Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Luan van chinh thuc,internet với đời sống văn hóa của nhân dân thủ đô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.76 MB, 102 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Trong những năm gần đây, đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội
Việt Nam ngày càng được phát triển một cách tồn diện. Đặc biệt, sự phát
triển đó gắn chặt với sự phát triển của ngành Bưu chính - Viễn thơng, trong
đó cơng nghệ thơng tin đóng vai trị then chốt. Sự phát triển mạnh mẽ của
mạng điện thoại (PSTN), điện thoại di động (GSM), mạng truyền số liệu
(DATA), mạng internet... khơng chỉ góp phần xây dựng nền kinh tế đất
nước, giữ vững an ninh quốc phòng mà còn là hạ tầng kinh tế kỹ thuật để
góp phần thúc đẩy cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc nghiên cứu
ảnh hưởng của công nghệ thông tin đối với đời sống văn hóa là vơ cùng
quan trọng. Trong đời sống văn hóa, thơng tin đóng vai trị như một động
lực thúc đẩy sự phát triển ở cả hai lĩnh vực: Vật chất và tinh thần bởi tính
ứng dụng của nó. Điều này càng được nhìn nhận rõ hơn trong bối cảnh có
sự phát triển kinh tế đối ngoại, xu thế quốc tế hóa kinh tế và tồn cầu hóa.
Xét như vậy, muốn đánh giá sự phát triển văn hóa của một quốc gia
hiện nay thì khơng thể khơng nhìn nhận nó trong và dưới sự tác động của
cơng nghệ thơng tin trong đó quan trọng hơn cả là thơng tin trên internet
bởi tính nhanh nhạy, tính tồn cầu cùng với những ứng dụng tiện lợi và kho
tàng tri thức kỳ diệu mà dịch vụ internet mang đến cho người sử dụng.
1.2. Tại Việt Nam, việc phổ cập internet đến từng người dân đang là
mục tiêu của chính phủ. Năm 2003, Bộ Bưu chính - Viễn thơng đã quyết
tâm lấy internet kích cầu cơng nghệ thơng tin. Tổng cơng ty Bưu chính Viễn thơng Việt Nam đã xây dựng dự án "internet cộng đồng" nhằm đưa
internet đến hơn 10.000 điểm Bưu điện - văn hóa xã hoặc các cơ sở tương
đương, hơn 600 Trung tâm văn hóa quận huyện, tỉnh, hơn 800 trường Đại


2



học, Cao đẳng, Trung học và phổ thông, 130 bệnh viện lớn và trọng điểm...
nhằm xây dựng một cơ sở hạ tầng viễn thông phát triển để đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.3. Như vậy, vấn đề đặt ra cho những người làm quản lý văn hóa là
sẽ phải xác định được vai trò của internet trong đời sống văn hóa của người
Việt Nam. Trực tiếp đối mặt với những ảnh hưởng của sự phát triển internet
ở Việt Nam. Kinh tế nào thì văn hóa ấy, song một khi kinh tế phát triển
nhanh đi trước quá xa so với văn hóa thì sẽ gặp phải những bất cập. Vậy sự
nhận thức của người Việt Nam sử dụng internet như thế nào, cần điều chỉnh,
giáo dục hướng dẫn những gì khi internet - một sản phẩm văn minh của
nhân loại còn là một dịch vụ mới mẻ đối với người Việt Nam. Đây là
những vấn đề được Chính phủ và các nhà cung cấp đang quan tâm, đặc biệt
với những nhà văn hóa thì đây cũng là một thách thức trong thời kỳ hội
nhập và phát triển.
Việc nghiên cứu những ảnh hưởng của internet đối với đời sống văn
hóa của người Việt Nam sẽ giúp cho chúng ta có cái nhìn khách quan hơn
sự phát triển của văn hóa nước nhà trong thời kỳ hội nhập và phát triển.
1.4. Theo con số thống kê chính thức của Bộ Bưu chính - Viễn
thơng thì 86% số người truy cập internet hàng ngày ở Việt Nam tập trung ở
hai thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy, Hà Nội
là một trong hai địa bàn chính có số người truy nhập internet cao hiện nay
và là trung tâm kinh tế - văn hóa - chính trị của cả nước nên người viết
mạnh dạn chọn đề tài: "Internet với đời sống văn hóa của nhân dân Thủ
đô" làm luận văn Thạc sĩ khoa học, chuyên ngành Văn hóa học cho mình.
Đề tài này tập trung nghiên cứu về sự ảnh hưởng của internet với
đời sống văn hóa của nhân dân Thủ đơ Hà Nội. Đối tượng nghiên cứu chủ
yếu là tầng lớp học sinh, sinh viên, các cán bộ nghiên cứu, những nhà quản
lý. Ngoài ra, đề tài cũng phân tích những hệ quả của sự phát triển mạng



3

internet ở Việt Nam nhằm giúp cho người sử dụng dịch vụ internet có cách
đánh giá và tiếp thu nền văn hóa, văn minh của nhân loại một cách có chọn
lọc trước những thông tin mà dịch vụ này mang lại.
2. Tình hình nghiên cứu và sưu tầm
2.1. Về nghiên cứu
Dịch vụ internet là sản phẩm văn minh của thời đại, mới được chính
thức sử dụng ở Việt Nam từ năm 1997. Tuy vậy đã có nhiều cơng trình nghiên
cứu của các tác giả, các nhà khoa học viết về lĩnh vực này, tuy nhiên đó chỉ
là những cơng trình khoa học đi sâu nghiên cứu về kỹ thuật và học thuật, về
cấu trúc mạng hay công nghệ công cụ xây dựng, hướng dẫn cách truy cập,
khai thác... Đứng trên quan điểm xã hội học đã có một vài cơng trình của
các tác giả là giảng viên Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả
Trần Hữu Quang trong cuốn sách "Chân dung công chúng truyền thông" cũng
đi sâu phân tích mối quan hệ đa chiều giữa truyền thông đại chúng và
những người tiếp nhận nhưng tác giả chưa đề cập gì đến internet - một loại
truyền thơng mới. Viết về internet, tác giả Phạm Thị Thanh Tâm đưa ra cái
nhìn thực tế hơn về những khó khăn mà chúng ta thực sự phải đối đầu khi
bước vào xa lộ thơng tin với internet. Đó chính là vấn đề mới mẻ đòi hỏi
các nhà quản lý cần quan tâm giải quyết. Một số khảo sát của sinh viên
khoa Xã hội học - Phân viện Báo chí và Tuyên truyền về "Mức độ hài lòng
về việc truy cập internet trong sinh viên" cũng cho thấy được nhu cầu của
lớp tri thức trẻ về internet. Năm 2001 một cuộc hội thảo quốc tế mang chủ
đề "Trẻ em trên mạng internet" (Kid - on line) được tổ chức tại Hà Nội, báo
cáo dự hội nghị là những nghiên cứu về tình hình sử dụng internet của trẻ
em cùng những vấn đề có liên quan ở các nước châu Á. Tham dự hội thảo
này, Việt Nam có hai báo cáo xã hội học, đó là "Một nghiên cứu thử
nghiệm về trẻ em và các trò chơi điện tử ở Việt Nam" (An exploratory study

of children and electronic games in Vietnam) của Nguyễn Quý Thanh và


4

Nguyễn Quý Nghi; "Nghiên cứu ảnh hưởng của internet đến trẻ em,
trường hợp Hà Nội" (Stealing access - a case study in Hanoi). Các nghiên
cứu trên mới là những nghiên cứu thực địa cho chúng ta thấy tình hình sử
dụng internet rất hiếm hoi của trẻ em lúc bấy giờ, khi mà internet chưa phổ
biến và thực sự "bùng phát". Tháng 3 năm 2003, Bộ Giáo dục và Đào tạo,
Trung tâm Công nghệ thông tin và IDG World expo đã tổ chức hội thảo
quốc tế về công nghệ thông tin và truyền thông trong giáo dục ở Việt Nam.
Bên cạnh các chủ đề mang tính bao quát như: Đề án mạng giáo dục
Edunet, giải pháp học qua mạng thế hệ tiếp theo, đào tạo qua mạng, Elearning- đào tạo trực tuyến... hội thảo còn là nơi trao đổi những vấn đề cụ
thể liên quan đến các phòng ban, sở giáo dục và các giáo viên... tuy nhiên,
hội thảo chưa hề đề cập đến những mặt trái của internet khi đưa vào giáo
dục.
Trong cái nhìn tổng quan về nhu cầu giải trí của thanh niên Việt Nam
hiện nay, cuốn "Nhu cầu giải trí của thanh niên" xuất bản năm 2003 của tác
giả Đinh Thị Vân Chi đã phân tích khá tỷ mỷ và nêu ra một số ảnh hưởng của
internet đối với thanh niên ở một số thành phố lớn, trong đó có Hà Nội. Tác
giả đã đề cập đến một số mặt tích cực và mặt trái của internet. Cuốn sách là
một tài liệu tham khảo rất bổ ích cho người thực hiện đề tài này.
1.2. Về sưu tầm
Khi nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các nguồn tư liệu sau:
* Những văn bản, quyết định của chính phủ về việc chính thức kết
nối internet tại Việt Nam, bao gồm:
- Hướng dẫn kết nối, sử dụng internet tại Việt Nam.
- Quyết định số 136/TTg ngày 5 tháng 3 năm 1997 của Thủ tướng
Chính phủ về việc thành lập ban điều phối quốc gia mạng internet ở Việt



5

Nam - Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách, biện
pháp khuyến khích, đầu tư và phát triển công nghệ phần mềm.
- Quyết định của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt kế hoạch phát
triển internet Việt Nam giai đoạn 2001- 2005 về quản lý, cung cấp và sử
dụng internet.
- Nghị định 55/2001/NĐ-CP về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch
vụ internet tại Việt Nam.
* Những văn bản, quyết định của Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện
về phát triển internet ở Việt Nam. Các tạp chí của ngành Bưu chính - Viễn
thơng các số từ năm 1996 đến tháng 8/2004.
* Tổng hợp "Tin nhanh" của Trung tâm Thông tin Bưu điện - Tổng
công ty Bưu chính - Viễn thơng Việt Nam (tài liệu lưu hành nội bộ phát
hành hàng tuần vào sáng thứ sáu).
* Tham khảo các tài liệu về internet, thương mại điện tử của Học
viện Cơng nghệ Bưu chính - Viễn thơng.
* Tham khảo các phóng sự, bài viết về internet trên các phương tiện
thông tin đại chúng. Trực tiếp khảo sát trên internet và những người sử
dụng internet tại một số cơ quan và các điểm dịch vụ cơng cộng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích khái niệm văn hóa, đời sống văn hóa và thực
trạng sử dụng internet, những ảnh hưởng của việc sử dụng internet tới đời
sống văn hóa của người dân Thủ đô. Đề tài đưa ra một số dự báo, xu hướng
và giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của việc sử dụng internet
trên địa bàn thành phố Hà Nội.



6

3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích khái niệm văn hóa, đời sống văn hóa, internet, những
ứng dụng của internet trong đời sống xã hội.
- Phân tích thực trạng của internet và vai trò và ảnh hưởng của
internet trong đời sống văn hóa của người dân Thủ đơ Hà Nội.
- Dự báo xu hướng và những định hướng lớn về sự phát triển của
internet ở Hà Nội.
- Đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần phát huy
những mặt tích cực của cơng nghệ thơng tin nói chung và dịch vụ internet
nói riêng vào việc nâng cao đời sống văn hóa của người dân Thủ đơ Hà
Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Sự hình thành và phát triển của mạng internet ở Việt Nam;
- Vai trị của internet trong đời sống văn hóa của người Việt Nam;
- Thực trạng tình hình sử dụng internet ở Thủ đơ Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Văn hóa trong khai thác mạng internet ở Thủ đô Hà Nội. Đề tài chỉ
tập trung nghiên cứu vào bốn nhóm xã hội chính, gồm học sinh sinh viên, cán
bộ làm cơng tác nghiên cứu và giảng dạy, cán bộ làm công tác quản lý và
nhóm cán bộ, cơng nhân, viên chức trong thời gian gần đây (từ 1998 đến nay).
5. Phương pháp nghiên cứu
- Trên quan điểm duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử,
nắm vững các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng


7


một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và phát triển
khoa học kỹ thuật mà trong đó cơng nghệ thơng tin là một ngành then chốt.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành; văn hóa học - xã hội học.
- Phương pháp xã hội học và điền dã để tìm hiểu, thống kê thực
trạng truy cập internet ở Hà Nội.
- Trực tiếp khai thác, khảo sát trực tuyến trên mạng nhằm so sánh,
tổng hợp và tìm hiểu các vấn đề đã được xác định trên cơ sở các nguồn tư
liệu đã thu thập để thực hiện mục tiêu đề tài đặt ra.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Góp phần làm rõ vai trị của internet trong đời sống văn hóa của
người Việt Nam nói chung và nhân dân Thủ đơ nói riêng.
- Phân tích tương đối có hệ thống những ảnh hưởng của sự phát
triển mạng internet đối với đời sống văn hóa của nhân dân Thủ đô Hà Nội.
- Đưa ra một số dự báo, kiến nghị và giải pháp góp phần nâng cao
hiệu quả sử dụng internet trong đời sống văn hóa của người dân trên địa
bàn thành phố Hà Nội.
- Là tài liệu tham khảo đối với các nhà hoạch định chính sách, từ đó
có thể đưa ra những phương hướng để có thể khai thác triệt để những mặt
tích cực, giảm thiểu những tiêu cực do một số phần tử phản động lạm dụng
mạng internet để tuyên truyền.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Internet - một nhân tố mới trong đời sống văn hóa hiện nay
Chương 2: Thực trạng của việc sử dụng internet ở Hà Nội


8


Chương 3: Dự báo xu hướng và một số giải pháp nhằm góp phần
phát huy hiệu quả của việc sử dụng internet trong đời sống văn hóa của
người dân Thủ đô.


9

Chương 1
INTERNET - MỘT NHÂN TỐ MỚI
TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA HIỆN NAY

1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM THEN CHỐT
1.1.1. Văn hóa
Khái niệm "văn hóa" từ lâu đã được giới nghiên cứu quan tâm xác
định nội hàm từ nhiều phương diện khác nhau. Xét một cách tổng quát, văn
hóa thể hiện bản chất năng lực của con người trong mối quan hệ với thiên
nhiên, với xã hội và với chính bản thân mình, văn hóa gắn liền với hoạt
động sống của cá nhân và của cộng đồng. Văn hóa là dấu hiệu phân biệt
đặc trưng và trình độ của lồi người, như vậy, văn hóa phản ánh các mặt
trong hoạt động của cá nhân và cộng đồng. Từ sinh hoạt, ăn, mặc, ở, đi lại
đến các hoạt động chính trị, khoa học, giáo dục, nghệ thuật, lối sống, phong
tục, tập quán, tín ngưỡng... Ở đâu có hoạt động sống của con người là ở đó
có sự can thiệp và định hướng của nhân tố văn hóa.
Theo W. Ostawald thì: Chúng ta gọi những gì phân biệt con người
với động vật là "văn hóa" [6].
Theo Abrraham Moles, một nhà văn hóa học Pháp thì: Văn hóa là
chiều cạnh trí tuệ của mơi trường nhân đạo do con người xây dựng nên
trong tiến trình đời sống xã hội của mình [6].
Giáo sư Hà Văn Tấn cho rằng: Văn hóa là hệ thống ứng xử của con
người với thiên nhiên và xã hội, trong hoạt động sinh tồn và phát triển của

mình. Nói khác đi, văn hóa là sản phẩm hoạt động của con người trong
mối quan hệ tương tác với tự nhiên và xã hội diễn ra trong khơng gian,
thời gian và hồn cảnh nhất định [6].


10

Năm 1988, khi phát động thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa, Tổng
Giám đốc UNESCO - Federico Mayro, đã đưa ra định nghĩa về văn hóa:
Văn hóa là tổng thể sống động của các hoạt động trong quá khứ và trong
hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ
thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc
tính riêng của mỗi dân tộc [8].
Khái niệm "văn hóa" được đề cập đến trong luận văn này mang một
ngoại diên rất rộng, nghĩa là bất cứ cái gì do con người làm ra đều hàm
chứa thuộc tính văn hóa, nó gồm tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần
do con người sáng tạo ra nhằm phục vụ cho sự tiến bộ của con người mà
sản phẩm sáng tạo cụ thể đó chính là internet - sản phẩm của thời đại văn
minh công nghiệp, của cơng nghệ thơng tin. Bản chất đặc trưng của văn
hóa chính là sự sáng tạo vươn tới giá trị nhân văn, khẳng định chất lượng
của đời sống, trong đó là chất lượng sống của mỗi cá nhân và cả cộng đồng.
Internet được nghiên cứu trong luận văn này với ý nghĩa vừa là một sản
phẩm văn minh công nghiệp, vừa là một giá trị văn hóa đánh dấu sự sáng
tạo của nhân loại.
1.1.2. Đời sống văn hóa
Đời sống văn hóa là tồn bộ những giá trị văn hóa vật chất và văn
hóa tinh thần được tạo ra trong q trình hoạt động thực tiễn cải tạo hiện
thực của con người [10]. Khái niệm đời sống văn hóa là một khái niệm
rộng để chỉ tồn bộ các thành tựu có ý nghĩa văn hóa do con người sáng tạo
ra cùng các phương thức, cách thức mà con người sử dụng chúng trong đời

sống hàng ngày. Đời sống văn hóa của cá nhân và cộng đồng gắn liền với
sự sống của họ thể hiện trong các hoạt động như: ăn, ở, đi lại, sản xuất,
giao tiếp xã hội, thể hiện các giá trị chuẩn mực định hướng trong lối sống,
phong tục tập qn, tín ngưỡng tơn giáo, trong các hoạt động giáo dục,
khoa học, nghệ thuật, trong tổ chức, quản lý đời sống cá nhân, gia đình và


11

cộng đồng xã hội, trong các hoạt động văn hóa dân gian như: tang ma cưới
hỏi, trong lễ hội và trong các quan hệ ứng xử khác. Như vậy, nói đến đời
sống văn hóa tức là nói đến tất cả các nhân tố của đời sống sinh hoạt văn
hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
1.1.3. Internet
Các phương tiện truyền thông cá nhân và đại chúng ra đời rất sớm
trong lịch sử lồi người, trước cả ngơn ngữ và chữ viết. Khi mà động tác,
cử chỉ là những phương tiện ít ỏi để con người có thể hiểu và giao tiếp với
nhau. Từ thế kỷ XX trở lại đây, các phương tiện truyền thông mới bùng phát
cả về nội dung và hình thức nhờ sự hỗ trợ của khoa học, kỹ thuật. Chính
truyền thơng là một trong những lĩnh vực thừa hưởng nhiều thành quả nhất
của cuộc cách mạng khoa học lần thứ tư và cuộc cách mạng công nghệ lần
thứ năm. Những thành tựu của hai cuộc cách mạng trên đã đưa truyền
thông vượt mọi rào cản về khoảng cách địa lý, khơng gian và thời gian, đó
là sự ra đời của phát thanh, truyền hình, cùng với điện thoại vơ tuyến...
Tóm lại, truyền thơng là tồn bộ những phương tiện lan truyền thơng
tin như: sách báo, truyền hình, phát thanh... Truyền thơng phân làm ba loại
chính: Truyền thơng đại chúng, truyền thơng nhóm và truyền thơng cá nhân
với những nội dung và hình thức khác nhau.
Truyền thơng đại chúng là cách thức truyền đạt thông tin thông qua
các phương tiện kỹ thuật (đài, báo, phát thanh, truyền hình, ấn phẩm, phim

ảnh, băng đĩa, mạng...) đến đám đông công chúng nhằm mục đích củng cố
hoặc thay đổi nhận thức, quan điểm, hành vi của họ đối với các vấn đề khác
nhau trong xã hội. Với cách định nghĩa như thế về truyền thơng thì ngày
nay ta có thể coi internet như một phương tiện truyền thông đại chúng mới,
với tất cả các thuộc tính của truyền thơng đại chúng như: Tính chất đại
chúng, tính gián tiếp, tính tập thể và vô nhân xưng. Tuy nhiên, do khả năng
kỹ thuật ưu trội mà internet cũng có thể được coi như phương tiện truyền


12

thơng nhóm trong các dịch vụ tin tức nhóm (new group); giáo dục điện tử
(E- learning) hay thậm chí nó cũng vừa là phương tiện truyền thông cá
nhân trong trường hợp: email, chat, điện thoại internet...
Chúng ta có thể hình dung internet là một môi trường truyền thông
mới với ý nghĩa là sự kết nối của các máy tính đầu cuối, bao gồm cả máy
tính cá nhân, của hộ gia đình, của các cơ quan, tổ chức... Tạo điều kiện
cho tất cả các loại hình truyền thơng khác hoạt động được [21]. Các tờ
báo, đài truyền hình, các hãng thơng tấn, cơ quan báo chí, các cơ quan giáo
dục cũng như các tổ chức và cá nhân đều có cơ hội ngang bằng là thiết lập
website riêng để cung cấp thông tin đến đông đảo công chúng (công chúng
ở đây là tất cả những người sử dụng internet). Ngược lại, người sử dụng
internet cũng có thể khai thác các tiện ích của internet cho mỗi loại mục
đích của mình.
Một cách tổng quát, internet là một mạng diện rộng (WAN) là tập
hợp hàng ngàn các mạng máy tính trải khắp thế giới thông qua hệ thống
viễn thông. Sự phát triển nhanh chóng của internet đã khiến cho nó cịn có
thêm một khái niệm là "siêu lộ thơng tin" (Information Super Highway).
Ngồi ra, nó cịn là nguồn tài ngun vơ giá cho các nhà nghiên cứu, các
nhà giáo dục, các quan chức chính phủ và các thủ thư..., internet đã trở

thành một công cụ thiết yếu cho mọi cá nhân đang sử dụng thư điện tử,
đang nghiên cứu và thực tế là mọi hoạt động liên quan đến việc thu thập
thông tin.
Sau đây là định nghĩa về internet được nhiều nhà khoa học và cá
nhân sử dụng phổ biến hiện nay:
Internet là hệ thống thơng tin tồn cầu mà:
- Được nối với nhau hợp lý bằng một không gian địa chỉ độc đáo
dựa trên giao thức mạng (IP).


13

- Có thể tạo điều kiện cho các máy tính giao tiếp với nhau thông
qua bộ giao thức (TCP/IP).
- Công khai hoặc bí mật cung cấp, cho phép sử dụng, cho phép truy
cập các dịch vụ cao cấp được xếp trên các mục giao tiếp và cơ sở liên quan.
- Khơng thể có được sơ đồ cụ thể của mạng internet vì các máy tính
và các mạng máy tính liên tục đăng ký thêm vào mạng internet cũng như
các thông tin trên mạng liên tục thay đổi, cập nhật.
- Internet mang đến cho bạn hạ tầng kỹ thuật để giao dịch trên
mạng (on line).
- Internet là cấu trúc kỹ thuật giúp cho mọi người trên thế giới thu
lợi khi thâm nhập vào liên mạng toàn cầu [16].
Internet (được viết hoa chữ cái đầu tiên) ám chỉ tới tập hợp các
mạng và các cổng nối (gateway) trên toàn cầu, sử dụng bộ giao thức TCP/IP,
đây chính là nghĩa được nhiều người biết tới nhất. Tuy nhiên, khi gặp từ
internet (không viết hoa chữ cái đầu) ta phải hiểu rằng đây là chữ viết tắt
của từ internetwork, có nghĩa là liên mạng, một tập hợp các mạng máy tính
bất kỳ, có thể khác nhau và được nối với nhau thông qua các cổng nối.
"Trên thế giới chỉ có duy nhất một Internet nhưng có rất nhiều internet. Sự

nhầm lẫn trong cách sử dụng thuật ngữ này có thể bắt gặp trên một số báo
chí của nước ta, thậm chí cả trên một tạp chí chun ngành có uy tín" [18].
1.2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA INTERNET
Lịch sử hình thành và phát triển của Internet có thể xem như bắt
đầu từ năm 1969 với dự án mạng ARPANET của Bộ Quốc phịng Mỹ với
mục đích hồn tồn mang tính qn sự nhằm tạo khả năng truyền số liệu,
thông tin một cách an tồn, bí mật giữa các mạng máy tính của Bộ Quốc
phòng Mỹ. Trải qua một giai đoạn nghiên cứu và phát triển khá lâu dài, đến
tháng 1/1983, giao thức TCP/IP đã chính thức được chấp nhận trên cơ sở


14

mạng diện rộng ARPANET. Điều này mở ra khả năng ứng dụng to lớn cho
mạng máy tính của Bộ Quốc phịng Mỹ, sau đó, vốn tính thực dụng, mơ hình
ARPANET nhanh chóng được người Mỹ nhân rộng ra các lĩnh vực khác
với quy mơ ngày càng lớn. Và khi có sự liên kết các mạng máy tính thuộc
lĩnh vực khác, các khu vực và các quốc gia khác nhau thì mạng xuất hiện
các trình duyệt của dịch vụ tra cứu thơng tin siêu văn bản (WWW- World
Wide Web).
Hình 1.1: Q trình phát triển của Internet

ARPANET
1969

TCP/IP
1972

Tên gọi
Internet

TCP/IP
1984

WWW
1989

Trình duyệt
Web
1993

Thương
mại
điện tử
E - Com
1995

Tốc độ phát triển của internet:
-

1977: 111 máy chủ
1981: 213 máy chủ
1983: 562 máy chủ
1984:1.000 máy chủ
1986: 5.000 máy chủ
1987: 10.000 máy chủ
1989: 100.000 máy chủ
1992: 1.000.000 máy chủ
2001: 150-175 triệu máy chủ
2002 trên 200 triệu máy chủ
Tới 2010: khoảng 80% hành tinh được kết nối Internet


Số liệu Telcordia - Nestizer.com (1/2001)
Hơn 115 triệu máy chủ, hơn 407 triệu người sử dụng (số liệu tháng
11/2000).
31 triệu tên miền.
Theo dữ liệu đo bằng Byte (1994) người ta truy nhập Internet cho mục
đích: 32% cho truyền file, 13% khám phá, tìm hiểu thơng tin, 11% đọc tin, 10% dữ
liệu overhead, 6% email, 5% điều khiển từ xa.


15

.
Ngồi ra, cịn phải kể đến mạng:
Intranet: Là mạng riêng sử dụng công nghệ của internet như là phần
cơ sở. Thực chất internet và intranet không khác nhau, do mục đích sử
dụng của intranet nhằm vào các cơ quan, doanh nghiệp, phục vụ các hoạt
động tác nghiệp. Do đó, mạng intranet phải ln chính xác, tin cậy, hiệu
quả, thơng suốt. Đặc biệt phải đảm bảo an ninh, an toàn trong mọi tình
huống. Mạng này cho phép nhiều người cộng tác làm các dự án, chia sẻ
thông tin, tổ chức hội thảo và thiết lập các thủ tục an toàn trong tổ chức sản
xuất. Mục đích của mạng này là làm cho những người lao động của công ty
gắn kết với mọi tin tức của cơng ty đó, nhằm tăng năng suất qua luồng
thông tin hiệu quả được phổ biến trên intranet.
Extranet: Mạng chia sẻ mở rộng, mạng này công ty chỉ cho phép
một nhóm người được lựa chọn để truy nhập.
Thực chất internet không thuộc quyền quản lý của bất kỳ ai. Nó
khơng có ban giám đốc, cũng khơng có ban quản trị, người dùng có thể
tham gia hoặc khơng tham gia vào internet, đó là quyền của mỗi thành viên.
Mỗi mạng thành phần sẽ có một giám đốc hay chủ tịch, một cơ quan chính

phủ hay một hãng điều hành, nhưng khơng có một tổ chức nào chịu trách
nhiệm toàn bộ về internet.
Hiệp hội internet (Internet Socity - ISOC) là một hiệp hội tự nguyện
có mục đích phát triển khả năng trao đổi thông tin dựa vào công nghệ
internet. Hiệp hội bầu ra Internet Architecture Board - IAB, ban này có
trách nhiệm đưa ra hướng dẫn về kỹ thuật cũng như phương hướng để phát
triển internet.
Mọi người trên internet thể hiện nguyện vọng của mình thơng qua
Ủy ban kỹ thuật internet (Internet Engineering Task Force IETF). IETF


16

cũng là một chức tự nguyện, có mục đích thảo luận về các kỹ thuật và sự
hoạt động của internet. Nếu một vấn đề được coi trọng, IETF lập một nhóm
kỹ thuật để nghiên cứu vấn đề này. Nhóm đặc trách nghiên cứu phát triển
công nghệ Internet (IRTF- Internet Reasearch Task Force).
Trung tâm thông tin mạng (Networrk Infomation Center - NIC)
gồm có nhiều trung tâm khu vực như APNIC - khu vực châu Á - Thái Bình
Dương. NIC chịu trách nhiệm phân tên và địa chỉ cho các mạng máy tính
vào internet.
Khơng cần nhìn đâu xa, chỉ tính riêng châu Á cũng có thể thấy rõ
những ứng dụng của internet đã làm thay đổi cuộc sống ở châu Á như thế
nào. Theo số liệu do Công ty nghiên cứu thị trường eMarketer mới đây cho
thấy tỷ lệ sử dụng internet ở châu Á - Thái Bình Dương đang tăng với tốc
độ chóng mặt, đặc biệt là ở Trung Quốc, kèm theo đó là những tác động
rộng lớn về mặt thương mại và văn hóa đối với cuộc sống của người dân khu
vực. Nghiên cứu này có tên là "Asia Pacific - online" dựa trên các dự báo
của các cơ quan thống kê quốc gia và quốc tế cùng hàng chục công ty nghiên
cứu khác, như Morgan Stanley, Garner, Poin Topic, IDC, Yankee Group...

Theo eMarketer cho biết thì trong năm 2003 số người sử dụng
internet ở Trung Quốc đã tăng gấp đôi đến 114 triệu người, trong hai năm
tới dự kiến sẽ có 250 triệu người Trung Quốc truy cập internet. Tại Hàn
Quốc, tính đến cuối năm 2003 đã có gần 59% dân số lên mạng. Tại Ấn Độ,
mỗi tháng lại có thêm 120.000 khách thuê bao internet mới, đưa tổng số
người tham gia mạng toàn cầu của nước này vượt con số 3 triệu vào tháng
6/2003. Về mật độ sử dụng internet nhanh chóng đuổi kịp và vượt phần cịn
lại của thế giới. Trong tháng 1/2003 Mỹ đã bị gạt khỏi danh sách 10 nước
có mật độ dân sử dụng internet cao nhất thế giới. Trong khi đó Hàn Quốc
đã nhảy lên chiếm vị trí thứ tư, Hồng Kơng đứng thứ bảy và Đài Loan đứng
thứ chín. Điều đặc biệt gây ấn tượng là tốc độ gia tăng sử dụng băng tần


17

rộng để truy cập internet ở các nước châu Á - Thái Bình Dương. Tính đến
cuối tháng 11/2003 số người sử dụng băng tần rộng trong khu vực đã tăng
25% lên 18 triệu thuê bao, đặc biệt tại Hàn Quốc tỷ lệ sử dụng băng tần
rộng đã lên tới 94%.
Chính sự phổ biến của internet ở châu Á - Thái Bình Dương đang
tạo ra những tác động sâu sắc đến kết cấu và nội dung các trang Web.
Internet phát triển góp phần thúc đẩy doanh thu của các Cơng ty chế tạo
phần cứng máy tính. Đã có tới 5,1 triệu máy tính được bán ra trong khu vực
trong năm 2002, tăng 100% so với năm 2001. Hoạt động thương mại trực
tuyến cũng đang gia tăng nhanh chóng trong đó có rất nhiều nước có tốc độ
tăng vượt mức trung bình của thế giới. Ước tính sẽ có sự bùng nổ internet
để đặt vé máy bay, phòng khách, khách sạn hoặc ô tô. Giải trí trên mạng cũng
là một lĩnh vực có tiềm năng to lớn, ngày càng có nhiều người mua vé xem
phim, ca nhạc qua mạng. Riêng ở Hàn Quốc chỉ trong những năm đầu khi
internet mới phát triển, 98% thơng tin được giao dịch qua mạng internet.

Ước tính đến năm 2005 sẽ có 33 triệu người dân Hàn Quốc sử dụng
dịch vụ internet, chiếm 2/3 dân số.
Trước sự phát triển mạnh mẽ, rộng khắp trên mọi lĩnh vực và mang
tính tồn cầu như vậy, internet vừa là cơ may, vừa là thách thức với các
quốc gia. Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương phát triển và mở rộng
việc cung cấp và sử dụng dịch vụ internet nhưng phải đi đôi và tăng cường
các biện pháp quản lý chặt chẽ.
Để phục vụ các hoạt động quản lý nhà nước và nhu cầu của xã hội,
từ những năm 1993 ngành Bưu điện đã xây dựng mạng truyền số liệu
chuyển mạch gói gọi là VIETPAC. Tuy phủ rộng 64 tỉnh thành trong cả
nước nhưng việc xây dựng mạng VIETPAC không đáp ứng được mọi nhu
cầu liên quan đến việc truyền số liệu.


18

Do sự phát triển nhanh chóng của cơng nghệ và sự ra đời của nhiều
loại hình dịch vụ trên mạng, trong đó có sự phát triển nhanh chóng của
internet cùng với các dịch trên mạng này. Ngày 5 tháng 3 năm 1997, Thủ
tướng Chính phủ đã ký Nghị định số 21/CP ban hành quy chế tạm thời về
quản lý, thiết lập, sử dụng mạng internet Việt Nam và ký quyết định số
136/TTg thành lập Ban điều phối quốc gia mạng internet ở Việt Nam.
Ban điều phối quốc gia mạng internet, Tổng cục Bưu điện cùng các
cơ quan nhà nước có liên quan đã ban hành nhiều văn bản quản lý các hoạt
động cung cấp và sử dụng internet, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để Việt
Nam chính thức tham gia mạng Internet toàn cầu. Ngày 14/11/1997 Tổng
cục trưởng Tổng cục Bưu điện đã ra Quyết định số 679/1997/QĐ-TCBĐ
ban hành thể lệ dịch vụ internet nhằm quy định việc quản lý nhà nước đối
với mọi hoạt động kết nối, truy nhập, cung cấp và sử dụng dịch vụ internet.
Ngày 19 tháng 11 năm 1997, Việt Nam đã chính thức khai trương

dịch vụ internet; người dân Việt Nam có thể nhận, gửi và sử dụng thông tin
trên internet. Để đáp ứng nhu cầu bức xúc về internet VNPT đã xây dựng
một mạng trục trong toàn quốc với tên gọi là VietnamNet (VNN) và kết nối
với mạng internet nhằm kết nối những mạng đơn lẻ của các cơ quan khác
nhau và cung cấp dịch vụ internet một cách hiệu quả. Internet Việt Nam
hoạt động với bốn nhà cung cấp dịch vụ internet (ISP) chính thức do Tổng
cục Bưu điện cấp giấy phép là: VNN, Công ty FPT, mạng NetNam của
Viện Công nghệ Thông tin và Công ty cổ phần dịch vụ Bưu chính Viễn
thơng Sài Gịn (Saigon Postel). Trên internet Việt Nam thời điểm đó cịn có
các nhà cung cấp thơng tin (ICP), đó là mạng CINET của Bộ Văn hóa
Thơng tin, mạng Phương Nam của Trung tâm Hội chợ triển lãm Việt Nam,
Công ty Pacrim, FPT, VNN, Thông tấn xã Việt Nam, Tổng cục Du lịch, báo
Nhân Dân và Trung tâm thông tin Bưu điện trực thuộc VNPT...


19

Với vai trị tổ chức và quản lý tồn bộ mạng trục internet quốc gia,
Cơng ty điện tốn và truyền số liệu (VDC) thuộc VNPT có nhiệm vụ cung
cấp khả năng truy cập vào các mạng riêng, các ISP khác, đồng thời VNN
cũng là nhà cung cấp dịch vụ internet đến người dùng.
Từ năm 1998 internet Việt Nam đã bước đầu phát triển kết nối trong
nước và ra quốc tế như Mỹ, Hồng Kông, Úc...
Ngày 23 tháng 8 năm 2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định
55/2001/NĐ-CP về quản lý, cung cấp và sử dụng internet, có thể đánh giá
đây là một sự kiện đánh dấu bước ngoặt về phát triển internet ở Việt Nam.
Cụ thể là nghị định này đã điều chỉnh việc quản lý cung cấp và sử dụng dịch vụ
internet tại Việt Nam gồm 11 điều quy định chung. Nghị định có 16 điều quy
định về thiết lập hệ thống thiết bị, cung cấp và sử dụng internet. Trong chương
ba và bốn của nghị định, mọi điều khoản về quản lý, khiếu nại, thanh tra, kiểm

tra và xử lý vi phạm đều được cụ thể hóa trong các điều (xem phụ lục 3).
Sau hai năm ban hành nghị định (23/8/2001-23/8/2003), thị trường
internet Việt Nam đã trở nên sơi động với nhiều nhà cung cấp và nhiều loại
hình dịch vụ internet. Đến tháng 9 năm 2003 đã có 13 ISP được phép cung
cấp dịch vụ, 5 IXP (cổng kết nối quốc tế) và 10 OSP (nhà cung cấp các dịch
vụ ứng dụng trên internet). Chính Nghị định 55 đã cho phép nhiều thành
phần doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trong lĩnh vực internet, điều này đã
tạo động lực cạnh tranh, buộc các doanh nghiệp phải năng động hơn trong
cuộc chạy đua chiếm lĩnh thị trường. Nghị định 55 ra đời cũng khởi nguồn
cho một thời kỳ xã hội hóa internet một cách sâu rộng, thu hút được nhiều
thành phần kinh tế tham gia, phát huy vào nội lực sẵn có tham gia vào thị
trường internet với hàng ngàn đại lý internet. Điều này khơng chỉ góp phần
làm tăng lượng người sử dụng internet 1,5 triệu người so với con số
300.000 người năm 2000, mà còn giúp một số lượng người có thêm cơng
ăn việc làm, thêm thu nhập. Cũng từ đó, người dân có cơ hội tiếp cận với


20

các công nghệ tiên tiến thông qua internet. Đặc biệt nghị định 55 còn là tiền
đề thúc đẩy việc ứng dụng internet trong môi trường làm việc của hệ thống
các cơ quan chính phủ, các ngành các cấp từ Trung ương đến địa phương.
Một số các chính sách quản lý nhà nước cũng đã được phổ biến qua
internet. Đó cũng là bước đệm để triển khai Chính phủ điện tử tại Việt
Nam.
Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) hàng năm đều đưa ra đánh giá,
xếp hạng cho nền CNTT của 196 nước. Đánh giá dựa trên các thông số: Số
lượng và mật độ điện thoại, số điện thoại di động, số máy tính và số người
dùng internet. Điều đáng mừng là lần đầu tiên Việt Nam đã được đưa vào
danh sách 53 nước, được xếp hạng sau Ấn Độ, Trung Quốc và Inđônêsia.

Theo đánh giá của nhiều chuyên gia CNTT, thời gian qua CNTT
nước ta phát triển khá nhanh nhưng chưa có chiến lược cụ thể, chính vì vậy,
trong năm 2003 Bộ Bưu chính Viễn thơng (MPT) đã dốc sức để hình thành
một phác thảo chiến lược phát triển CNTT và truyền thông Việt Nam đến
năm 2010, định hướng đến năm 2020 và trình Chính phủ trong q 1/2004.
Đối với dịch vụ viễn thông internet, Việt Nam sẽ phát triển nhanh, đa dạng
hóa các dịch vụ viễn thơng và internet trên cơ sở hạ tầng mạng lưới thông
tin quốc gia tiên tiến. Tại Việt Nam, theo dự báo công nghệ thông tin của
các chuyên gia CNTT nhận định: Năm 2004 sẽ là năm bứt phá của ngành
này nhằm tiến kịp các nước phát triển, số lượng doanh nghiệp, cơ quan, tổ
chức sử dụng internet, xây dựng web side để trao đổi thông tin và ứng dụng
các phần mềm ngày càng tăng.


Sè ngêi sư dơ ng int ernet

21

4415851

1666160

1952460

2109700

25/12/02

05-09-03


1037510
81054
09-11-00

01-01-01

01-07-02

30/4/04

Thêi ®iĨm

Biểu đồ 1.1: Số người sử dụng internet ở Việt Nam
Nguồn: Số liệu thống kê từ Trung tâm internet Việt Nam tháng 4/2004.
1.3. NHỮNG ỨNG DỤNG CƠ BẢN CỦA INTERNET
Từ khi internet xuất hiện với tư cách là một phương tiện truyền thơng
thì nó đã tạo ra một cuộc cách mạng thực sự, hệ thống truyền thông này đã
và đang làm thay đổi toàn diện và sâu sắc cách thức mà con người thực
hiện trong giao tiếp, giải trí, làm việc, học tập, nghiên cứu khoa học hay xử
lý thơng tin... Có thể nói, tiện ích của internet cịn lớn hơn cả điện thoại,
báo viết và báo hình.
Sở dĩ internet đạt được những tiện ích lớn lao như chúng ta biết là
do tập hợp hơn 100 giao thức được sử dụng để kết nối các máy tính vào
mạng trong đó hai giao thức chính là giao thức điều khiển truyền dẫn
(Transmission control protocol) và giao thức Internet IP (Internet Protocol).
Sự bùng nổ trong sử dụng internet giữa hàng triệu người trên thế giới có lẽ
là nhờ một phần của cái gọi là dịch vụ tra cứu siêu văn bản, dịch vụ thông tin
đa phương tiện toàn cầu (WWW) hoặc chỉ đơn giản là WEB, đồ họa âm
thanh trên một loạt các văn kiện hiển thị bằng máy tính gọi là các trang web



22

(Web pages), gắn liền với các trang web là các tài liệu siêu văn bản hoặc
siêu phương tiện (hypertex or hypermedia). Việc thám hiểm World Wide
Web phải sử dụng một chương trình gọi là slient (máy khách) phần mềm
slient cung cấp giao thức truyền thông để phối ghép với các máy tính chủ
trên mạng, nó được cài đặt trong máy tính dùng để truy nhập. Máy chủ
(server) cung cấp các tài liệu mà máy khách yêu cầu, các máy chủ được kết
nối với các máy khách và máy chủ khác trên mạng cho nên mối quan hệ
slient/ server tồn tại giữa người dùng, máy khách và kết nối tới Web (tức
máy chủ). Server internet mà khách hàng kết nối được tới gọi là ISP (nhà
cung cấp dịch vụ internet). Các ISP cung cấp truy nhập cho người dùng tới
internet và web theo cước phí hàng tháng hoặc hàng giờ. Một số các hệ
thống bảng tin BBS (Bulleti Board System) lớn hơn, thường được gọi là
các dịch vụ thương mại trực tuyến cũng cung cấp internet đầy đủ qua kết
nối modem của khách hàng.
Các ứng dụng khách hàng/ máy chủ trên Internet
 Thư điện tử (E-mail)
 Truyền tệp (file transfer)
 Chat (đàm thoại)
 Dịch vụ nhóm tin (Use Net Newsgroup)
 Web (World Wide Web)
Tiện ích trên mạng tồn cầu này là rất lớn:
"INTERNET mang đến cho bạn hạ tầng kỹ thuật để giao dịch trên
mạng (on line). INTERNET là cấu trúc kỹ thuật giúp cho mọi người trên
thế giới thu lợi khi thâm nhập vào liên mạng toàn cầu" [16].
Người dùng trên khắp thế giới đều có thể truy nhập mạng này. Với
giao thức liên lạc chuẩn, nó cho phép truy cập đối với bất kỳ một loại máy



23

tính nào, hệ điều hành gì, kích cỡ máy ra sao, người dùng mạng này có thể
trao đổi thư điện tử với một người khác ở bất cứ đâu trên thế giới, và thư sẽ
được chuyển đi ngay lập tức. Nó trợ giúp truyền thơng thời gian trực tuyến
(real- time multimedia) cho phép mọi thành viên truy cập có thể thực hiện
hoạt động giao tiếp, kinh doanh hay học tập, quản lý... một cách trực tiếp
và tức thời. Rõ ràng là các hoạt động trên internet rất phong phú và đa
dạng, nó đã tạo nên những bước nhảy vọt chưa từng có trên thế giới, tác
động đến mọi lĩnh vực trong đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội.
Một cách tổng quát: Với đặc thù là một mạng diện rộng (WAN) tập
hợp hàng ngàn các mạng máy tính trải khắp thế giới thông qua hệ thống
viễn thông. Sự phát triển nhanh chóng của internet đã khiến cho nó cịn có
thêm một khái niệm là "siêu lộ thơng tin", ngồi ra nó cịn là nguồn tài
ngun vơ giá cho các nhà nghiên cứu, các nhà giáo dục, các quan chức
chính phủ và các thủ thư... internet đã trở thành một công cụ thiết yếu cho
mọi cá thể đang sử dụng thư điện tử, đang nghiên cứu là mọi việc liên quan
đến đến hoạt động thông tin.
Internet thâm nhập sâu vào tất cả mọi lĩnh vực của cuộc sống, nó
cho phép truy nhập và khai thác các cơ sở dữ liệu thuộc nhiều lĩnh vực xã
hội, các ngành nghề khác nhau như: các thông tin về khoa học kỹ thuật,
giáo dục và đào tạo, kết quả nghiên cứu khoa học, thông tin thương mại, thị
trường giá cả, dự báo thời tiết... Tùy theo ngành nghề khác nhau sẽ tìm thấy
những lợi ích khác nhau từ việc sử dụng internet.
Sau gần bảy năm triển khai dịch vụ internet ở Việt Nam, đến nay
theo tin từ Trung tâm Thông tin Bưu điện - VNPT có hơn 1.122.000 thuê
bao internet đã quy đổi của 7/15 nhà cung cấp dịch vụ đã bắt đầu có thị
phần là VNPT, NetNam, Vietel, SPT, Ha Noi Telecom, OCI và như vậy với
con số ước tính khoảng gần 4,5 triệu người thường xuyên sử dụng internet,



24

vượt mức thời điểm tháng 6 năm 2003 (cùng kỳ năm trước) hơn 2,3 lần
đồng thời cũng cao hơn mức thời điểm tháng 6/2003 của khu vực 4,82% và
rút ngắn được khoảng cách với thế giới 9,37%. Nếu như thời gian đầu ở
Đông Nam Á nhiều người quan niệm chỉ có giới trí thức hay doanh thương
mới có nhu cầu và khả năng sử dụng dịch vụ này, thì giờ đây, cùng với sự
tăng cường đầu tư mở rộng mạng lưới, nâng cao khả năng phục vụ cho
người dùng internet của VNPT thơng qua những chính sách và nhất là ảnh
hưởng tích cực của Nghị định 55 của Chính phủ, các doanh nghiệp, tổ chức
đã biết khai thác lợi thế của internet. Do vậy mà có thêm nguồn thơng tin,
tăng cường thương mại, mở mang đối tác, giao lưu văn hóa, xóa mờ
khoảng cách địa lý. internet đã có những ảnh hưởng tích cực sâu sắc đến
đời sống xã hội của Việt Nam nói chung và đặc biệt là nhân dân Thủ đơ.
Có thể thấy rất rõ là cùng với sự hỗ trợ của internet, tại Hà Nội,
nhiều đề tài nghiên cứu, triển khai, ứng dụng khoa học công nghệ vào cuộc
sống đã thành công và thiết thực hơn. Nhiều sinh viên học sinh ham học
hỏi đã thu lượm được nhiều kiến thức bổ ích, tìm kiếm học bổng...
Đến nay đã có 100% các trường phổ thơng trung học, cao đẳng, đại
học và nhiều trường tiểu học, trung học cơ sở lắp đặt, sử dụng và đưa
chương trình internet vào giảng dạy. Cùng với hàng chục ngàn các đại lý và
các điểm phục vụ internet trên cả nước, kể cả nơi hải đảo, miền núi, vùng
sâu, vùng xa. Thực tế sử dụng internet thời gian qua cho thấy, internet ở
Việt Nam cịn có thể phát triển nhanh và mạnh hơn nữa, ảnh hưởng trực
tiếp và đóng góp to lớn vào phát triển kinh tế - văn hóa - chính trị của Việt
Nam.



25

Chương 2
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC SỬ DỤNG INTERNET
Ở THỦ ĐÔ HÀ NỘI

2.1. TÌNH HÌNH CHUNG
Theo báo cáo mới nhất của ITU về kết quả nghiên cứu tình hình sử
dụng internet trên tồn thế giới thì các nước Bắc Âu dẫn đầu về truy cập
internet. Thụy Điển đứng ở vị trí thứ nhất, tiếp sau là Đan Mạch và Băng Đảo,
Na Uy đứng thứ năm. Hàn Quốc là nước đứng đầu thế giới về truy nhập băng
rộng tốc độ cao và được xếp thứ tư về tỷ lệ người dùng inetrnet. Vào nhóm 10
nước dẫn đầu cịn có Hà Lan, Hồng Kông, Phần Lan, Đài Loan và Canađa.
Mỹ đứng thứ 11. Thực tế diễn biến cho thấy trong những năm gần đây (từ
1998 trở lại đây) châu Á đã vượt lên trước và bỏ xa các nước nói tiếng Anh.
Cụ thể là Hàn Quốc tăng nhanh nhất, đã tăng 20 bậc từ 1998 đến 2002.
Tình hình phát triển của internet của khu vực châu Á - Thái Bình
Dương và thế giới đã ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam.
Tính đến tháng 4 năm 2004 Việt Nam đã có 4.415.851 người sử
dụng internet và 1.121.808 thuê bao internet, trong khi cùng kỳ năm trước
con số này là 1.9 triệu người, khoảng 445.710 thuê bao. Tỷ lệ số dân sử
dụng internet ở nước ta hiện nay là 5,42%.
Một sự kiện lớn nhất về CNTT diễn ra tại Việt nam tháng sáu vừa
qua là diễn đàn CNTT Việt Nam 2004 và Việt Nam Computer World Expo
(VITF & VCW) diễn ra từ ngày 5 đến ngày 10-7-2004 tại Thành phố Hồ
Chí Minh. Tại đây TS. Lê Trường Tùng - Chủ tịch Hội tin học Thành phố
Hồ Chí Minh chính thức tun bố "Tồn cảnh CNTT Việt Nam 2004".
Trong báo cáo này ông đã đặc biệt nhấn mạnh "ấn tượng nhất là sự vươn
lên mạnh mẽ của hai tờ báo điện tử Tuổi trẻ và Thanh niên" - hai trong số



×