe mô tô của chị Thu.
Tại bản Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng
hình sự huyện An Dương, xác định chiếc xe mơ tơ trên của chị Thu có giá trị
25.000.000 đồng.
Tại Bản án sơ thẩm số 73/2016/HSST ngày 24/11/2016 Tòa án nhân dân
huyện An Dương, thành phố Hải Phòng: Áp dụng Khoản 1 Điều 139; Điểm h, l, p
Khoản 1, Điều 46; Điều 20; Điều 53 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Nguyễn Thị Ngân
12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
Ngồi ra, Bản án cịn tun hình phạt đối với bị cáo khác, trách nhiệm dân
sự, nghĩa vụ nộp án phí và tuyên quyền kháng cáo bản án.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 28/11/2016 bị cáo Nguyễn Thị Ngân kháng
cáo xin được cải tạo khơng giam giữ.
Tại phiên tịa, bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo. Đơn kháng cáo
trong hạn luật định nên được cấp phúc thẩm xem xét giải quyết.
* Quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên thể hiện như sau:

2


Tòa án cấp Sơ thẩm đã xem xét nhân thân, vai trị, các tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự và xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Ngân 12 (mười hai) tháng tù là
phù hợp. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo khơng cung cấp thêm được tình tiết mới nên
khơng có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp
dụng Điểm a, Khoản 2, Điều 248 Bộ luật Tố tụng hình sự: Khơng chấp nhận

kháng cáo của bị cáo. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm,
căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện
tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo,
XÉT THẤY:

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời
khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu
khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Hồi 17giờ 30 phút ngày 26/6/2016, Nguyễn
Thị Ngân và Lương Hồn Thích đã dùng thủ đoạn gian dối làm cho người bị hại
là chị Đỗ Thị Thu tin tưởng giao xe cho và sau đó đã đem xe đi cầm cố tài sản.
Theo Kết luận định giá của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thì tài
sản có giá trị 25.000.000 đồng. Do đó, Tịa án cấp Sơ thẩm xét xử bị cáo về tội
“Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 139 Bộ luật Hình sự là đúng quy định
của pháp luật
Xét kháng cáo xin được cải tạo ngoài xã hội của bị cáo Nguyễn Thị Ngân:
Tòa án cấp Sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là
đúng pháp luật. Đã căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và
áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và xử phạt bị
cáo 12 tháng tù là phù hợp. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo khơng cung cấp thêm được
tình tiết nào mới để Hội đồng xét xử xem xét. Do đó, khơng chấp nhận kháng cáo
của bị cáo. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm khơng có kháng cáo, không bị
kháng nghị nên Hội đồng xét xử khơng xét.
Vì các lẽ trên,
Căn cứ vào Điểm a, Khoản 2, Điều 248 Bộ luật Tố tụng hình sự;
QUYẾT ĐỊNH:

1. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo
Nguyễn Thị Ngân.

Áp dụng Khoản 1, Điều 139; Điểm h, l, p Khoản 1, Điều 46; Điều 20; Điều
53 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Nguyễn Thị Ngân: 12 (mười hai) tháng tù về tội
“Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
3


2. Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự
phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của Bản án số 73/2016/HSST ngày 24/11/2016 của
Toà án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng có hiệu lực pháp luật kể
từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:

- VKSTP,VKS sơ thẩm;
- Công an thành phố, công an huyện;
- PV27; PC81 cơng an thành phố;
- Tồ án sơ thẩm;
- Sở tư pháp TPHP;
- TB kết quả xét xử;
- Người tham gia tố tụng;
- Lưu: HS; HCTP.

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

Nguyễn Văn Thiệm

4




×