Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Bản án hành chính phúc thẩm thu hồi đất, bồi thường về đất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.81 KB, 18 trang )

TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số: 01/2014/HC-PT
Ngày 15-01-2014
V/v Khởi kiện hành vi hành chính
trong lĩnh vực quản lý đất đai

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HỒ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tồ: Ơng Dương Văn Chính.
Các Thẩm phán:
Ơng Cao Thành Ngọc.
Bà Nguyễn Thị Thu Thủy.
Thư ký Toà án ghi biên bản phiên toà: Bà Nguyễn Thị Hằng - Cán bộ Toà án
nhân dân thành phố Hải Phòng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phịng: Bà Ngơ Thị Tuyết
Nga - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 15 tháng 01 năm 2014, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hải
Phịng xét xử phúc thẩm cơng khai vụ án hành chính thụ lý số 09/2013/TLPT-HC
ngày 24 tháng 5 năm 2013 về “Khởi kiện hành vi hành chính trong lĩnh vực quản
lý đất đai”
Do bản án hành chính sơ thẩm số 13/2013/HC-ST ngày 11/4/2013 của Tịa
án nhân dân quận Ngơ Quyền bị kháng cáo
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 211/QĐ-PT ngày 31 tháng 12 năm


2013 giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện (Đại diện hộ gia đỉnh): Bà Trần Thị Ngần, sinh năm 1928;
địa chỉ: Tổ 29 cụm 5, phường Đông Khê, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.
Người đại diện hợp pháp của người khởi kiện: Bà Trần Thị Vân, sinh năm
1963, địa chỉ: Tổ 29 cụm 5, phường Đông Khê, quận Ngô Quyền, thành phố Hải
Phòng là người đại diện theo ủy quyền theo văn bản ủy quyền ngày 10 tháng 8
năm 2012.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện:
- Ông Nguyễn Trung Thành, Luật sư của Công ty Luật TNHH Hịa Lợi
thuộc Đồn luật sư thành phố Hà Nội.
- Ông Vũ Văn Lợi, Luật sư của Công ty Luật TNHH Hịa Lợi thuộc Đồn;
luật sư thành phố Hà Nội.


2. Người bị kiện: Ủy ban nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng;
Địa chỉ trụ sở: số 19 đường Đà Nằng, phường Máy Tơ, quận Ngô Quyền, thành
phố Hải Phòng.
Người đại diện hợp pháp của người bị kiện:
- Ông Phạm Tiến Hiển, sinh năm 1960. Chức vụ: Trưởng phịng Tư pháp Ủy ban nhân dân quận Ngơ Quyền.
- Ông Đào Đình Tuấn, sinh năm 1955. Chức vụ: Trưởng phịng Tài ngun
và mơi trường - Ủy ban nhân dân quận Ngơ Quyền.
- Ơng Đồn Khánh Hải, sinh năm 1970. Chức vụ: Phó Giám đốc Trung tâm
phát triển quỹ đất - Ủy ban nhân dân quận Ngô Quyền.
Là người đại diện theo ủy quyền theo văn bản uỷ quyền ngày 12 tháng 6
năm 2013.
3. Người kháng cáo: Bà Trần Thị Ngần, sinh năm 1928; địa chỉ: Tổ 29 cụm
5, phường Đơng Khê, quận Ngơ Quyền, thành phố Hải Phịng.
Ơng Đào Đình Tuấn có mặt; ơng Đồn Khánh Hải, ơng Phạm Tiến Hiển
vắng mặt; bà Trần Thị Vân, ông Vũ Văn Lợi, ơng Nguyễn Trung Thành vắng
mặt, đều có đơn xin xử vắng mặt

NHẬN THẤY:
Theo hồ sơ vụ án và bản án sơ thẩm, nội dung vụ án như sau:
Ngày 28/3/2005, UBND thành phố Hải Phòng căn cứ vào Quyết định số
1510/QĐ-UB ngày 20/5/2004 về việc Phê duyệt Quy hoạch chi tiết khu đô thị
mới Trung tâm Lạch Tray - Hồ Đông, đã ban hành Quyết định số 472/QĐ-UB về
việc giao đất cho Công ty Thương mại đầu tư phát triển đô thị để thực hiện dự án
đầu tư xây dựng tuyến đường có mặt cắt 100m khu đơ thị mới trung tâm Lạch
Tray - Hồ Đông. Theo Quyết định trên, UBND thành phố Hải Phòng quyết định
thu hồi 72.504 m2 đất tại phường Đông Khê, quận Ngô Quyền, thành phố Hải
Phòng để thực hiện dự án. Trong số 72.504 m 2 đất bị thu hồi có 264 m2 đất của hộ
bà Trần Thị Ngần đang sử dụng.
Ngày 28/3/2005, Hội đồng bồi thường giải phóng mặt bằng quận Ngơ
Quyền tổ chức kiểm kê, đo đạc trên thực địa đối với diện tích đất được giao
khốn của hộ gia đình bà Ngần bị thu hồi thuộc dự án xây dựng tuyến đường
100m Lạch Tray - Hồ Đơng trong đó có kiểm kê, đo đạc trên thực địa đối với
thửa số 320+321+196+197+195+293 là 806,9 m2 hiện đang trồng rau muống,
trong đó: Diện tích đất bị thu hồi được bồi thường theo hạn mức bình quân nhân
khẩu là 171,87 m2 (Do hộ bà Ngần đã hưởng theo hạn mức bình quân nhân khẩu
ở các đợt trước là 1.578,3 m2); diện tích đất bị thu hồi vượt hạn mức bình quân
nhân khẩu là 634,03 m2, đã cưỡng chế thu hồi. Bà Ngần có ký biên bản kiểm kê
và khơng có khiếu nại gì về diện tích đất.

2


Sau khi kiểm kê, đo đạc trên thực địa đối với diện tích đất bị thu hồi của các
hộ gia đình có đất nơng nghiệp được giao khốn bị thu hồi theo Dự án đường
100m, UBND quận Ngô Quyền đã áp dụng Quyết định số 485/QĐ-UB ngày
28/3/2005 và Quyết định số 572/QĐ-UB ngay 22/3/2006 của UBND thành phố
Hải Phòng về việc ban hành quy định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà

nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hải Phòng; Quyết định số
2802/2006/QĐ- UB ngày 25/12/2006 của UBND thành phố Hải Phòng về việc
ban hành giá đất thực hiện trên địa bàn thành phố Hải Phòng năm 2007, phối hợp
cùng với các sở Tài nguyên và Mơi trường, Tài chính, Xây dựng lập Tờ trình phương
án đền bù số 231/TT-LCQ ngày 12/02/2007 trình UBND thành phố Hải Phòng.
Ngày 13/3/2007, UBND thành phố Hải Phòng đã ban hành Quyết định số
377/QĐ-UB về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ thiệt hại đất đai, tài
sản hoa màu trên diện tích đất bị thu hồi (trong đó có diện tích đất được giao
khốn của hộ gia đình bà Ngần bị thu hồi trong hạn mức bình quân nhân khẩu
được đền bù, hỗ trợ là 171,87 m 2) theo đề nghị tại Tờ trình số 231/TT-LCQ ngày
12/02/2007.
Trong quá trình thực hiện thủ tục thu hồi và bồi thường, hỗ trợ đất bị thu
hồi, bà Ngần (và 51 hộ dân ủy quyền cho ơng Hồng Xn Kỳ đại diện) khiếu nại
vào các ngày 10/10/2008 và ngày 11/11/2008 cho rằng UBND quận Ngô Quyền
đã không ban hành quyết định thu hồi đất cá biệt đối hộ gia đình bà theo quy định
tại Điều 37, 44 Luật Đất đai năm 2003; khoản 6 Điều 130 Nghị định số
181/2004/NĐ- CP; không thực hiện việc kiểm đếm, đo đạc trên thực địa, không
ban hành quyết định phê duyệt phương án bồi thường nhưng lại thơng báo cho hộ
gia đình bà nhận tiền bồi thường là trái quy định tại Nghị định số 197/2004/NĐCP; Nghị định số 84/2007/NĐ-CP; Nghị định số 69/2009/NĐ-CP.
Quá trình giải quyết khiếu nại, ngày 25/6/2009 Chủ tịch UBND quận Ngô
Quyền đã ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại số 1396/QĐ-UBND với nội
dung: Bác khiếu nại của bà Ngần, UBND quận Ngô Quyền không phải ban hành
quyết định thu hồi đất đến từng hộ dân, việc thực hiện trình tự, thủ tục thu hồi đất
của UBND quận đã thực hiện đúng quy định.
Không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND quận
Ngô Quyền, bà Ngần (và 51 hộ dân) tiếp tục khiếu nại lên UBND thành phố Hải
Phòng vào ngày 08/7/2009.
Ngày 21/9/2009 UBND thành phố Hải Phịng có Cơng văn số 5447/ UBNDKTĐN đồng ý về việc UBND quận Ngô Quyền không phải ban hành quyết định thu
hồi đất cá biệt đến từng hộ gia đình có đất nơng nghiệp thuộc diện phải thu hồi.
Ngày 07/5/2010 UBND thành phố Hải Phịng đã có Quyết định giải quyết

khiếu nại lần hai số 716/QĐ-CT với nội dung:

3


- Về nguyên tắc, UBND quận Ngô Quyền phải ban hành quyết định thu hồi
đất đến từng hộ dân, song xét tình hình quản lý thực tế đất nơng nghiệp tại khu
vực này và quá trình thực hiện trình tự kiểm kê, đền bù cũng như chính sách và
mức bồi thường, hỗ trợ cho các hộ dân có đất nơng nghiệp bị thu hồi không bị
ảnh hưởng quyền lợi về kinh tế. Do đó tại thời điểm này UBND quận Ngô Quyền
không phải ban hành quyết định thu hồi đất riêng biệt đến từng hộ dân. Tuy
nhiên, UBND quận Ngô Quyền đã có thiếu sót trong việc thực hiện trình tự, thủ
tục thu hồi đất.
- Giao Ghủ tịch UBND quận Ngơ Quyền rà sốt đối tượng, cơ chế, chính
sách hỗ trợ, nhất là đối với các hộ bị thu hồi 100% đất sản xuất, tạo điều kiện
giảm bớt khó khăn đối với các hộ...
Thực hiện chỉ đạo của UBND thành phố tại Quyết định giải quyết khiếu nại
lần 2 trên, ngày 21/9/2010 UBND quận Ngô Quyền căn cứ vào Quyết định số
130/2010/QĐ-UBND ngày 22/01/2010; Quyết định số 1263/2010/QĐ-UBND
ngày 30/7/2010 của UBND thành phố Hải Phòng về việc sửa đổi bổ sung một số
điều quy định chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
trên địa bàn thành phố Hải Phịng và các cơng văn hướng dẫn, đã ban hành Quyết
định số 2116 /QĐ-UBND phê duyệt bổ sung phương án hỗ trợ về đất lần 1 đối
với 83 trường hợp (hỗ trợ 70% tiền bồi thường đất nông nghiệp đối với hộ bà
Ngần bằng 6.616.995đ) và ngày 15/7/2011 ban hành Quyết định số 2307/QĐUBND phê duyệt bổ sung phương án hỗ trợ về đất lần 2 đối với 83 trường hcrp
(hỗ trợ 30% tiền bồi thường đất nông nghiệp đối với hộ bà Ngần bằng
2.835.855đ).
Sau khi ban hành các quyết định trên, UBND quận Ngô Quyền đã thơng báo
mời các hộ gia đình có tên trong quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ
trợ nhận tiền bồi thường (lần 1 vào 18/3/2007; lần 2 ngày 08/12/2010, lần 3 ngày

15/7/2011). Sau khi có thơng báo nhận tiền bồi thường, hỗ trợ, đã có 31/83 hộ
nhận tiền và bàn giao đất để giải phóng mặt bằng. Đến nay cịn 52 hộ (trong đó
có hộ gia đình bà Ngần) chưa nhận tiền bồi thường, hỗ trợ; có 14/52 hộ có đơn
khởi kiện vụ án hành chính do không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại
lần 2 của Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng.
Ngày 26/6/2012 bà Trần Thị Ngần có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại
Tịa án nhân dân quận Ngơ Quyền.
* Người khởi kiện và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trình bày
trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tịa sơ thầm như sau:
Gia đình bà Trần Thị Ngần sử dụng diện tích 264 m 2 đất nông nghiệp tại tổ
29 cụm 5 phường Đông Khê, quận Ngơ Quyền, thành phố Hải Phịng hợp pháp từ
năm 1986 đến nay, được thể hiện tại sổ thuế nông nghiệp gia đình số 106 cấp
ngày 14/12/1999 đứng tên Trần Thị Ngần. Thực hiện Dự án tuyến đường 100m
4


Lạch Tray - Hồ Đông tại phường Đông Khê, quận Ngô Quyền (gọi tắt là Dự án
đường 100m), hộ bà Ngần bị thu hồi là 264 m2 cùng toàn bộ hoa mầu trên đất.
Trong quá trình thực hiện thủ tục thu hồi và bồi thường, hỗ trợ đất bị thu
hồi,UBND quận Ngô Quyền đã không thực hiện đúng theo quy định của Luật Đất
đai 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành, cụ thể là:
- Năm 2006, UBND quận Ngô Quyền chỉ căn cứ Quyết định số 472/QĐ-UB
ngày 28/3/2005 của UBND thành phố Hải Phòng để thực hiện hành vi thu hồi đất
mà không ban hành quyết định thu hồi đất cá biệt đối với hộ gia đình bà theo quy
định của pháp luật.
- UBND quận Ngô Quyền không ban hành quyết định phê duyệt phương án
bồi thường theo quy định của pháp luật, nhưng lại có thơng báo cho hộ gia đình
bà Ngần nhận tiền bồi thường là trái quy định tại các Nghị định số 197/2004/NĐCP; số 84/2007/NĐ-CP; số 69/2009/NĐ-CP.
Bà Trần Thị Ngần đề nghị Tòa án giải quyết:
1. Tuyên hành vi hành chính của UBND quận Ngô Quyền khi thực hiện

nhiệm vụ thu hồi đất, bồi thường về đất nhưng không ban hành quyết định thu hồi
đất, không ban hành quyết định phê duyệt phương án bồi thường là trái quy định
của pháp luật đất đai và các văn bản, nghị định hướng dẫn thi hành.
2. Buộc UBND quận Ngô Quyền phải thực hiện lại các trình tự, thủ tục về
thu hồi, bồi thường đất theo quy định của pháp luật.
3. Buộc UBND quận Ngô Quyền phải áp giá bồi thường về đất theo quy
định tại khoản 2 Điều 9 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP thời điểm năm 2013 đối
với diện tích 264 m2 của hộ gia đình bà.
* Theo người bị kiện Ủy ban nhân dân quận Ngơ Quyền trình bày:
1. Theo quy định tại Nghị định số 64/1993/NĐ-CP ngày 27/9/1993 của
Chính phủ và Quyết định số 03/QĐ-UB ngày 04/01/1994 của UBND thành phố
Hải Phịng thì diện tích đất nơng nghiệp của hộ gia đình bà Ngần sử dụng là đất
nông nghiệp do Hợp tác xã Đơng Khê quản lý, giao khốn theo mức bình qn
nhân khẩu; không được giao sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích sản xuất nơng
nghiệp; chưa được đăng ký quyền sử dụng đất hợp pháp.
Theo bản đồ địa chính thực hiện thu hồi đất thì diện tích đất của bà Ngần
gồm các thửa: số 320, 321, 196, 197, 195, 293 với tổng diện tích đất thu hồi thực
hiện dự án là 805,9 m2. Nay, gia đình Ngần chỉ được xem xét bồi thường diện tích
đất bị thu hồi theo hạn mức bình quân nhân khẩu là 171,87 m 2 bởi đất hộ bà Ngần
sử dụng là đất được tạm giao theo mức bình quân nhân khẩu. Theo báo cáo số khẩu
của UBND phường Đơng Khê thì số khẩu trong gia đình bà Ngần là 05 khẩu.
Theo Nghị quyết của Hợp tác xã Đơng Khê thì xã viên được tạm giao khốn
350m2/khẩu. Như vậy, tồng diện tích bình qn 05 khẩu của gia đình bà Ngần

5


được tạm giao diện tích đất là 1.750 m 2. Tại các dự án trước đã thu hồi đất thì gia
đình bà Ngần đã được bồi thường 1.578,13 m 2 nên diện tích bình qn nhân khẩu
cịn lại được bồi thường lần này gia đình bà Ngần chỉ được bồi thường 171,87m2.

Tại thời điểm thu hồi đất ở phường Đông Khê để thực hiện dự án đường
100m, UBND quận Ngô Quyền chưa thu thập được đầy đủ thông tin về hồ sơ địa
chính để xác định quyền và nghĩa vụ sử dụng đất nơng nghiệp hợp pháp của hộ
gia đình bà Ngần nên không đủ điều kiện và cơ sở để ra quyết định thu hồi đất cụ
thể đối với hộ gia đình bà và việc khơng phải ban hành quyết định thu hồi đất cá
biệt đến từng hộ gia đình có đất nơng nghiệp thuộc diện phải thu hồi đã được
UBND thành phố Hải Phịng đồng ý. Vì vậy, UBND quận Ngô Quyền không phải
ra quyết định thu hồi đất cụ thể đối với hộ bà Ngần.
2. Hội đồng bồi thường giải phóng mặt bằng của UBND quận Ngơ Quyền
đã thực hiện đầy đủ trình tự thủ tục về thu hồi đất như: Tổ chức họp thông báo
kiểm kê; lập phương án bồi thường, hỗ trợ thiệt hại đất đai, tài sản hoa màu trong
diện tích đất bị thu hồi và được UBND thành phố phê duyệt; nhiều lần thơng báo
các hộ gia đình lên nhận tiền... Nên việc lập phương án bồi thường, hỗ trợ và phê
duyệt phương án đã đảm bảo đúng quy định của pháp luật.
3. Do UBND quận Ngô Quyền không phải ra quyết định thu hồi đất cụ thể
đối với hộ bà Ngần và đã thực hiện đầy đủ trình tự thủ tục về thu hồi đất, nên yêu
cầu khởi kiện của gia đình bà Ngần buộc UBND quận Ngô Quyền phải thực hiện
lại trình tự thủ tục, thu hồi bồi thường về đất là khơng có cơ sở.
4. Đối với u cầu Tịa án buộc UBND quận Ngô Quyền phải áp giá bồi
thường về đất, đại diện người bị kiện khẳng định: Việc áp giá bồi thường đất của
UBND quận Ngô Quyền đối với hộ gia đình bà Ngần đã đúng theo quy định của pháp
luật và giá trị đất thực hiện trên địa bàn thành phố Hải Phòng năm 2007. Cụ thể:
UBND quận Ngô Quyền đã áp dụng Quyết định số 485/QĐ-UB ngày
28/3/2005 và Quyết định số 572/QĐ-UB ngày 22/3/2006 của UBND thành phố
Hải Phòng về việc ban hành quy định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hải Phòng; Quyết định số
2802/2006/QĐ- UB ngày 25/12/2006 của UBND thành phố Hải Phòng về việc
ban hành giá đất thực hiện trên địa bàn thành phố Hải Phòng năm 2007; Quyết
định số 130/2010/QĐ-UBND ngày 22/01/2010; Quyết định số 1263/2010/QĐUBND ngày 30/7/2010 của UBND thành phố Hải Phòng về việc sửa đổi bổ sung
một số điều quy định chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu

hồi đất trên địa bàn thành phố Hải Phòng để áp giá bồi thường về đất cho các hộ
có đất bị thu hồi theo đúng quy định của pháp luật.Với những lý do nêu trên,
người bị kiện bác bỏ toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.
Với nội dung trên Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền:
- Áp dụng Điều 3 Nghị quyết 56/QH12 ngày 24/11/2010 của Quốc hội;
6


- Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 29; khoản 1 Điều 103; điểm a
khoản 1 Điều 104; điểm a khoản 2 Điều 163 Luật tố tụng hành chính;
- Áp dụng Điều 32; khoản 2 Điều 44 Luật đất đai năm 2003;
- Căn cứ khoản 2 Điều 34 Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 về án phí, lệ
phí Tồ án năm 2009.
Xử:
1. Bác yêu cầu khởi kiện của hộ gia đình bà Trần Thị Ngần đối với Uỷ ban
nhân dân quận Ngơ Quyền, thành phố Hải Phịng về những nội dung sau:
- Đề nghị tuyên bố các hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân quận Ngơ
Quyền, thành phố Hải Phòng khi thu hồi đất, bồi thường về đất: không thực hiện
việc ban hành quyết định thu hồi đất đối với hộ gia đình bà Trần Thị Ngần; khơng
ban hành quyết định phê duyệt phương án bồi thường là trái quy định của pháp
luật đất đai và các văn bản, nghị định hướng dẫn thi hành.
- Đề nghị buộc Ủy ban nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phịng
phải thực hiện lại các trình tự, thủ tục về thu hồi, bồi thường đất theo quy định
của pháp luật.
- Đề nghị buộc UBND quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng phải áp giá
bồi thường về đất theo quy định tại khoản 2 Điều 9 Nghị định 197/NĐ-CP ngày
03/12/2004.
Ngoài ra bản án cịn tun án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
* Ngày 15/4/2013 bà Trần Thị Ngần có đơn kháng cáo tồn bộ bản án sơ
thẩm và đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử phúc thẩm vụ án

theo hướng chấp nhận các yêu cầu khởi kiện của bà. Bà Ngần đề nghị Tịa án
phải triệu tập Hợp tác xã Đơng Khê tham gia tố tụng với tư cách là người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan mới đúng pháp luật tố tụng hành chính.
Tại phiên tịa phúc thẩm hơm nay:
* Người được ủy quyền của người khởi kiện có đơn xin xử vắng mặt; các
Luật sư của người khởi kiện có đơn xin xử vắng mặt vẫn giữ nguyên yêu cầu
kháng cáo và gửi bản luận cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi
kiện (đã được cơng bố tại phiên tòa) vẫn giữ các quan điểm đã trình bày tại Tịa
sơ thẩm, cụ thể đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ Điều 37, khoản 2 Điều 44 Luật
đất đai năm 2003; Điều 31 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP; khoản 5 Điều 8 Nghị
định số 197/2004/NĐ-CP; điểm c khoản 1 Điều 44 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP
tuyên hành vi hành chính của UBND quận Ngơ Quyền khơng ban hành quyết
định thu hồi đất cụ thể đối với hộ bà Trần Thị Ngần, không ban hành quyết định
phê duyệt phương án bồi thường theo thẩm quyền là trái pháp luật và buộc
UBND quận Ngơ Quyền phải thực hiện lại trình tự thủ tục thu hồi đất theo quy
định của pháp luật và phải áp giá bồi thường tại thời điểm mới hoặc tại thời điểm

7


chi trả tiền theo khoản 2 Điều 9 Nghị định số 197.
* Người bị kiện vẫn giữ các quan điểm đã trình bày tại Tịa sơ thẩm, bản
khai gửi Tịa án nhân dân thành phố và bổ sung ý kiến như sau:
Ủy ban nhân dân quận Ngô Quyền đã thực hiện đúng quy định, các hộ dân
sử dụng đất giao khoán tạm thời chưa được đăng ký quyền sử dụng đất theo quy
định, không đủ điều kiện để ban hành quyết định cụ thể song việc tính tốn bồi
thường như đối với trường hợp được giao đất lâu dài, quyền lợi của các hộ được
bảo đảm theo quy định. Việc áp giá được thực hiện đúng theo quy định của nhà
nước nên không chấp nhận các yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện và các
quan điểm của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích của người khởi kiện.

Về diện tích 634,03 m2 đất vượt hạn mức của hộ gia đình bà Trần Thị Ngần:
- Theo báo cáo của UBND phường Đơng Khê thì số khẩu trong gia đình bà
Ngần là 05 khẩu. Theo Nghị quyết của Hợp tác xã Đơng Khê thì xã viên được
tạm giao khốn 350m2/khẩu. Như vậy, tổng diện tích bình qn 05 khẩu của gia
đình bà Ngần được tạm giao diện tích đất là 1.750 m 2. Tại các dự án trước đã thu
hồi đất thì gia đình bà Ngần đã được bồi thường về đất trong hạn mức bình quân
nhân khẩu là 1.578,13 m2 (tại các Quyết định của UBND thành phố Hải Phịng:
số 2578/2000/QĐ-UB ngày 26/12/2000 - diện tích thu hồi 603,63 m 2 và Quyết
định số 290/2003/QĐ-UB ngày 27/01/2003 - diện tích thu hồi 974,5 m 2). Nên
diện tích bình qn nhân khẩu còn lại được bồi thường lần này của gia đình bà
Ngần chỉ là: 1.750 m2 - 1.578,13 m2 = 171,87m2. Như vậy diện tích đất bị thu hồi
vượt hạn mức là 805,9 m2 - 171,87m2 = 634,03 m2.
- Hộ gia đình bà Trần Thị Ngần được giao đất sản xuất nơng nghiệp có diện
tích đất lớn hơn so với hạn mức bình quân nhân khẩu được hỗ trợ chi phí đầu tư
vào đất theo điểm q, f, khoản 2, Điều 5 quy định ban hành kèm theo Quyết định
số 485/QĐ-UB ngày 30/3/2005 của UBND thành phố Hải Phòng về việc Ban
hành quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên
địa bàn thành phố Hải Phịng.
UBND quận Ngơ Quyền thống nhất tính bổ sung hỗ trợ 01 lần đối với hộ bà
Trần Thị Ngần từ kinh phí đã được UBND thành phố phê duyệt đối với diện tích
vượt hạn mức tại Quyết định số 377/QĐ-UB ngày 13/3/2007 là: 634,03 m 2 X 30%
2
2
X 55.000đ/m = 10.467.495đ (Hỗ trợ thêm mỗi m đất nông nghiệp vượt hạn mức
bằng 30% đơn giá đất theo hạng).
Người bị kiện thừa nhận việc chưa gửi tiền vào tài khoản riêng mở tại ngân
hàng và tự nguyện sẽ chi trả thêm cho các hộ dân tiền lãi tiết kiệm có kỳ hạn theo
quy định của ngân hàng nhà nước, để đảm bảo quyền lợi của hộ bà Ngần theo
đúng quy định tại khoản 3 Điều 58 Nghị định số 84 của Chính phủ.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng phát biểu quan điểm:


8


- Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Trong q trình giải quyết vụ án và
tại phiên tịa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử tuân theo đúng các quy định pháp luật
tố tụng hành chính; những người tham gia tố tụng ở giai đoạn phúc thẩm đã chấp
hành đúng các quy định của Luật Tố tụng hành chính.
- Về đề xuất giải quyết vụ án: Kháng cáo của hộ bà Ngần phù hợp theo quy
định nên được chấp nhận.
- Về yêu cầu kháng cáo đưa HTX nông nghiệp phường Đông Khê vào tham
gia tố tụng: HTX nông nghiệp Đông Khê có văn bản đề nghị từ chối tham gia tố
tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và đề nghị Tòa án xét
xử theo quy định vì HTX khơng có quyền lợi gì về kinh tế khi Nhà nước thu hồi
đất và các hộ gia đình đang sử dụng đất nơng nghiệp giao khốn được hưởng toàn
bộ quyền lợi kinh tế (như đối với người được giao đất nông nghiệp lâu dài, trong
hạn mức theo quy định). Do vậy, yêu cầu kháng cáo này của người khởi kiện
khơng có cơ sở để chấp nhận.
- Về việc UBND quận Ngô Quyền không ban hành quyết định cụ thể đối với
các hộ dân là chưa đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên xét tình hình quản lý
thực tế đất nông nghiệp tại khu vực phường Đơng Khê, quận Ngơ Quyền thấy:
Diện tích đất hộ bà Ngần sử dụng là do HTX nông nghiệp Đông Khê giao khốn
theo mức bình qn nhân khẩu từ trước năm 1993. Trên sổ địa chính và sổ mục
kê của phường không thể hiện hộ bà Ngần đang sử dụng diện tích đất nêu trên mà
chỉ được thể hiện trong sổ thuế nơng nghiệp có sự xác nhận của HTX nơng
nghiệp Đơng Khê. Hộ gia đình bà Ngần khơng được giao ổn định lâu dài do đất
này nằm trong quy hoạch đơ thị đã được phê duyệt. Mặt khác các phịng chức
năng kết hợp với HTX nông nghiệp Đông Khê lập bảng tổng hợp xác định diện
tích và nguồn gốc đất, trích ngang hộ khẩu nhân khẩu của các hộ có đất bị thu hồi
trên cơ sở dó xây dựng phương án bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất. Việc UBND

quận Ngô Quyền không ban hành quyết định thu hồi đất cá biệt đối với hộ gia
đình, UBND quận Ngơ Quyền đã tiến hành kiểm kê, lập phương án bồi thường,
áp giá đảm bảo theo quy định, quyền lợi kinh tế của các hộ đã được đảm bảo.
- Về diện tích đất vượt hạn mức: Theo Nghị quyết của Hợp tác xã Đơng Khê
thì xã viên được tạm giao khốn 350m2/khẩu. Như vậy, tổng diện tích bình qn
05 khẩu của gia đình bà Ngần được tạm giao diện tích đất là 1.750 m 2. Tại các dự
án trước đã thu hồi đất thì gia đình bà Ngần đã được bồi thường 1.578,13 m 2 nên
diện tích bình qn nhân khẩu cịn lại được bồi thường lần này gia đình bà Ngần
chỉ được bồi thường 171,87m2. Việc xử lý kinh phí vượt hạn mức bình quân nhân
khẩu là 634,03 m2 đất, hộ gia đình bà Ngần khơng được bồi thường mà chuyển về
UBND phường Đông Khê để điều tiết cho những cụ già neo đơn, diện chính sách
khơng canh tác mà hàng năm Hợp tác xã phải điều hòa là phù hợp với quy định
của pháp luật.

9


Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của hộ bà
Ngần, sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận sự tự nguyện của người bị kiện
về việc chi trả thêm tiền lãi theo lãi suất tiết kiệm có kỳ hạn theo quy định của
Ngân hàng nhà nước.
XÉT THẤY:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa của người bị kiện, trên cơ
sở xem xét đầy đủ ý kiến của các bên đương sự, ý kiến tại bản luận cứ của Luật
sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện và quan điểm của đại
diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng, Hội đồng xét xử thấy như sau:
1. Về thẩm quyền:
Tịa án nhân dân quận Ngơ Quyền xác định yêu cầu khởi kiện của người
khởi kiện là khiếu kiện hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai đối với

Ủy ban nhân dân quận Ngô Quyền. Người khởi kiện đã thực hiện việc khiếu nại
đến người có thẩm quyền nên có đủ điều kiện được áp dụng các quy định tại Điều
3 Nghị quyết số 56/QH12 ngày 24/11/2010 của Quốc hội và Điều 4 Nghị quyết
số 01/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao. Người khởi kiện thực hiện việc khởi kiện trong thời gian quy định được
hồi tố khởi kiện vụ án hành chính và xác định vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 28;
khoản 1 Điều 29; Điều 163 của Luật Tố tụng hành chính.
2. Về xác định tư cách người tham gia tố tụng trong vụ án:
Tòa sơ thẩm xác định tư cách người khởi kiện, người bị kiện đúng quy định
của pháp luật. Người khởi kiện kháng cáo yêu cầu đưa Hợp tác xã nông nghiệp
Đông Khê vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan. Theo các tài liệu có trong hồ sơ thấy như sau:
Theo quyết định số 38-HĐBT ngày 17/02/1987 của Hội đồng Bộ trường,
tách các xã Đông Khê và xã Đằng Giang của huyện An Hải để sáp nhập vào quận
Ngô Quyền; giải thể hai xã này để thành lập phường Đông Khê và phường Đằng
Giang thuộc quận Ngô Quyền.
Sau khi có Luật đất đai 1993, Nhà nước có chủ trương giao đất nông nghiệp
cho các hộ dân sử dụng ổn định, lâu dài để yên tâm đầu tư, sản xuất nơng nghiệp.
Trên địa bàn thành phố Hải Phịng, đối với đất nông nghiệp tại các làng xã thuộc
huyện thì được triển khai giao lâu dài cho các hộ nông dân theo quy định của
Nghị định số 64/1993/NĐ-CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ và Quyết định số
03/QĐ- UB ngày 04/01/1994 của UBND thành phố Hải Phịng.
Diện tích đất nơng nghiệp thuộc phường Đông Khê, do nằm trong quy
hoạch đô thị, trong thời gian chờ cơng bố chính thức quy hoạch chi tiết thì ngày

10


19/5/1994 UBND thành phố Hải Phịng có Chỉ thị số 17CT/ĐĐ chỉ đạo chỉ giao

tạm thời cho các hộ gia đình, cá nhân để tổ chức trồng cây ngắn ngày, khi cần thu
hồi phục vụ quy hoạch, nhà nước chỉ đền bù hoa màu.
Thực hiện chỉ đạo của UBND thành phố, diện tích đất 805,9 m 2 (trong đó có
171,87 m2 trong hạn mức bình quân nhân khẩu) hộ gia đình bà Trần Thị Ngần
đang sử dụng là đất nơng nghiệp trước đây do Hợp tác xã Đông Khê quản lý, giao
khoán. Sau khi được sát nhập thuộc quy hoạch đơ thị thì tiếp tục được giao khốn
sử dụng theo mức bình qn nhân khẩu, khơng được giao sử dụng ổn định lâu
dài, chưa được đăng ký quyền sử dụng đất hợp pháp.
HTX nông nghiệp Đông Khê chỉ lập sổ sách theo dõi thuế nông nghiệp,
hàng năm gửi thông báo thuế tới các hộ dân để các hộ thực hiện việc nộp thuế
nông nghiệp cho cơ quan thuế. HTX nông nghiệp Đồng Khê khơng cịn vai trị, vị
trí của người giao khốn, điểu tiết đất nơng nghiệp hàng năm và khơng có nghĩa
vụ, quyền lợi gì về kinh tế khi Nhà nước thu hồi đất của các hộ gia đình đang sử
dụng đất nông nghiệp tại phường Đông Khê. Mặc dù UBND phường Đông Khê
đứng tên trong sổ mục kê, địa chính và HTX nơng nghiệp Đơng Khê được giao
quản lý đối với tồn bộ diện tích đất nơng nghiệp, nhưng khi thu hồi đất các hộ sử
dụng đất giao khốn được hưởng tồn bộ quyền lợi kinh tế (như đối với người
được giao đất nông nghiệp lâu dài, trong hạn mức) theo quy định.
HTX nơng nghiệp Đơng Khê có văn bản đề nghị từ chối tham gia tố tụng
với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và đề nghị Tòa án xét xử
theo quy định vì HTX khơng có quyền lợi gì về kinh tế khi Nhà nước thu hồi đất
và các hộ gia đình đang sử dụng đất nơng nghiệp giao khốn được hưởng toàn bộ
quyền lợi kinh tế (như đối với người được giao đất nông nghiệp lâu dài, trong hạn
mức theo quy định).
Vì vậy, Tịa án nhân dân quận Ngơ Quyền khơng đưa HTX nông nghiệp
Đông Khê vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan cũng không ảnh hưởng, làm thay đổi kết quả giải quyết vụ án, nên yêu cầu
kháng cáo này của người khởi kiện là khơng có cơ sở chấp nhận.
Về việc tham gia tố tụng của UBND phường Đông Khê: Đối với vụ án này,
mặc dù UBND phường Đông Khê đứng tên trong sổ mục kê, địa chính nhưng

cũng khơng có quyền lợi gì về kinh tế khi Nhà nước thu hồi đất giao khốn của
các hộ gia đình đang sử dụng đất nông nghiệp tại phường Đông Khê, các hộ sử
dụng đất giao khốn được hưởng tồn bộ quyền lợi kinh tế (như đối với người
được giao đất nông nghiệp lâu dài, trong hạn mức) theo quy định. UBND phường
Đơng Khê có văn bản đề nghị từ chối tham gia tố tụng với tư cách là người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và đề nghị Tòa án xét xử theo quy định.
3. Về nội dung:

11


3.1. Đối với yêu cầu tuyên hành vi hành chính của UBND quận Ngô Quyền
khi thực hiện nhiệm vụ thu hồi đất, bồi thường về đất nhưng không ban hành
quyết định thu hồi đất; không ban hành quyết định phê duyệt phương án bồi
thường là trái quy định của pháp luật.
- Đối với yêu cầu tuyên hành vi hành chính của UBND quận Ngô Quyền khi
thực hiện nhiệm vụ thu hồi, bồi thường về đất nhưng không ban hành quyết định
thu hồi đất:
Về nguyên tắc, UBND quận Ngô Quyền phải ban hành quyết định thu hồi
đất đến từng hộ dân, nhưng xét tình hình quản lý thực tế đất nơng nghiệp tại khu
vực này như đã nêu ở trên do diện tích đất nơng nghiệp thuộc phường Đơng Khê
nằm trong quy hoạch đô thị, các hộ sử dụng đất giao khoán, tạm thời, chưa được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, khơng có các giấy tờ theo quy định tại
khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai. Diện tích đất giao khốn mà các hộ sử
dụng hiện Ủy ban nhân dân phường Đông Khê đứng tên trong sổ mục kê, địa
chính. Mặt khác xét q trình thực hiện trình tự kiểm kê, đền bù cũng như chính
sách và mức bồi thường, hỗ trợ cho các hộ dân có đất nơng nghiệp bị thu hồi đã
được áp dụng theo các chế độ chính sách tại thời điểm, khơng bị ảnh hưởng
quyền lợi về kinh tế, các hộ sử dụng đất giao khoán, tạm thời được hưởng các
quyền lợi kinh tế (như đối với người được giao đất nông nghiệp lâu dài, trong hạn

mức) theo quy định. Do đó tại thời điểm này UBND quận Ngô Quyền không phải
ban hành quyết định thu hồi đất riêng biệt đến từng hộ dân.
Do vậy, yêu cầu kháng cáo này của người khởi kiện là khơng có cơ sở để
chấp nhận.
3.2. Đối với yêu cầu tuyên hành vi hành chính của UBND quận Ngô Quyền
khi thực hiện nhiệm vụ thu hồi, bồi thường đất nhưng không thực hiện việc kiểm
kê, đo đạc trên thực địa đất, không ban hành quyết định phê duyệt phương án bồi
thường là trái quy định của pháp luật:
- Việc kiểm kê (kiểm đếm), đo đạc trên thực địa đất:
Trong quá trình thực hiện việc thu hồi, bồi thường đất đối với các hộ thuộc
dự án nói chung và hộ gia đình bà Trần Thị Ngần, Hội đồng bồi thường giải
phóng mặt bằng của UBND quận Ngơ Quyền có thơng báo, có tổ chức họp để
thơng báo về việc kiểm kê, lập phương án bồi thường giải phóng mặt bằng để
thực hiện dự án đường 100m; việc kiểm kê, đo đạc trên thực địa đất thể hiện tại
Biên bản kiểm kê ngày 28/3/2005 có chữ ký xác nhận của bà Trần Thị Ngần.
- Việc ban hành quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ khi thu
hồi đất:
Trên cơ sở kiểm kê, đo đạc trên thực địa đối với diện tích đất bị thu hồi của
các hộ, UBND quận Ngô Quyền cùng với các sở, ngành liên quan (Tài chính,
TNMT, XD) đã thực hiện việc lập phương án bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất

12


kèm theo Tờ trình số 231/TT-UB ngày 12/2/2007, Bản tổng họp kinh phí bồi
thường, hỗ trợ cho các hộ dân có đất bị thu hồi, trình UBND thành phố Hải
Phịng phê duyệt.
Ngày 13/3/2007, UBND thành phố Hải Phịng đã có Quyết định 377/QĐUB phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ thiệt hại đất đai, tài sản hoa màu trên
diện tích đất bị thu hồi; Thực hiện chỉ đạo của UBND thành phố tại Quyết định
giải quyết khiếu nại lần 2, ngày 21/9/2010 UBND quận Ngô Quyền đã ban hành

Quyết định số 2116/QĐ-UBND phê duyệt bổ sung phương án hỗ trợ về đất lần 1
đối với 83 trường hợp (hỗ trợ 70% tiền bồi thường đất nông nghiệp đối với hộ bà
Ngần bằng 6.616.995đ) và ngày 15/7/2011 ban hành Quyết định số 2307/QĐUBND phê duyệt bổ sung phương án hỗ trợ về đất lần 2 đối với 83 trường hợp
(hỗ trợ 30% tiền bồi thường đất nông nghiệp đối với hộ bà Ngần bằng
2.835.855đ).
Căn cứ quyết định phê duyệt phương án đền bù của UBND thành phố Hải
Phòng và các quyết định phê duyệt bổ sung trong quá trình giải quyết khiếu nại,
UBND quận Ngô Quyền đã nhiều lần thông báo cho các hộ có đất bị thu hồi lên
nhận tiền bồi thường. Đến nay, đã có 31/83 hộ nhận tiền và bàn giao đất để giải
phóng mặt bằng.
Như vậy, UBND quận Ngô Quyền đã thực hiện đúng việc kiểm kê, đo đạc
trên thực địa đất, trình UBND thành phố phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ
và ban hành quyết định phê duyệt bổ sung phương án bồi thường, hỗ trợ. Do vậy,
yêu cầu kháng cáo này của người khởi kiện là khơng có cơ sở.
Tuy nhiên, trên hồ sơ do UBND quận Ngơ Quyền cung cấp, khơng có tài
liệu chứng minh về việc đã thông báo và niêm yết công khai các Quyết định phê
duyệt phương án bồi thường; đã gửi phương án bồi thường chi tiết đến từng hộ
gia đình là có thiếu sót. UBND quận Ngơ Quyền cần tổ chức rút kinh nghiệm.
3.3. Đối với yêu cầu buộc UBND quận Ngô Quyền phải thực hiện lại các
trình tự, thủ tục về thu hồi, bồi thường về đất theo quy định của pháp luật, đồng
thời phải áp giá về đất theo quy định tại khoản 2 Điều 9 Nghị định số
197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ.
UBND quận Ngô Quyền không phải ban hành lại quyết định thu hồi đất cụ
thể đối với các hộ (trong đó có hộ bà Ngần) như đã phân tích ở trên. Mặt khác,
quyền lợi của người sử dụng đất giao khoán được hưởng toàn bộ quyền lợi kinh
tế (như đối vơi người được giao đất nông nghiệp lâu dài, trong hạn mức) theo quy
định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ thiệt hại đất đai, tài sản, hoa màu trên
diện tích đất bị thu hồi tại thời điểm năm 2007, cụ thể là:
- Theo Quyết định số 377/QĐ-UBND ngày 13/3/2007 của UBND thành phố
Hải Phòng về việc phê duyệt phương án bồi thường khi thu hồi, giao đất cho

Công ty Thương mại đầu tư Phát triển đô thị tại phường Đông Khê, quận Ngơ
Quyền, thì hộ bà Trần Thị Ngần được bồi thường hỗ trợ cụ thể như sau:
13


Tiền bồi thường đất nông nghiệp:
9.452.850đ,
Các khoản hỗ trợ:
18.045.350đ,
(Gồm: Chuyển nghề đối với đất nông nghiêp: 982.065đ; hỗ trợ hoa màu:
16.118.000đ; hỗ trợ thu hồi từ 50% tư liệu sản xuất là 10% giá đất = 5.500đ/m 2:
945.285đ)
Tổng cộng:
27.498.200đ.
Căn cứ Quyết định số 130/2010/QĐ-UBND ngày 22/01/2010; Quyết định số
1263/2010/QĐ-UBND ngày 30/7/2010 của UBND thành phố Hải Phịng, UBND
quận Ngơ Quyền đã lập phương án hỗ trợ bổ sung cho các hộ trong đó có hộ bà
Trần Thị Ngần. Cụ thể:
- Bổ sung đợt 1: Theo Quyết định số 2161/QĐ-UBND ngày 21/9/2010, Tờ
trình số 104/TTr-LP ngày 21/9/2010, hỗ trợ bổ sung 70% tiền bồi thường đất, hộ
bà Ngần được hỗ trợ bổ sung:
6.616.995đ
- Bổ sung đợt 2: Quyết định số 2307/QĐ-UBND ngày 15/7/2011, Tờ trình
số 78/TTr-LP ngày 15/7/2011, hỗ trợ bổ sung 30% tiền bồi thường về đất, hộ
bà Ngần được hỗ trợ bổ sung:
2.835.855đ.
Tổng cộng tiền bồi thường, hỗ trợ và các lần bổ sung bồi thường về đất, hộ
ông Ngọc được nhận tổng số tiền là:
27.498.200đ + 6.616.995đ + 2.835.855đ = 36.951.050đ.
Các văn bản Hội đồng bồi thường UBND quận Ngơ Quyền áp dụng để áp

giá, tính tốn các khoản bồi thường, hỗ trợ và hỗ trợ bổ sung là: Nghị định số
197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất; Quyết định số 485/QĐ-UB ngày 30/3/2005 về ban
hành quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên
địa bàn thành phố Hải Phòng; Quyết định số 572/QĐ-UBND ngày 22/3/2006 về
việc sửa đổi, bổ sung một số điểm quy định tại Quyết định số 485/QĐ-UBND;
Quyết định số 2802/2006/QĐ-UBND ngày 25/12/2006 của UBND thành phố Hải
Phòng về việc ban hành giá đất thực hiện trên địa bàn thành phố Hải Phòng năm
2007 và Quyết định số 130/2010/QĐ-UBND ngày 22/01/2010; Quyết định
1263/2010/QĐ-UBND ngày 30/7/2010 của UBND thành phố Hải Phòng về việc
sửa đổi bổ sung một số điều quy định chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư
khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hải Phòng và các công văn
hướng dẫn.
Như vậy, UBND quận Ngô Quyền căn cứ vào các văn bản trên, để áp giá
bồi thường về đất và các khoản hỗ trợ là đúng theo quy định pháp luật (giá trị đất
theo mục đích sử dụng trên địa bàn thành phố Hải Phòng tại thời điểm thu hồi đất
áp dụng theo khoản 1 Điều 9 Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004).
Ngồi ra, UBND quận Ngơ Quyền cịn bồi thường, hỗ trợ bổ sung thêm 02 đợt
bằng 100% số tiền bồi thường về đất cho các hộ dân có đất bị thu hồi và hỗ trợ 01
14


lần cho hộ gia đình có diện tích đất vượt hạn mức bình qn nhân khẩu (trong đó
có hộ bà Ngần).
Đồng thời, theo phân tích nêu trên thì u cầu áp giá về đất theo khoản 2
Điều 9 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ của các
hộ dân là khơng có cơ sở. Bởi UBND quận Ngơ Quyền đã áp giá bồi thường về
đất và các khoản hỗ trợ khác là đúng các quy định của Nhà nước tại thời điểm
năm 2007.
Về diện tích 634,03 m2 đất vượt hạn mức của hộ gia đình bà Trần Thị Ngần:

Diện tích đất bị thu hồi theo bình qn nhân khẩu là: 1.750 m 2 - 1.578,13 m2
= 171,87m2 (trong đó hộ bà Ngần đã được tính bồi thường về đất trong hạn mức
bình quân nhân khẩu là 1.578,13 m 2 tại các Quyết định số 2578/2000/QĐ-UB
ngày 26/12/2000 và Quyết định số 290/2003/QĐ-UB ngày 27/01/2003 của
UBND thành phố Hải Phòng). Như vậy diện tích đất bị thu hồi vượt hạn mức là
805,9 m2 - 171,87m2 = 634,03 m2.
Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm và tại phiên tịa, UBND quận Ngơ Quyền
đã có ý kiến về việc tự nguyện tính bổ sung hỗ trợ 01 lần đối với hộ bà Trần Thị
Ngần từ kinh phí đã được UBND thành phố phê duyệt đối với diện tích vượt hạn
mức tại Quyết định số 377/QĐ-UB ngày 13/3/2007 hỗ trợ thêm mỗi m 2 đất nông
nghiệp vượt hạn mức bằng 100% mức giá hỗ trợ chi phí đầu tư vào đất (bằng
30% giá đất theo hạng tại Quyết đinh số 377/QĐ-UB ngày 13/3/2007) theo Điều
23 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ, Điều 13 Quyết
định số 130/2010/QĐ-UBND ngày 22/01/2010 của UBND thành phố Hải Phòng.
Cụ thể đối với hộ bà Trần Thị Ngần: 634,03 m 2 X 30% X 55.000đ/m2 =
10.467.495d.
Mặt khác, theo quy định tại khoản 3 Điều 58 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP
ngày 25/5/2007 của Chính phủ, Tổ chức được giao thực hiện cơng tác bồi
thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư theo Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đã được cấp có thẩm
quyền phê duyệt; trong trường hợp người bị thu hồi đất không nhận tiền chi trả về
bồi thường, hỗ trợ thì Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng
chuyển khoản tiền chi trả vào tài khoản riêng mở tại Ngân hàng để đảm bảo
quyền lợi cho người có đất bị thu hồi.
Trong vụ án này, UBND quận Ngô Quyền chưa chỉ đạo Ban quản lý dự án
thực hiện chuyển khoản tiền chi trả cho các hộ chưa nhận tiền vào tài khoản riêng
mở tại Ngân hàng là chưa thực hiện đúng quy định tại khoản 3 Điều 58 Nghị định
số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ. Tại phiên tịa phúc thẩm, Ủy
ban nhân dân quận Ngô Quyền đồng ý chi trả thêm khoản tiền lãi theo lãi suất tiết
kiệm có kỳ hạn theo quy định của Ngân hàng khi chi trả các khoản tiền bồi

thường, hỗ trợ đối với hộ gia đình bà Ngần.

15


Do vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định chấp nhận một phần yêu cầu
kháng cáo của người khởi kiện, sửa một phần bản án hành chính sơ thẩm của Tịa
án nhân dân quận Ngơ Quyền theo hướng chấp nhận sự tự nguyện của UBND
quận Ngô Quyền về việc tính bổ sung kinh phí hỗ trợ đối với diện tích vượt hạn
mức là 10.467.495đ cho hộ bà Ngần (mỗi m2 đất nông nghiệp vượt hạn mức bằng
100% mức giá hỗ trợ chi phí đầu tư vào đất, bằng 30% giá đất theo hạng tại
Quyết định số 377/QĐ-UB ngày 13/3/2007) và trả thêm khoản tiền lãi theo lãi
suất tiết kiệm có kỳ hạn theo quy định của Ngân hàng đối với khoản tiền bồi
thường, hỗ trợ mà hộ gia đình bà Trần Thị Ngần được nhận.
Về án phí: Do Tịa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm nên bà Trần Thị
Ngần khơng phải nộp án phí hành chính phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
Căn cứ khoản 2 Điều 205 Luật Tố tụng hành chính;
QUYẾT ĐỊNH
Chấp nhận một phần kháng cáo của hộ gia đình bà Trần Thị Ngần, sửa một
phần bản án hành chính sơ thẩm.
Áp dụng Điều 4, 32, 38,39, 42, 44, 50, 56, 138 Luật đất đai năm 2003;
Áp dụng khoản 6 Điều 8, khoản 1 Điều 9, điểm c khoản 1, điểm b khoản 2
Điều 43 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ; khoản 3
Điều 58 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ; các Nghị
định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004, Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngàỵ
27/01/2006, Nghị định số 69/2009/NĐ-CP của Chính phủ; Thơng tư số
116/2004/TT-BTC ngày 07/12/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị
định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ;
Áp dụng các quy định tại Quyết định số 485/QĐ-UB ngày 30/3/2005 về ban

hành quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên
địa bàn thành phố Hải Phòng; Quyết định số 572/QĐ-UBND ngày 22/3/2006 về
việc sửa đổi, bổ sung một số điểm quy định tại Quyết định số 485/QĐ-UBND;
Quyết định số 2802/2006/QĐ-UBND ngày 25/12/2006 của UBND thành phố Hải
Phòng về việc ban hành giá đất thực hiện trên địa bàn thành phố Hải Phòng năm
2007; Quyết định số 130/2010/QĐ-UBND ngày 22/01/2010 ban hành quy định
về chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa
bàn thành phố Hải Phòng; Quyết định số 1263/2010/QĐ-UBND ngày 30/7/2010
của UBND thành phố Hải Phòng về việc sửa đổi bổ sung một số điều quy định
chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn
thành phố Hải Phòng.
Căn cứ khoản 2 Điều 34, khoản 2 Điều 37 Pháp lệnh số 10/20Ọ9/UBTVQH
12 ngày 27/02/2009 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 12 về án phí, lệ phí
Tịa án. Tun xử:

16


1. Bác yêu cầu khởi kiện của hộ gia đình bà Trần Thị Ngần đối với Uỷ ban
nhân dân quận Ngơ Quyền, thành phố Hải Phịng về những nội dung sau:
- Đề nghị tuyên bố các hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân quận Ngô
Quyền, thành phố Hải Phịng khi thu hồi đất, bồi thường về đất: khơng thực hiện
việc ban hành quyết định thu hồi đất đối với hộ gia đỉnh bà Trần Thị Ngần; không
ban hành quyết định phê duyệt phương án bồi thường là trái quy định của pháp
luật đất đai và các văn bản, nghị định hướng dẫn thi hành.
- Đề nghị buộc Ủy ban nhân dân quận Ngơ Quyền, thành phố Hải Phịng
phải thực hiện lại các trình tự, thủ tục về thu hồi, bồi thường đất theo quy định
của pháp luật.
- Đề nghị buộc Ủy ban nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng
phải áp giá bồi thường về đất theo quy định tại khoản 2 Điều 9 Nghị định

197/NĐ- CP ngay 03/12/2004.
2. Chấp nhận sự tự nguyện của Ủy ban nhân dân quận Ngơ Quyền về việc
bổ sung kinh phí hỗ trợ đối với diện tích vượt hạn mức là 10.467.495đ cho hộ bà
Ngần và trả thêm khoản tiền lãi theo lãi suất tiết kiệm có kỳ hạn theo quy định
của Ngân hàng đối với khoản tiền bồi thường, hỗ trợ mà hộ gia đình bà Trần Thị
Ngần được nhận khi thực hiện chi trả tiền.
3. Về án phí:
- Án phí hành chính sơ thẩm: Bà Trần Thị Ngần phải nộp 200.000đồng (Hai
trăm ngàn đồng) tiền án phí hành chính sơ thẩm, nhưng được trừ vào 200.000
đồng tiền tạm ứng án phí hành chính sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu tiền số
AA/2010/3129 ngày 12/12/2012 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngơ Quyền,
thành phố Hải Phịng. Bà Ngần đã nộp đủ tiền án phí hành chính sơ thẩm.
- Án phí hành chính phúc thẩm: Bà Trần Thị Ngần khơng phải nộp tiền án
phí hành chính phúc thẩm, được hồn trả lại 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng)
tiền tạm ứng án phí hành chính phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu tiền số
AA/2010/3291 ngày 22/4/2013 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền,
thành phố Hải Phịng.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND TPHP;
- Các đương sự;
- Chi cục THADS quận Ngơ Quyền;
- Tịa sơ thẩm;
- Lưu: Hồ sơ vụ án.

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TỊA

Dương Văn Chính


17


18



×