Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Phan tich hinh anh nguoi lao dong trong 3 kho cuoi bai tho doan thuyen danh ca

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (337.04 KB, 16 trang )

Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Phân tích hình ảnh người lao động trong 3 khổ cuối
bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
1. Tiểu sử tác giả Huy Cận
Huy Cận (1919 - 2005) tên khai sinh là Cù Huy Cận quê ở làng Ân Phú, huyện
Hương Sơn sau đó thuộc huyện Đức Thọ (nay là xã Ân Phú, huyện Vũ Quang),
tỉnh Hà Tĩnh.
Ông lúc nhỏ học ở quê, sau vào Huế học trung học, đậu tú tài Pháp; rồi ra Hà Nội
học trường Cao đẳng Canh nông. Từ năm 1942, ông tham gia phong trào sinh viên
yêu nước và Mặt trận Việt Minh, Huy Cận đã tham dự Quốc dân đại hội ở Tân
Trào (tháng 8 năm 1945) và được bầu vào Ủy ban Giải phóng (tức Chính phủ Cách
mạng lâm thời sau đó). Huy Cận cũng từng cộng tác với nhóm Tự Lực Văn Đồn.
Sau Cách mạng tháng Tám, ơng liên tục tham gia chính quyền cách mạng, giữ
nhiều trọng trách khác nhau như: Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Bộ trưởng đặc trách
cơng tác Văn hóa - Nghệ thuật tại Văn phịng Hội đồng Bộ trưởng, kiêm Chủ tịch
Ủy ban Trung ương Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam.
2. Sự nghiệp văn học của tác giả Huy Cận
Huy Cận yêu thích thơ ca Việt Nam, thơ Đường và chịu nhiều ảnh hưởng của văn
học Pháp. Ông là một trong những tác giả xuất sắc của phong trào Thơ mới.
Mỗi bài thơ của Huy Cận đều mang một phong cách đáng chú ý và có một điểm
chung là hàm súc, triết lý. Ơng là một đại biểu xuất sắc cho phong trào thơ mới với
hồn thơ ảo não.
Sáng tác của Huy Cận trước Cách mạng tháng 8 mang nét sầu não, buồn thương.
Còn sau Cách mạng tháng 8 thì lại mang nét tươi vui. Có thể thấy rằng các sáng tác
của Huy Cận luôn bám sát hiện thực cuộc sống, thời đại.
Huy Cận có năng lực cảm nhận cuộc sống thật đặc biệt, có thể nghe được từ những
biểu hiện tinh vi của tạo vật đến những biến đổi lớn lao trong vũ trụ vô cùng vô tận.
Hồn thơ Huy Cận luôn vận động giữa nhiều đối cực: vũ trụ - cuộc đời, sự sống cái chết, nỗi buồn - niềm vui, hiện thực - lãng mạn.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Huy Cận là nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn tầm cỡ thế giới. Tuy am hiểu nhiều nền
văn minh, văn hóa của nhân loại, hồn thơ ông vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Với vốn
văn hóa sâu rộng, năng lực xúc cảm, suy nghĩ phong phú và quan điểm nghệ thuật
rõ ràng, Huy Cận đã góp vào thi đàn một tiếng thơ có hương sắc riêng, làm rạng rỡ
diện mạo tâm hồn dân tộc

Phân tích hình ảnh người lao động trong khổ 3 bài thơ Đoàn
thuyền đánh cá
Nếu trước cách mạng tháng Tám, Huy Cận mang một hồn thơ của cái tôi ảo não
sầu bi – “một mạch sầu ngàn năm ngấm ngầm trong cõi đất này” (Hồi Thanh) thì
sau cách mạng tháng 8, Huy Cận hướng ngòi bút đến sự hòa hợp riêng - chung,
biểu hiện niềm vui và sự hòa nhập với cuộc đời mới. Bài thơ "Đoàn thuyền đánh
cá" được sáng tác vào năm 1958, trong hoàn cảnh miền Bắc nước ta đã được giải
phóng và đang từng bước xây dựng Chủ nghĩa xã hội, xây dựng cuộc sống mới
trong khơng khí hào hứng, phấn khởi. Bên cạnh bức tranh thiên nhiên vùng biển
đẹp, trù phú, thơ mộng thì bài thơ cịn khắc họa thành cơng hình ảnh người ngư
dân lao động đánh bắt cá chứa chan sức sống, khỏe khoắn, tươi vui tràn đầy tinh
thần hăng say trong công việc.
Thi phẩm là một sự sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà thơ trong việc xây dựng
hình ảnh bằng sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú, hấp dẫn. Âm hưởng chung
của toàn bài: khỏe khoắn, tươi vui, hào hùng, lạc quan mạnh mẽ.
Trước hết mở đầu bài thơ là những con người hăng say, miệt mài lao động không
quản ngày đêm làm giàu cho quê hương, đất nước:
Mặt trời xuống biển như hịn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đồn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Cứ mỗi khi ánh mặt trời ở phía đằng Đơng ngả về phía Tây, cánh cửa màn đêm của
vũ trụ như khép lại sau một chu trình hoạt động thì những người ngư dân lại bắt
đầu dong thuyền ra khơi đánh cá. Từng đoàn, từng đoàn thuyền lần lượt nhổ neo
tiến về biển lớn đại dương. Phụ từ “lại” như vừa diễn tả sự đối lập giữa hoạt động
của vũ trụ với hoạt động của đoàn thuyền; đồng thời cũng gợi lên tư thế chủ động,
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

hết sức khẩn trương, mau lẹ, tích cực trong công việc mà hằng ngày cứ diễn ra lặp
đi lặp lại của người dân chài lưới: "lại ra khơi". Tuy nhiên, khí thế ra khơi của họ
vẫn hăm hở, náo nức, rộn rã tiếng nói, tiếng hát vui cười. “Câu hát căng buồm” là
một ẩn dụ đẹp, biểu trưng cho tâm hồn lạc quan, niềm vui và sức mạnh của con
người lao động. Và họ hiện lên như những vị chủ nhân mới của biển cả đại dương.
Chính tiếng hát đã hịa cùng với gió trời thổi phồng cánh buồm, đẩy con thuyền
tiến ra ra khơi xa. Câu thơ gắn kết ba sự vật và hiện tượng: cánh buồm, gió khơi,
và câu hát, tạo nên hình ảnh vùa thực, vừa lãng mạn, khỏe và lạ. Tâm tư của người
đánh cá gửi gắm trong tiếng hát: phấn khởi, say mê với công việc và niềm hi vọng
tin tưởng sẽ bắt được nhiều cá tôm, đem về làm giàu cho tổ quốc.
Hát rằng cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đơng như đồn thoi
Đêm ngày dệt biển mn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đồn cá ơi!
Với hình thức liệt kê hình ảnh các lồi cá: cá bạc, cá thu, Huy Cận đã cho người
đọc thấy sự giàu có của biển Đơng. Biển Đơng có rất nhiều cá và đang chờ mọi
người tới khai thác. Cá được nhà thơ so sánh “như đoàn thoi”. Đoàn thoi hoạt động
rất nhanh và nhiều trên bến phà. Và cá ở biển Đông cũng nhiều và bơi rất nhanh
như thoi đưa vậy. Câu thơ cất cao lên tiếng hát, tràn ngập niềm say mê, phấn khởi
trước sự ưu ái của thiên nhiên ban tặng cho người dân vùng chài. Vì thế, hai câu

thơ cuối, Huy Cận như nhập thân vào người lao động, thể hiện niềm mong mỏi của
người ngư dân có thể bắt được nhiều cá tôm. Họ hi vọng, những đàn cá "đêm ngày
dệt biển" ấy sẽ vào “dệt lưới” của đoàn thuyền. Vần "ơi" kết hợp với dấu chấm
cảm ở câu thơ cuối khiến cho hình ảnh của những đàn cá hiện lên thật sinh động,
thật gần gũi, thân thiết với con người.
Trong bài thơ, có bảy khổ thơ thì tới có bốn khổ thơ xuất hiện từ "hát" (4 lần)
nhưng lại có sắc thái ý nghĩa khác nhau: khi bắt đầu ra khơi thì họ cất cao tiếng hát
để đẩy thuyền ra khơi "Câu hát căng buồm cùng gió khơi"; khi đưa được chiếc
thuyền tiến ra giữa biển, chứng kiến sự giàu đẹp của biển Đơng thì họ lại hát lên
bài ngợi ca biển cả "Hát rằng cá bạc biển Đông lặng/ Cá thu biển Đơng như đồn
thoi"; khi tung chài bắt cá thì họ lại cát lên tiếng hát gọi cá vào lưới "Ta hát bài ca
gọi cá vào"; và đến khi trở về, tiếng hát của họ lại hòa cùng với gió trời, thổi căng
cánh buồm đẩy thuyền về đất liền: "Câu hát căng buồm với gió khơi". Như vậy,
xuyên suốt bài thơ, tiếng hát của người lao động cứ réo rắc, ngân nga, vang vọng
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

giữa biển trời thật vui tươi, sống động. Điều đó khơng chỉ cho thấy tinh thần lao
động đầy hăng say, hào hứng mà còn mở ra một tâm hồn đầy lạc quan, đầy tin
tưởng, hi vọng vào cuộc sống mới của người ngư dân miền biển.
Với tài năng quan sát miêu tả tinh tế, hòa cùng với cảm hứng vũ trụ thật mãnh liệt,
Huy Cận đã phóng bút tái hiện vẻ đẹp của cảnh đánh cá trên biển trong đêm trăng
với niềm vui phấn khởi của con người lao động thật hào hùng, mạnh mẽ và đầy
chất thơ, chất họa:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng

Dưới sự hình dung và tưởng tượng bay bổng, hình ảnh con thuyền đánh cá hiện lên
thật đẹp, thật độc đáo, mang tầm vóc vũ trụ: người lái thì là gió trời; cánh buồm thì
là vầng trăng và con thuyền đang bay giữa khơng trung (lướt giữa mây cao), như
có thể chạm vào mây trời. Nó khác hẳn với con thuyền cơ đơn, nhỏ bé, lạc lõng
giữa không cùng trời đất mênh mang trong bài thơ "Tràng Giang" trước cách mạng:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dịng.
Cịn ở đây, con thuyền khơng hề nhỏ bé, đơn độc mà lại rất lớn lao, như vươn tới
sao trời trước biển rộng bao la. Bức tranh không gian của biển cả được mở rộng ra
ba chiều: chiều cao của mây, chiều sâu của bụng biển và chiều rộng của biển khơi
có tác dụng tơn thêm tầm vóc lớn lao của con thuyền và con người lao động. Các
động từ được sử dụng dày đặc: “lái – lướt - đậu – dị – dàn đan – vây giăng” có tác
dụng diễn tả hành động đánh cá rất nhanh, rất khẩn trương của những đồn thuyền
đánh cá trên biển. Hình ảnh: “dàn đan thế trận” là một hình ảnh ẩn dụ cho hành
động đánh cá của ngư dân. Đánh cá nhưng cũng cần phải bày binh bố trận, có
chiến thuật, chiến lược thì mới có thể bắt được nhiều tơm cá. Chính vì thế, họ đã
đưa con thuyền tiến ra tận khơi xa, dị bụng biển để tìm được nguồn cá lớn. Và
nhưng con thuyền hiện lên như là những con tuấn mã, băng băng lướt qua sóng đèo,
chinh phục tự nhiên. Và ngư dân thì làm việc với tinh thần dũng cảm, hăng say và
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

trí tuệ nghề nghiệp với một tâm hồn phơi phới của người làm chủ thiên nhiên, vũ
trụ.
Đặc biệt, hình ảnh người lao động hiện lên thật sống động, trở thành trung tâm của
bức tranh thiên nhiên với những nét phác họa tạo hình đầy góc cạnh, gân guốc,

khỏe khoắn trong cảnh kéo lưới khi trời bắt đầu sáng:
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vẩy bạc đi vàng lóe rạng đơng
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
"Sao mờ" là khoảng thời gian chuẩn bị trời đã bắt đầu rạng sáng, đó cũng chính lúc
cơng việc của người ngư dân càng trở nên khẩn trương, mau lẹ để kéo lưới cho kịp
trời sáng. Cảnh lao động hiện lên như một bức tranh sống động, với những nét tạo
hình đầy khỏe khắn, gân guốc với hình ảnh trung tâm là con người lao động. Cụm
từ “kéo xoăn tay” không chỉ cho thấy những mẻ cá bội thu, nặng trĩu mà đây còn là
một nét vẽ tạo hình với những bắp thịt săn chắc của những chàng thanh niên ngư
dân cuồn cuộn nổi lên để kéo cá vào khoang thuyền. Từ đó khiến ta chợt nhớ tới
câu thơ của nhà thơ Tế Hanh trong bài thơ “Quê hương” khi cũng viết về dân chài
lưới quê mình:
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm.
Ánh nắng hồng của bình minh hịa cùng với sắc màu của cá: “bạc”, “vàng” có tác
dụng tơ đậm thêm sự giàu có và q giá “rừng vàng bể bạc” của biển cả mà thiên
nhiên ban tặng cho con người. "Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng” gợi tả công
việc nhịp nhàng của ngư dân với sự vận hành của vũ trụ. Khi lưới xếp lên khoang
cũng là lúc đồn thuyền trở về đón ánh bình minh, kết thúc một ngày lao động vất
vả, mệt nhọc. Hình ảnh “nắng hồng” ở cuối khổ thơ biểu tượng cho niềm vui, niềm
lạc quan tin tưởng của người lao động trước thành quả mà họ đã gặt hái được. Và
người ngư dân như càng thấm thía hơn niềm vui và sự biết ơn đối với người mẹ
biển khơi:
Biển cho ta cá như lịng mẹ
Ni lớn đời ta tự buổi nào.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Nghệ thuật so sánh và nhân hóa vừa cho thấy được tình cảm bao la, vĩ đại, cao cả
của người mẹ biển cả tự nhiên; lại vừa bộc lộ niềm biết ơn sâu sắc của con người
ngư dân đối với người mẹ thiên nhiên, vũ trụ.
Bài ca lao động khép lại trong khổ thơ cuối với hình ảnh đồn thuyền trở về trong
thắng lợi lúc bình minh lên. Lúc này, con người lao động trở nên hài hòa cùng với
vũ trụ thiên nhiên: phấn khởi, hồ hởi trong niềm vui chiến thắng sau một đêm kéo
lưới vất vả:
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Đồn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hồng mn dặm phơi.
Mở đầu bài thơ lúc ra khơi bắt cá là câu hát và khép lại bài thơ khi đoàn thuyền
đánh cá trở về cũng là câu hát của con người lao động ngư dân làng chài, điều đó
cho thấy cả hành trình đánh bắt cá của ngư dân đã trở thành bài ca lao động. Nếu
tiếng hát mở đầu khi ra khơi là tiếng hát biểu trưng cho tinh thần lạc quan, niềm hi
vọng, tin tưởng để rồi khi trở về sẽ bắt được nhiều cá tơm, làm giàu cho tổ quốc
thân u thì câu hát ở cuối bài thơ lại biểu tượng cho niềm vui sướng, hạnh phúc
trước thành quả lao động mà họ đã gặt hái được sau một đêm kéo lưới vất vả. Hình
ảnh mặt trời cũng là hình ảnh được lặp lại khi mở đầu và kết thúc bài thơ. Mở đầu
là hình ảnh mặt trời xuống biển, kết thúc bài thơ lại là mặt trời đội biển giữa mn
trùng sóng nước. Điều đó gợi nên sự vận động của thời gian và cơng việc lao động
của con người đã hồn tất. Tuy nhiên, sắc thái ý nghĩa qua mỗi lần hình ảnh "mặt
trời" xuất hiện lại khác nhau. Nếu như hình ảnh mặt trời ở khổ đầu báo hiệu thời
khắc của ngày tàn, đêm xuống và công việc lao động của người ngư dân bắt đầu
mở ra thì "mặt trời" ở khổ cuối lại báo hiệu thời khắc của một ngày mới bình minh,
biểu tượng cho ánh sáng mới, cuộc sống mới, chan chứa niềm vui, hạnh phúc của
con người sau chuyến hành trình lao động nhọc nhằn, gian khó, hiểm nguy. Trong
bức tranh ấy, con người ngư dân xuất hiện trong tư thế sánh ngang với mặt trời, với

thiên nhiên, vũ trụ: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Từ "với", "cùng" đã
diễn tả sự hài hòa cân đối giữa thiên nhiên và con người lao động. Nếu trong thơ
xưa, con người thường chìm khuất trước thiên nhiên thì nay, dưới cái nhìn của
người chiến sĩ cách mạng trong thời đại mới, con người hiện lên thật tự tin, mạnh
mẽ trong tư thế “chạy đua” với vũ trụ, trời đất. Và sự thực thì con người đã chiến
thắng. Bởi khi mặt trời lóe rạng đơng thì cũng là lúc đồn thuyền đã trở về bến đỗ.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Ánh mặt trời đã điểm tơ cho thành quả lao động thêm rực rỡ. Mặt trời chiếu rọi vào
những mắt cá khiến muôn mắt cá như muôn mặt trời tỏa ánh huy hoàng. Như vậy
khổ thơ cuối đã khắc họa thành cơng hình ảnh đồn thuyền và con người ngư dân
hiện lên thật lớn lao, kì vĩ, thể hiện niềm vui, niềm hân hoan vào thành quả lao
động, niềm tin tưởng vào cuộc sống mới, vào ngày mai tươi sáng của đất nước.
Nét nghệ thuật đặc sắc và nổi bật của "Đồn thuyền đánh cá" là hình ảnh thơ. Cả
bài thơ được dệt bằng nhiều hình ảnh đẹp, đa dạng, rộng lớn và tinh tế với nhiều
màu sắc. Hầu như ở khổ thơ nào cũng có những hình ảnh đặc sắc, mới mẻ. Nhà thơ
đã sáng tạo hình ảnh từ sự quan sát, cảm nhận chính xác về sự vật kết hợp với sự
liên tưởng và trí tưởng tượng mạnh bạo cùng với cảm hứng lãng mạn bay bổng.
Phương thức nghệ thuật chủ yếu và phổ biến để xây dựng hình ảnh trong bài thơ
này là so sánh và ẩn dụ, tượng trưng, thêm vào đó là lối phóng đại, khoa trương đã
đạt được hiệu quả thẩm mĩ và tạo được dấu ấn riêng cho thi phẩm. Bên cạnh đó thì
các yếu tố như lời thơ, nhịp điệu, vần... cũng tạo nên âm hưởng giọng điệu khỏe
khoắn, tơi vui, mạnh mẽ... góp phần làm nên một bức tranh lao động thật đẹp, thật
sống động.
Tóm lại, với cảm hứng lãng mạn bay bổng, nhà thơ đã phác họa thành cơng hình
ảnh người lao động với niềm vui phấn khởi của họ trong cuộc sống mới. Bài thơ có
thể coi là một bản tráng ca anh hùng lao động tuyệt vời, thể hiện sự hài hòa giữa

thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước
sự hồi sinh của đất nước và cuộc sống mới trong công cuộc xây dựng cuộc sống
mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc Việt Nam trong những năm đầu lịch
sử.

Hình ảnh người lao động trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
mẫu 1
Nhà thơ Huy Cận sáng tác bài thơ Đoàn thuyền đánh cả vào năm 1958, tại vùng
biển tỉnh Quảng Ninh. Bài thơ ra đời trong giai đoạn miền Bắc nước ta đang xây
dựng chủ nghĩa xã hội và phát triển kinh tế văn hóa sơi nổi. Đây được xem là một
trong những bài thơ hay viết về đề tài cổ vũ lao động khi nhân dân làm chủ cuộc
đời
Bài thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá gồm bảy đoạn thơ tường thuật lại hành trình đồn
thuyền của ngư dân Quảng Ninh ra khơi đánh bắt cá: Mở đầu là giới thiệu ra khơi
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

lúc hồng hơn chiều xuống, tiếp đến là cảnh đánh bắt cá trong đêm trăng sáng trên
biển vịnh Hạ Long và trở về bến cảng vào lúc rạng đông. Ba khổ thơ cuối là khúc
hát mê say của người lao động kéo lưới lúc mờ sáng và cảnh đồn thuyền buồm
căng lộng gió trở về (Trích dẫn thơ).
Cảnh đánh cá về đêm giữa biển thật vất vả và cũng lắm hiểm nguy. Và để xua tan
đi cái mệt nhọc ấy, những tiếng hát văng vẳng cất lên giữa không gian bao la. Âm
thanh tiếng hát không bao giờ dứt giữa biển cả mênh mông. Tiếng hát căng đầy sức
sống của người lao động mới:
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lịng mẹ

Ni lớn đời ta tự buổi nào.
Trăng in xuống nước, sóng xơ bóng trăng dưới nước như gõ vào mạn thuyền tạo
nên nhịp trăng để xua cá vào lưới. Thiên nhiên và con người cùng một nhịp lao
động. Công việc đánh cá vào đêm vốn nặng nhọc, vất vả đã thành bài ca lao động
đầy niềm vui nhịp nhàng, cùng thiên nhiên vừa hùng tráng vừa thơ mộng. Tiếng
hát lạc quan của những người ngư dân lao động Hịn Gai làm cho cơng việc vơi đi
nỗi mệt nhọc.
Hình ảnh gọi cá vào chính là cơng việc vất vả của ngư dân. Nhưng dưới ngòi bút
của Huy Cận, ông đã biến công việc nặng nhọc này thành niềm vui say mang đầy
chất thơ. Lời ca gọi cá vào lưới nâng cao thêm cái chất thơ mộng của bức tranh.
Ngư dân gõ thuyền xua cá vào lưới. Nhưng ở đây không phải con người mà là ánh
trăng in xuống nước óng ánh, trăng gõ vào mạn thuyền, mn vàn ánh vàng tan ra
theo làn sóng vỗ vào mạn thuyền. Hiện thực được trí tưởng tượng sáng tạo thành
hình ảnh lãng mạn giàu chất thơ. Cái nhìn của tác giả đối với con người là cái nhìn
tươi tắn đầy lạc quan. Từ gõ và hát trong câu thơ giúp ta hình dung cảnh đánh cá
ngồi khơi thật sinh động và hấp dẫn. Biển hào phóng cho ta nhiều tơm cá, con
người chinh phục thiên nhiên cũng đầy lòng biết ơn:
Biển cho ta cá như lịng mẹ
Ni lớn đời ta tự buổi nào.
Biển như lòng mẹ ấm áp chan chứa nghĩa tình. Nghệ thuật so sánh độc đáo cho ta
thấy sự phong phú của tài ngun biển góp phần ni sống con người dưới bàn tay
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

lao động khai thác của những ngư dân. Nếu như mẹ ni con bằng dịng sữa ngọt
ngào tinh khiết từ thuở ấu thơ đến khi trưởng thành thì biển cả, dù những ngày
sóng lặng gió êm hay bão tố cuồng nộ thì lúc nào biển cũng hào phóng ban tặng
cho ngư dân nguồn hải sản quý báu. Chính bà mẹ biển cả bao la đó đã ni sống

con người bao thế hệ. Giọng thơ tha thiết chân thành. Niềm say sưa hào hứng và
những ước mơ cháy bỏng của con người muốn hòa hợp với thiên nhiên và chinh
phục thiên nhiên bằng công việc lao động của mình:
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay đàn cá nặng
Vẩy bạc đi vàng lóe rạng đơng
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
Hình ảnh sao mờ là tín hiệu thời gian: đêm sắp tàn, ngày đã đến – thời điểm công
việc đánh cá diễn ra khẩn trương để thu hoạch cá. Cơng việc gần hồn tất, người
lao động vui mừng với thành quả gặt hái được chùm cá nặng. Bóng đêm tan dần,
ngày bắt đầu đến, nhịp độ lao động càng khẩn trương. Nhịp thơ 2/2/3 phù hợp nhịp
điệu khẩn trương của đoàn thuyền. Yếu tố thực sao mờ giúp ta hiểu được đoàn
người yêu lao động. Họ đã thức thâu đêm để kéo lưới. Hình ảnh lao động nhọc
nhằn nhưng rất hào hùng ấy thể hiện qua những từ ngữ gợi tả độc đáo kéo xoăn tay,
chùm cá nặng là cách so sánh thú vị, sinh động giúp ta hình dung cá nhiều vơ kể:
chúng chen nhau như chùm quả. Chùm cá nặng còn tượng trưng cho thành quả lao
động thắng lợi, nó chất chứa bao niềm vui hạnh phúc của ngư dân.
Từ lóe được dùng rất hay và gợi tả ánh bình minh đang lên, vừa gợi lên động tác
nhảy nhót của đàn cá trong mẻ lưới. Lưới kéo lên, những tia nắng sớm rực rỡ chiếu
trên khoang thuyền đầy ắp cá làm lấp lánh màu sắc tạo nên vảy bạc đi vàng. Câu
thơ có màu sắc rực rỡ nhưng bất ngờ nhất là hình ảnh lóe rạng đơng, đi vẩy của
những con cá. Khoang thuyền đầy ắp cá. Nghệ thuật sử dụng màu sắc thật hài hòa:
màu sắc bạc, vàng tạo ánh hồng làm cho bức tranh có một gam màu lộng lẫy, rực
rỡ. Tiếng hát căng buồm đưa đoàn thuyền ra khơi, giờ đây tiếng hát căng buồm
cùng đoàn thuyền đầy ắp cá trở về. Trí tưởng tượng đã nối dái chắp cánh cho hiện
thực trở nên kì ảo:
Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Mặt trời đội biển nhơ màu mới
Mắt cá huy hồng mn dặm phơi
Câu thứ nhất lặp lại câu cuối khổ thơ tạo một cảm giác tuần hoàn: câu hát căng
buồm đưa thuyền đi thì nay vẫn câu hát ấy căng buồm đưa thuyền về. Nhưng bây
giờ thuyền trở về một tư thế mới: Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời. Và trong
cuộc chạy đua này, con người đã chiến thắng, đã về đích trước. Khi mặt trời đội
biển đem màu đỏ sáng cho đất trời thì con người đã về bến. Lại thêm một sự hòa
hợp nhịp nhàng giữa con người và vũ trụ. Biện pháp nói q kết hợp hình ảnh hốn
dụ mắt cá huy hồng mn dặm phơi, đã vẻ lên khơng khí được mùa cá thu hoạch
thắng lợi và cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân vùng biển. Ánh mặt trời
điểm tô cho thành quả lao động thêm rực rỡ: muôn mắt cá như mn ánh mặt trời
tỏa ánh huy hồng. Thuyền và người luôn nổi bật giữa vũ trụ lớn lao và niềm vui
chiến thắng cũng mang tầm vóc lớn.
Đoạn thơ miêu tả cảnh biển khơi về đêm thật đẹp, thật tráng lệ thể hiện năng lực
quan sát và đầu óc bay bổng của nhà thơ. Thiên nhiên đã hào phóng ban tặng cho
những ngư dân chăm chỉ lao động thu hoạch được nhiều mẻ cá lớn. Công việc
đánh cá về đêm thật vất vả, nặng nhọc nhung đã đem lại cho con người một cuộc
sống ấm no hạnh phúc. Niềm phấn khởi của ngư dân cũng là dấu hiệu của cuộc
sống đang chuyển biến lên một tầm cao mới.
Với cách sử dụng màu sắc, cách vận dụng các thủ pháp nghệ thuật như ẩn dụ, hốn
dụ, nhân hóa và thậm xưng, Huy Cận đã sáng tạo được nhiều hình ảnh đẹp, đầy ý
nghĩa. Ba khổ thơ cuối toát lên vẻ đẹp của vùng biển quê hương, của khung cảnh
lao động, là niềm vui của con người đã làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc sống.
Đoạn thơ còn là bài ca dành cho biển hào phóng, cho những con người cần cù, gan
góc đang làm giàu cho đất nước. Chúng ta cùng chia sẻ niềm vui to lớn với nhà thơ,
với tất cả những người lao động mới đang kiêu hãnh ngẩng cao đầu trên con đường

đi tới tương lai tươi sáng.

Hình ảnh người lao động trong bài thơ Đồn thuyền đánh cá
mẫu 2
Nếu trước cách mạng tháng Tám, Huy Cận mang một hồn thơ của cái tôi ảo não
sầu bi – “một mạch sầu ngàn năm ngấm ngầm trong cõi đất này” (Hồi Thanh) thì
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

sau cách mạng tháng 8, Huy Cận hướng ngòi bút đến sự hòa hợp riêng - chung,
biểu hiện niềm vui và sự hòa nhập với cuộc đời mới. Bài thơ "Đoàn thuyền đánh
cá" được sáng tác vào năm 1958, trong hoàn cảnh miền Bắc nước ta đã được giải
phóng và đang từng bước xây dựng Chủ nghĩa xã hội, xây dựng cuộc sống mới
trong khơng khí hào hứng, phấn khởi. Bên cạnh bức tranh thiên nhiên vùng biển
đẹp, trù phú, thơ mộng thì bài thơ cịn khắc họa thành cơng hình ảnh người ngư
dân lao động đánh bắt cá chứa chan sức sống, khỏe khoắn, tươi vui tràn đầy tinh
thần hăng say trong công việc.
Thi phẩm là một sự sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà thơ trong việc xây dựng
hình ảnh bằng sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú, hấp dẫn. Âm hưởng chung
của toàn bài: khỏe khoắn, tươi vui, hào hùng, lạc quan mạnh mẽ.
Trước hết mở đầu bài thơ là những con người hăng say, miệt mài lao động không
quản ngày đêm làm giàu cho quê hương, đất nước:
Mặt trời xuống biển như hịn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đồn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Cứ mỗi khi ánh mặt trời ở phía đằng Đơng ngả về phía Tây, cánh cửa màn đêm của
vũ trụ như khép lại sau một chu trình hoạt động thì những người ngư dân lại bắt

đầu dong thuyền ra khơi đánh cá. Từng đoàn, từng đoàn thuyền lần lượt nhổ neo
tiến về biển lớn đại dương. Phụ từ “lại” như vừa diễn tả sự đối lập giữa hoạt động
của vũ trụ với hoạt động của đoàn thuyền; đồng thời cũng gợi lên tư thế chủ động,
hết sức khẩn trương, mau lẹ, tích cực trong cơng việc mà hằng ngày cứ diễn ra lặp
đi lặp lại của người dân chài lưới: "lại ra khơi". Tuy nhiên, khí thế ra khơi của họ
vẫn hăm hở, náo nức, rộn rã tiếng nói, tiếng hát vui cười. “Câu hát căng buồm” là
một ẩn dụ đẹp, biểu trưng cho tâm hồn lạc quan, niềm vui và sức mạnh của con
người lao động. Và họ hiện lên như những vị chủ nhân mới của biển cả đại dương.
Chính tiếng hát đã hịa cùng với gió trời thổi phồng cánh buồm, đẩy con thuyền
tiến ra ra khơi xa. Câu thơ gắn kết ba sự vật và hiện tượng: cánh buồm, gió khơi,
và câu hát, tạo nên hình ảnh vừa thực, vừa lãng mạn, khỏe và lạ. Tâm tư của người
đánh cá gửi gắm trong tiếng hát: phấn khởi, say mê với công việc và niềm hi vọng
tin tưởng sẽ bắt được nhiều cá tôm, đem về làm giàu cho tổ quốc.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Hát rằng cá bạc biển Đơng lặng
Cá thu biển Đơng như đồn thoi
Đêm ngày dệt biển mn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đồn cá ơi!
Với hình thức liệt kê hình ảnh các lồi cá: cá bạc, cá thu, Huy Cận đã cho người
đọc thấy sự giàu có của biển Đơng. Biển Đơng có rất nhiều cá và đang chờ mọi
người tới khai thác. Cá được nhà thơ so sánh “như đoàn thoi”. Đoàn thoi hoạt động
rất nhanh và nhiều trên bến phà. Và cá ở biển Đông cũng nhiều và bơi rất nhanh
như thoi đưa vậy. Câu thơ cất cao lên tiếng hát, tràn ngập niềm say mê, phấn khởi
trước sự ưu ái của thiên nhiên ban tặng cho người dân vùng chài. Vì thế, hai câu
thơ cuối, Huy Cận như nhập thân vào người lao động, thể hiện niềm mong mỏi của

người ngư dân có thể bắt được nhiều cá tôm. Họ hi vọng, những đàn cá "đêm ngày
dệt biển" ấy sẽ vào “dệt lưới” của đoàn thuyền. Vần "ơi" kết hợp với dấu chấm
cảm ở câu thơ cuối khiến cho hình ảnh của những đàn cá hiện lên thật sinh động,
thật gần gũi, thân thiết với con người.
Trong bài thơ, có bảy khổ thơ thì tới có bốn khổ thơ xuất hiện từ "hát" (4 lần)
nhưng lại có sắc thái ý nghĩa khác nhau: khi bắt đầu ra khơi thì họ cất cao tiếng hát
để đẩy thuyền ra khơi "Câu hát căng buồm cùng gió khơi"; khi đưa được chiếc
thuyền tiến ra giữa biển, chứng kiến sự giàu đẹp của biển Đơng thì họ lại hát lên
bài ngợi ca biển cả "Hát rằng cá bạc biển Đơng lặng/ Cá thu biển Đơng như đồn
thoi"; khi tung chài bắt cá thì họ lại cất lên tiếng hát gọi cá vào lưới "Ta hát bài ca
gọi cá vào"; và đến khi trở về, tiếng hát của họ lại hịa cùng với gió trời, thổi căng
cánh buồm đẩy thuyền về đất liền: "Câu hát căng buồm với gió khơi". Như vậy,
xuyên suốt bài thơ, tiếng hát của người lao động cứ réo rắc, ngân nga, vang vọng
giữa biển trời thật vui tươi, sống động. Điều đó khơng chỉ cho thấy tinh thần lao
động đầy hăng say, hào hứng mà còn mở ra một tâm hồn đầy lạc quan, đầy tin
tưởng, hi vọng vào cuộc sống mới của người ngư dân miền biển.
Với tài năng quan sát miêu tả tinh tế, hòa cùng với cảm hứng vũ trụ thật mãnh liệt,
Huy Cận đã phóng bút tái hiện vẻ đẹp của cảnh đánh cá trên biển trong đêm trăng
với niềm vui phấn khởi của con người lao động thật hào hùng, mạnh mẽ và đầy
chất thơ, chất họa:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Ra đậu dặm xa dị bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Dưới sự hình dung và tưởng tượng bay bổng, hình ảnh con thuyền đánh cá hiện lên

thật đẹp, thật độc đáo, mang tầm vóc vũ trụ: người lái thì là gió trời; cánh buồm thì
là vầng trăng và con thuyền đang bay giữa không trung (lướt giữa mây cao), như
có thể chạm vào mây trời. Nó khác hẳn với con thuyền cơ đơn, nhỏ bé, lạc lõng
giữa không cùng trời đất mênh mang trong bài thơ "Tràng Giang" trước cách mạng:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khơ lạc mấy dịng.
Cịn ở đây, con thuyền không hề nhỏ bé, đơn độc mà lại rất lớn lao, như vươn tới
sao trời trước biển rộng bao la. Bức tranh không gian của biển cả được mở rộng ra
ba chiều: chiều cao của mây, chiều sâu của bụng biển và chiều rộng của biển khơi
có tác dụng tơn thêm tầm vóc lớn lao của con thuyền và con người lao động. Các
động từ được sử dụng dày đặc: “lái – lướt - đậu – dị – dàn đan – vây giăng” có tác
dụng diễn tả hành động đánh cá rất nhanh, rất khẩn trương của những đồn thuyền
đánh cá trên biển. Hình ảnh: “dàn đan thế trận” là một hình ảnh ẩn dụ cho hành
động đánh cá của ngư dân. Đánh cá nhưng cũng cần phải bày binh bố trận, có
chiến thuật, chiến lược thì mới có thể bắt được nhiều tơm cá. Chính vì thế, họ đã
đưa con thuyền tiến ra tận khơi xa, dị bụng biển để tìm được nguồn cá lớn. Và
những con thuyền hiện lên như là những con tuấn mã, băng băng lướt qua sóng đèo,
chinh phục tự nhiên. Và ngư dân thì làm việc với tinh thần dũng cảm, hăng say và
trí tuệ nghề nghiệp với một tâm hồn phơi phới của người làm chủ thiên nhiên, vũ
trụ.
Đặc biệt, hình ảnh người lao động hiện lên thật sống động, trở thành trung tâm của
bức tranh thiên nhiên với những nét phác họa tạo hình đầy góc cạnh, gân guốc,
khỏe khoắn trong cảnh kéo lưới khi trời bắt đầu sáng:
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vẩy bạc đi vàng lóe rạng đơng
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

"Sao mờ" là khoảng thời gian chuẩn bị trời đã bắt đầu rạng sáng, đó cũng chính lúc
công việc của người ngư dân càng trở nên khẩn trương, mau lẹ để kéo lưới cho kịp
trời sáng. Cảnh lao động hiện lên như một bức tranh sống động, với những nét tạo
hình đầy khỏe khoắn, gân guốc với hình ảnh trung tâm là con người lao động. Cụm
từ “kéo xoăn tay” không chỉ cho thấy những mẻ cá bội thu, nặng trĩu mà đây còn là
một nét vẽ tạo hình với những bắp thịt săn chắc của những chàng thanh niên ngư
dân cuồn cuộn nổi lên để kéo cá vào khoang thuyền. Từ đó khiến ta chợt nhớ tới
câu thơ của nhà thơ Tế Hanh trong bài thơ “Quê hương” khi cũng viết về dân chài
lưới quê mình:
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm.
Ánh nắng hồng của bình minh hịa cùng với sắc màu của cá: “bạc”, “vàng” có tác
dụng tơ đậm thêm sự giàu có và q giá “rừng vàng bể bạc” của biển cả mà thiên
nhiên ban tặng cho con người. "Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng” gợi tả công
việc nhịp nhàng của ngư dân với sự vận hành của vũ trụ. Khi lưới xếp lên khoang
cũng là lúc đồn thuyền trở về đón ánh bình minh, kết thúc một ngày lao động vất
vả, mệt nhọc. Hình ảnh “nắng hồng” ở cuối khổ thơ biểu tượng cho niềm vui, niềm
lạc quan tin tưởng của người lao động trước thành quả mà họ đã gặt hái được. Và
người ngư dân như càng thấm thía hơn niềm vui và sự biết ơn đối với người mẹ
biển khơi:
Biển cho ta cá như lịng mẹ
Ni lớn đời ta tự buổi nào.
Nghệ thuật so sánh và nhân hóa vừa cho thấy được tình cảm bao la, vĩ đại, cao cả
của người mẹ biển cả tự nhiên; lại vừa bộc lộ niềm biết ơn sâu sắc của con người
ngư dân đối với người mẹ thiên nhiên, vũ trụ.
Bài ca lao động khép lại trong khổ thơ cuối với hình ảnh đồn thuyền trở về trong

thắng lợi lúc bình minh lên. Lúc này, con người lao động trở nên hài hòa cùng với
vũ trụ thiên nhiên: phấn khởi, hồ hởi trong niềm vui chiến thắng sau một đêm kéo
lưới vất vả:
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Đồn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Mặt trời đội biển nhơ màu mới
Mắt cá huy hồng mn dặm phơi.
Mở đầu bài thơ lúc ra khơi bắt cá là câu hát và khép lại bài thơ khi đoàn thuyền
đánh cá trở về cũng là câu hát của con người lao động ngư dân làng chài, điều đó
cho thấy cả hành trình đánh bắt cá của ngư dân đã trở thành bài ca lao động. Nếu
tiếng hát mở đầu khi ra khơi là tiếng hát biểu trưng cho tinh thần lạc quan, niềm hi
vọng, tin tưởng để rồi khi trở về sẽ bắt được nhiều cá tơm, làm giàu cho tổ quốc
thân u thì câu hát ở cuối bài thơ lại biểu tượng cho niềm vui sướng, hạnh phúc
trước thành quả lao động mà họ đã gặt hái được sau một đêm kéo lưới vất vả. Hình
ảnh mặt trời cũng là hình ảnh được lặp lại khi mở đầu và kết thúc bài thơ. Mở đầu
là hình ảnh mặt trời xuống biển, kết thúc bài thơ lại là mặt trời đội biển giữa mn
trùng sóng nước. Điều đó gợi nên sự vận động của thời gian và cơng việc lao động
của con người đã hồn tất. Tuy nhiên, sắc thái ý nghĩa qua mỗi lần hình ảnh "mặt
trời" xuất hiện lại khác nhau. Nếu như hình ảnh mặt trời ở khổ đầu báo hiệu thời
khắc của ngày tàn, đêm xuống và công việc lao động của người ngư dân bắt đầu
mở ra thì "mặt trời" ở khổ cuối lại báo hiệu thời khắc của một ngày mới bình minh,
biểu tượng cho ánh sáng mới, cuộc sống mới, chan chứa niềm vui, hạnh phúc của
con người sau chuyến hành trình lao động nhọc nhằn, gian khó, hiểm nguy. Trong
bức tranh ấy, con người ngư dân xuất hiện trong tư thế sánh ngang với mặt trời, với
thiên nhiên, vũ trụ: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Từ "với", "cùng" đã

diễn tả sự hài hòa cân đối giữa thiên nhiên và con người lao động. Nếu trong thơ
xưa, con người thường chìm khuất trước thiên nhiên thì nay, dưới cái nhìn của
người chiến sĩ cách mạng trong thời đại mới, con người hiện lên thật tự tin, mạnh
mẽ trong tư thế “chạy đua” với vũ trụ, trời đất. Và sự thực thì con người đã chiến
thắng. Bởi khi mặt trời lóe rạng đơng thì cũng là lúc đoàn thuyền đã trở về bến đỗ.
Ánh mặt trời đã điểm tô cho thành quả lao động thêm rực rỡ. Mặt trời chiếu rọi vào
những mắt cá khiến muôn mắt cá như mn mặt trời tỏa ánh huy hồng. Như vậy
khổ thơ cuối đã khắc họa thành cơng hình ảnh đoàn thuyền và con người ngư dân
hiện lên thật lớn lao, kì vĩ, thể hiện niềm vui, niềm hân hoan vào thành quả lao
động, niềm tin tưởng vào cuộc sống mới, vào ngày mai tươi sáng của đất nước.
Nét nghệ thuật đặc sắc và nổi bật của "Đoàn thuyền đánh cá" là hình ảnh thơ. Cả
bài thơ được dệt bằng nhiều hình ảnh đẹp, đa dạng, rộng lớn và tinh tế với nhiều
màu sắc. Hầu như ở khổ thơ nào cũng có những hình ảnh đặc sắc, mới mẻ. Nhà thơ
đã sáng tạo hình ảnh từ sự quan sát, cảm nhận chính xác về sự vật kết hợp với sự
liên tưởng và trí tưởng tượng mạnh bạo cùng với cảm hứng lãng mạn bay bổng.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Phương thức nghệ thuật chủ yếu và phổ biến để xây dựng hình ảnh trong bài thơ
này là so sánh và ẩn dụ, tượng trưng, thêm vào đó là lối phóng đại, khoa trương đã
đạt được hiệu quả thẩm mĩ và tạo được dấu ấn riêng cho thi phẩm. Bên cạnh đó thì
các yếu tố như lời thơ, nhịp điệu, vần... cũng tạo nên âm hưởng giọng điệu khỏe
khoắn, tươi vui, mạnh mẽ... góp phần làm nên một bức tranh lao động thật đẹp,
thật sống động.
Tóm lại, với cảm hứng lãng mạn bay bổng, nhà thơ đã phác họa thành cơng hình
ảnh người lao động với niềm vui phấn khởi của họ trong cuộc sống mới. Bài thơ có
thể coi là một bản tráng ca anh hùng lao động tuyệt vời, thể hiện sự hài hòa giữa
thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước

sự hồi sinh của đất nước và cuộc sống mới trong công cuộc xây dựng cuộc sống
mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc Việt Nam trong những năm đầu lịch
sử.
--------------------------Mời các bạn tham khảo thêm tài liệu tại: Tài liệu học tập lớp 9.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



×