Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Tìm hiểu làng tranh Đông Hồ ở xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.5 KB, 38 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
“ Đì đoẹt ngồi sân tràng pháo chuột
Lịe loẹt trên vách bức tranh gà”
Nhắc đến hai câu thơ này của thi sĩ Tú Xương, chúng ta khơng thể khơng
nghĩ đến dịng tranh dân gian Đông Hồ nổi tiếng ở Bắc Ninh. Tranh Đông Hồ là
một trong ba dòng tranh dân gian tồn tại ở Việt Nam, là di sản văn hóa q báu
của dân tộc ta. Các nghệ nhân dân gian đã dựa trên những nhu cầu thực tiễn
trong cuộc sống và thực tiễn sản xuất để tạo nên những bức tranh đẹp, phong phú
và giàu ý nghĩa. Tranh dân gian Đông Hồ khá gần gũi với đại đa số dân chúng
Việt Nam, nhắc tới hầu như ai cũng biết.
Trải qua nhiều thăng trầm lịch sử của dân tộc, các dòng tranh dân gian của
dân tộc có số phận riêng của mình, tranh Đơng Hồ cũng vậy, tuy nhiên những nét
đẹp văn hóa vốn có của nó vẫn tồn tại đi cùng năm tháng. Chúng ta cũng biết
được rằng như một quy luật tất yếu, sự phát triển kinh tế thị trường đi kèm với
xu thế Tồn Cầu Hóa, nền văn hóa của các dân tộc có cơ hội giao thoa với nhau,
điều này khiến cho nền văn hóa truyền thống Việt Nam cũng như dịng tranh dân
gian Đơng Hồ đứng trước những thử thách lớn. Nguy cơ một dòng tranh dân
gian của dân tộc với những nét đẹp vui tươi, dí dỏm, thể hiện nét nhân văn,
truyền thống mộc mạc của làng quê sẽ dần bị mai một, dần bị quên lãng và rơi
vào quá khứ. Sẽ là như vậy nếu chúng ta không kịp thời đưa ra những biện pháp
cụ thể, mang tính khả thi, sự hịa trộn các nền văn hóa với nhau là điều tất yếu,
1


văn hóa sẽ là một nền màu giống nhau, chúng ta sẽ không phân biệt được đặc
trưng của các quốc gia với nhau, điều đó là khơng thể chấp nhận được. Câu hỏi
đặt ra là làm thế nào vừa hội nhập, vừa giữ gìn bảo tồn, phát huy giá trị dịng
tranh dân gian Đơng Hồ? Bài nghiên cứu này của tơi mong muốn sẽ đóng góp


những hiểu biết bé nhỏ, sự u thích của mình về nét đẹp, nét văn hóa của làng
tranh dân gian Đơng Hồ, cũng như đưa ra một số đề xuất về việc bảo tồn và phát
triển dòng tranh trước thời buổi kinh tế hội nhập hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu.
Với đề tài này, tơi muốn đưa ra một số hiểu biết của mình về dịng tranh
dân gian Đơng Hồ tại Thuận Thành, Bắc Ninh. Tìm hiểu những đặc điểm chung
về dịng tranh, về làng Đơng Hồ nơi trực tiếp sáng tạo ra dịng tranh, cùng với
những nét đẹp, nét văn hóa của dịng tranh quý báu này. Nhìn nhận, đánh giá
thực trạng phát triển cũng như giải pháp cụ thể, kịp thời để gìn giữ dịng tranh
Đơng Hồ.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
Bài tiểu luận này không đi sâu nghiên cứu từng loại tranh mà chỉ tìm hiểu
sơ quát về đặc điểm, thực trạng phát triển chung cũng như đề xuất giải pháp gìn
giữ dịng tranh dân gian Đơng Hồ.
Về khơng gian: Tìm hiểu Làng tranh dân gian Đông Hồ tại xã Song Hồ,
huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh
Về thời gian: Nghiên cứu cho tới ngày 10/03/2013
4. Phương pháp nghiên cứu.
Với đề tài nghiên cứu này, người viết đã sử dụng những phương pháp nghiên
cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu, thống kê
2


- Phương pháp tổng hợp
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp phỏng vấn

5. Những đóng góp của đề tài.
Thông qua việc tiếp thu, tổng hợp tài liệu, thành tựu của những người đi

trước, người viết đã đi vào tìm hiểu về dịng tranh dân gian Đơng Hồ ở Thuận
Thành, Bắc Ninh, hy vọng sẽ có những hiểu biết hơn về dịng tranh này
Bài nghiên cứu này sẽ góp phần cung cấp thêm một số kinh nghiệm nhỏ
trong việc tiếp cận dịng tranh này từ nhiều góc độ khác nhau
Hy vọng bài tiểu luận này sẽ góp phần làm tư liệu cho các nhà nghiên cứu
về dòng tranh dân gian Đông Hồ cũng như là sinh viên hay những người có nhu
cầu tìm hiểu về dịng tranh q báu này của dân tộc.
6. Bố cục của bài tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục thì bài tiểu luận có
bố cục gồm 3 chương:
Chương 1. Văn hóa làng tranh dân gian Đơng Hồ, xã Song Hồ, huyện Thuận
Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Chương 2. Đặc điểm làng tranh dân gian Đông Hồ.
Chương 3. Giải pháp bảo tồn và phát triển làng tranh dân gian Đông Hồ.

3


Chương 1: VĂN HĨA LÀNG TRANH DÂN GIAN ĐƠNG HỒ, XÃ SONG
HỒ, HUYỆN THUẬN THÀNH, TỈNH BẮC NINH.
1.1.

Làng nghề và văn hóa làng nghề ở nước ta.

1.1.1. Khái niệm nghề và làng nghề.
a. Khái niệm nghề.
Nghề nghiệp trong xã hội khơng phải là một cái gì cố định, cứng nhắc.
Nghề nghiệp cũng giống như một cơ thể sống, có sinh thành, phát triển và tiêu
vong. Chẳng hạn, do sự phát triển của kỹ thuật điện tử nên đã hình thành công
nghệ điện tử, do sự phát triển vũ bão của kỹ thuật máy tính nên đã hình thành cả

một nền công nghệ tin học đồ sộ bao gồm việc thiết kế, chế tạo cả phần cứng,
phần mềm và các thiết bị bổ trợ v.v… Công nghệ các hợp chất cao phân tử tách
ra từ cơng nghệ hóa dầu, cơng nghệ sinh học và các ngành dịch vụ, du lịch tiếp
nối ra đời…
Ở Việt Nam trong những năm gần đây, do sự chuyển biến của nền kinh tế
từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường, nên đã gây ra những
biến đổi sâu sắc trong cơ cấu nghề nghiệp của xã hội. Trong cơ chế thị trường,
nhất là trong nền kinh tế tri thức tương lai, sức lao động cũng là một thứ hàng
hóa. Giá trị của thứ hàng hóa sức lao động này tuỳ thuộc vào trình độ, tay nghề,
khả năng về mọi mặt của người lao động. Xã hội đón nhận thứ hàng hóa này như
thế nào là do “hàm lượng chất xám” và “chất lượng sức lao động” quyết định.
Khái niệm phân công công tác sẽ mất dần trong quá trình vận hành của cơ chế
4


thị trường. Con người phải chủ động chuẩn bị tiềm lực, trau dồi bản lĩnh, nắm
vững một nghề, biết nhiều nghề để rồi tự tìm việc làm, tự tạo việc làm…
Khi giúp đỡ thanh niên chọn nghề, một số nhà nghiên cứu thường đặt câu
hỏi: “Bạn biết được tên của bao nhiêu nghề?”. Nghe hỏi, nhiều bạn trẻ nghĩ rằng
mình có thể kể ra nhiều nghề, song khi đặt bút viết thì nhiều bạn khơng kể được
q 50 nghề. Bạn tưởng như thế đã là nhiều, song nhà nghiên cứu lại nhận xét:
Chà, sao biết ít vậy!
Để hiểu vì sao nhà nghiên cứu lại kêu lên như vậy, chúng ta hãy cùng nhau
làm sáng rõ 2 khái niệm Nghề và Chuyên môn.
Nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó, nhờ được đào tạo,
con người có được những tri thức, những kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm
vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được những nhu cầu của xã hội.
Nghề bao gồm nhiều chuyên môn. Chuyên môn là một lĩnh vực lao động sản
xuất hẹp mà ở đó, con người bằng năng lực thể chất và tinh thần của mình làm ra
những giá trị vật chất (thực phẩm, lương thực, công cụ lao động…) hoặc giá trị

tinh thần (sách báo, phim ảnh, âm nhạc, tranh vẽ…) với tư cách là những phương
tiện sinh tồn và phát triển của xã hội.
Trên thế giới hiện nay có trên dưới 2000 nghề với hàng chục nghìn chun
mơn. Ở Liên Xơ trước đây, người ta đã thống kê được 15.000 chun mơn, cịn ở
nước Mỹ, con số đó lên tới 40.000.
b. Khái niệm làng nghề.
Từ xa xưa, người nông dân Việt Nam đã biết sử dụng thời gian nông nhàn
để sản xuất những sản phẩm thủ công, phi nông nghiệp phục vụ cho nhu cầu đời
sống như: các công cụ lao động nông nghiệp, giấy, lụa, vải, thực phẩm qua chế
biến… Các nghề này được lưu truyền và mở rộng qua nhiều thế hệ, dẫn đến
nhiều hộ dân có thể cùng sản xuất một loại sản phẩm. Bên cạnh những người
5


chuyên làm nghề, đa phần lao động vừa sản xuất nông nghiệp, vừa làm nghề,
hoặc làm thuê (nghề phụ). Nhưng do nhu cầu trao đổi hàng hóa, các nghề mang
tính chất chuyên môn sâu hơn, được cải tiến kỹ thuật hơn và thường được giới
hạn trong quy mô nhỏ (làng), dần dần tách hẳn nông nghiệp để chuyển hẳn sang
nghề thủ cơng. Như vậy, làng nghề đã xuất hiện.
Có thể hiểu làng nghề “là làng nơng thơn Việt Nam có ngành nghề tiểu
thủ công nghiệp, phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số lao động và thu nhập so
với nghề nơng” [Đặng Kim Chi, 2005].
Có rất nhiều ý kiến và quan điểm khác nhau khi đề cập đến tiêu chí để một
làng ở nông thôn được coi là một làng nghề. Nhưng nhìn chung, các ý kiến thống
nhất ở một số tiêu chí sau:
- Giá trị sản xuất và thu nhập của từ phi nông nghiệp ở làng nghề đạt trên
50% so với tổng giá trị sản xuất và thu nhập chung của làng nghề trong năm;
hoặc doanh thu hàng năm từ ngành nghề ít nhất đạt trên 300 triệu đồng, hoặc:
- Số hộ và số lao động tham gia thường xuyên hoặc không thường xuyên,
trực tiếp hoặc gián tiếp đối với nghề phi nơng nghiệp ở làng ít nhất đạt 30% so

với tổng số hộ hoặc lao động ở làng nghề có ít nhất 300 lao động.
- Sản phẩm phi nơng nghiệp do làng sản xuất mang tính đặc thù của làng
và do người trong làng tham gia.
Theo Báo cáo mơi trường quốc gia năm 2008, tiêu chí cơng nhận làng
nghề gồm có 3 tiêu chí sau:
- Có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành
nghề nông thôn.
- Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời
điểm đề nghị công nhận.
6


- Chấp hành tốt chính sách Pháp luật của Nhà nước.
1.1.2. Văn hóa làng nghề.
a. Phân biệt các thuật ngữ nghề làng, làng nghề, văn hóa làng nghề.
Làng nghề thủ công như là gương mặt của làng xã nông nghiệp, nó là một bộ
phận khơng thể tách rời, thậm chí phát triển song hành cùng làng xã của người
Việt. Chính vì vậy, khi tìm hiểu và phân tích về làng nghề truyền thống, chúng ta
thật khó có thể phân định một cách rõ ràng thế nào là làng nghề và thế nào là
không phải làng nghề. Mặt khác, khi định dạng thuật ngữ này, chúng ta cịn có thể
gặp phải những tiêu chí đã được mặc định sẵn của các ngành khác như: Du lịch,
kinh tế…
Trong cuốn Văn hóa Việt Nam tìm tịi và suy ngẫm, GS. Trần Quốc Vượng
đã “thử đưa ra một định nghĩa về làng nghề” nhưng thực chất đây là một định
nghĩa đầy đủ nhất từ trước đến nay. Trước hết, định nghĩa này khẳng định làng
nghề là một yếu tố quan trọng trong xã hội tiểu nơng, có những làng gắn với nơng
nghiệp và có những làng được chun mơn hóa (những làng chun mơn hóa
thường gắn liền với đơ thị hay kinh đơ hoặc khu vực trung tâm và có một tầng lớp
thợ thủ cơng chun nghiệp, có cơ cấu tổ chức phường hội…):
“Theo chúng tôi hiểu gọi là một làng nghề (như làng gốm Bát Tràng, Thổ

Hà, Đơng Hồ,…), làng đồng (Bưởi, Vó, Hè Nôm, Thiệu Lý, Phước Kiều…), làng
giấy vùng Bưởi, Dương Ô…, làng rèn sắt Canh Diễn, Phù Dực, Đa Hội v.v…) là
làng ấy, tuy vẫn có trồng trọt theo lối tiểu nơng và chăn ni nhỏ (lợn, gà…) cũng
có một số nghề phụ khác như (đan nát, làm tương, làm đậu phụ…) song đã ổi trội
một nghề cổ truyền, tinh xảo, với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay
bán chuyên nghiệp, có phường (cơ cấu tổ chức), có ông trùm, ông phó cả… cùng
một số thợ và phó nhỏ, đã chun tâm, có quy trình cơng nghệ nhất định, “sinh ư
nghệ, tử ư nghệ”, “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, sống chủ yếu được bằng nghề
7


và sản xuất ra các mặt hàng thủ công; những mặt hàng này có tính mỹ nghệ, đã trở
thành sản phẩm hàng hóa có quan hệ tiếp thị (marketing) với một thị trường là
vùng rộng xung quanh và với thị trường đơ thị, thủ đơ (Kẻ Chợ, Huế, Sài Gịn…)
và tiến tới mở rộng ra cả nước rồi xuất khẩu ra nước ngoài.
Dựa theo quan điểm phan chia làng Việt theo chức năng về kinh tế và định
nghĩa của GS. Trần Quốc Vượng, có thể đua ra một số đặc điểm của làng Việt nói
chung và làng nghề châu thổ sơng Hồng như sau: Trong diễn trình lịch sử, làng
Việt đã trải qua các giai đoạn phát triển, hình thành nên những hình thái – kiểu
làng để phù hợp với từng thời kỳ lịch sử nhất định. Các kiểu hình thái này song
song tồn tại cho đến thời điểm hiện nay.
Làng nông nghiệp: là cư dân chủ yếu sinh sống bằng nghề trồng lúa nước,
ngồi ra trong thời gian nơng nhàn họ làm thêm nghề phụ khác (nghề thủ công
như: làm đậu, đan nát,…) để tăng nguồn thu nhập – nghề phụ của làng được gọi
lag Nghề làng)
Một đặc tính nữa của xã hội tiểu nông là buôn bán nhỏ lẻ, dần dần đã hình
thành nên một số làng bn, nhưng thực tế cho thấy, làng buôn không thể đứng
vững một mình mà phải phụ thuộc rất nhiều vào nghề làng và làng nghề.
Ngồi ra, cịn một số kiểu làng khác như: làng vạn chài ven sông…
Vậy đặc trưng của văn hóa làng nghề ở châu thổ sơng Hồng bao gồm những

yếu tố gì (?) và khác gì so với làng nông nghiệp (?):
- Về cơ bản, đặc trưng của văn hóa làng nghề cũng tương tự văn hóa làng
truyền thống với những yếu tố cấu thành như:
+ Cơ cấu tổ chức: Diện mạo làng xã, dòng họ, phe, giáp, các hội đồng
niên…
+ Văn hóa vật thể: Đình, đền, chùa, miếu, nhà thờ, nhà ở…
8


+ Văn hóa phi vật thể: Luật tục, phong tục, tập qn, ứng xử xóm làng, lễ
hội, tín ngưỡng dân gian…
- Do nguồn sống chủ yếu dựa vào các sản phẩm của các nghề thủ công và
việc trao đổi buôn bán (kinh doanh hàng hóa), cộng thêm sự tác động của quá
trình di dân (di động xã hội), nên văn hóa làng nghề có yếu tố mở khác hẳn với
làng nông nghiệp.
+ Cơ cấu tổ chức: Phường/hội nghề, mối quan hệ làng xóm - dịng họ - gia
đình - thợ thủ cơng.
+ Một số hình thái văn hóa: Nghề và tín ngưỡng thờ tổ nghề (nơi thờ tổ
nghề); ứng xử mang tính tiểu thương; bí quyết và kỹ xảo nghề; các tập tục riêng
biệt của làng nghề…
b. Những vấn đề đặt ra về văn hóa làng nghề trong đời sống đương đại.

Trong cuộc sống đương đại, khi Việt Nam đã ra nhập Tổ chức Thương mại
thế giới (WTO), nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, văn hóa làng làng
hay văn hóa làng nghề chắc chắn sẽ biến đổi.
- Theo từ điển tiếng Việt, thuật ngữ biến đổi có nghĩa là: sự đổi khác; Biến
đổi văn hóa: là sự đổi khác của văn hóa trong bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hội
nhất định. Nói cách khác, biến đổi văn hóa là sự thích nghi và phát triển của văn
hóa trong từng giai đoạn của lịch sử, nếu khơng thích nghi và phát triển thì văn
hóa sẽ biến đổi theo chiều hướng khơng tích cực. Vậy, những vấn đề đặt ra khi

nghiên cứu sự biến đổi văn hóa làng nghề là gì (?) xu hướng biến đổi (?) và đưa ra
những chính sách mang tính định hướng để xã hội tự điều tiết như thế nào (?).
Dưới đây là một số biến đổi văn hóa làng nghề
+ Các yếu tố chính trị - kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến sự biến đổi của nghề
truyền thống và văn hóa làng nghề.

9


+ Các nguyên nhân bên trong của cộng đồng làng ảnh hưởng đến sự biến đổi
văn hóa làng nghề (tâm lý cộng đồng, hệ thống giá trị chuẩn mực).
+Sự biến đổi các yếu tố cấu thành nên văn hóa làng nghề.
+ Q trình đơ thị hóa sẽ làm tan rã cộng đồng làng.
+ Sự hình thành các yếu tố văn hóa mới trong làng nghề.
c. Vấn đề bảo tồn và phát huy văn hóa các làng nghề.
- Chính sách gắn phát triển kinh tế với văn hóa làng nghề (chuyên sâu hóa
một số ngành nghề).
- Phát triển văn hóa làng nghề trên cơ sở bảo tồn các làng nghề truyền thống.
- Phát triển văn hóa làng nghề dựa vào phát triển du lịch bền vững - đây là
một trong những bài toán nan giải - dùng kinh tế để thúc đẩy phát triển văn hóa và
ngược lại - khơng chỉ riêng trường hợp ở Việt Nam mà còn của cả khu vực và thế
giới.
- Vấn đề vốn xã hội của làng nghề (hay nói đúng hơn là của cộng đồng cư
dân của làng nghề ấy) trong quá trình hội nhập kinh tế thị trường, vốn xã hội có
giúp ích gì trong quá trình tồn tại của làng nghề.
- Vấn đề vốn xã hội của làng nghề (hay đúng hơn là của cộng đồng cư
dân của làng nghề ấy) trong quá trình hội nhập kinh tế thị trường, vốn xã hội
có giúp ích gì trong q trình tồn tại của làng nghề.
1.2.


Làng tranh dân gian Đông Hồ.

1.2.1. Địa lý tự nhiên và cơ cấu dân cư.
a. Vị trí địa lý.
Xã Song Hồ nằm ở phía đơng bắc của huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, là
một trong những xã có nền kinh tế phát triển nổi bật của huyện.
10


Song Hồ cách trung tâm Hà Nội khoảng 35km về hướng đông, nằm bên bờ nam
đê sông Đuống, giao thông tương đối thuận lợi, thông ra quốc lộ 5.
b. Địa hình địa chất.
Địa hình xã Song Hồ tương đối bằng phẳng. Hàng năm được phù sa sông
Đuống bồi đắp nên đất đai rất màu mỡ, thích hợp cho việc trồng lúa, hoa màu.
Đặc biệt là các loại cây trồng như tre, dành dành,…. Phát triển rất nhanh, là nguồn
nguyên liệu vô tận cho việc sản xuất của làng tranh Đông Hồ.
c. Khí hậu, thủy văn.
* Khí hậu.
Song Hồ mang đặc điểm chung của khí hậu Đồng bằng Bắc Bộ thể hiện
tính chất nhiệt đới gió mùa, nắng lắm mưa nhiều. Mùa mưa trùng với thời kì gió
Đơng Nam kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10. Mùa khô trùng với thời kì gió Đơng
Bắc kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm là 24°C.
Các tháng có nắng, ít mưa, thuận lợi cho việc phơi sấy tranh là tháng 5, 6, 10, 11,
12.
Biên độ dao động nhiệt giữa tháng nóng nhất và tháng lạnh nhất là 13°14°. Tổng lượng nhiệt đạt 8400- 8600°C. Lượng mưa trung bình năm là 16001800mm.
Hai hướng gió chủ đạo là Đông Bắc và Đông Nam, thuận lợi cho công đoạn
phơi và làm khơ sản phẩm.
Đặc điển khí hậu này khá thuận lợi cho việc phát triển trồng lúa, cây rau
màu cũng như việc phơi sấy sản phẩm.
d. Thổ nhưỡng, thực vật.

Đất của xã chủ yếu là đất phù sa, thuận lợi cho trồng lúa và cây rau màu.
Đất có thành phần cơ giới thịt trung bình và nặng.
11


Đất đai có nguồn gốc phù sa sơng Hồng được phân ra hai loại đất chính:
- Đất phù sa được bồi đắp hàng năm phân bố ở ngồi đê sơng Đuống.
- Đất phù sa không được bồi đắp hàng năm, phân bố ở phía trong đê
sơng Đuống.
Thảm thực vật ở đây tương đối nghèo nàn. Các loại cây trồng chủ yếu
như: lúa, hoa màu, cây ăn quả phân bố không đồng đều.
e. Cơ cấu dân cư.
Làng Đông Hồ là một làng nhỏ (có hơn 220 hộ dân). Người dân nơi đây
sống bằng nghề làm tranh nhiều hơn là làm nông nghiệp. Ngày xưa, hầu như gia
đình nào cũng biết làm tranh cùng với nghề làm vàng mã.
Nghề làm tranh và làm vàng mã của xã đã góp phần giải quyết vấn đề việc
làm cho người dân trong xã tăng lên khá nhiều (khoảng 80%). Khơng những
người lớn có thể làm được mà trẻ em nơi đây cũng làm rất thành thạo, góp phần
tạo thêm thu nhập cho gia đình.
1.2.2. Đời sống kinh tế.
Giống như các xã trong huyện nói riêng và tồn tỉnh nói chung, Song Hồ
vẫn lấy nơng nghiệp làm chủ đạo, trồng lúa, hoa màu,… Nghề làm tranh vẫn
được ưa chuộng, gìn giữ. Ngồi ra, Song hồ vẫn có nghề làm vàng mã cùng tồn
tại song song với nghề làm tranh của xã. Ngày xưa thì hầu như cả làng nhà nào
cũng biết làm tranh, nhưng hiện nay thì chỉ cịn hai gia đình làm tranh cuối cùng
của làng, đó là gia đình nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế và gia đình nghệ nhân
Nguyễn Hữu Sam.
1.2.3. Đời sống văn hóa.
Hằng năm cứ vào ngày 15 tháng 3 âm lịch, theo tập tục địa phương thì dân
làng Đơng Hồ lại tổ chức lễ hội (lễ rước nước chỉ tổ chức 5 năm một lần). Nguồn

12


gốc lâu đời của lễ hội làng tranh là lễ hội nơng nghiệp, nhưng trong q
trình“biến đổi” xã hội thì lễ hội nơi đây đã chuyển dần sang lễ hội làng nghề,
mang ý nghĩa xã hội, lịch sử và văn hóa phong phú.
Có thể nói, lễ hội là loại hình sinh hoạt văn hóa - cộng đồng, đáp ứng nhu
cầu “tâm linh” không thể thiếu trong đời sống của mỗi cộng đồng dân tộc. Nó
thuộc phạm vi lối sống, bởi vì trong các phong tục, tập quán của dân tộc, ta
thường thấy chuỗi hành động biểu trưng hiện ra như một nghi thức đời thường
và nhất là trong nghi lễ tín ngưỡng tơn giáo. Các hành vi mang “tính biểu
tượng” được con người biểu hiện ra trong đời sống hàng ngày là nhờ trí khơn của
con người mà có, bởi lẽ, yếu tố hàng đầu của văn hố chính là sự hiểu biết. Trí
khơn của con người được tích luỹ trong quá trình học tập, lao động sản xuất và đấu
tranh với tự nhiên suốt chiều dài lịch sử nhân loại, để duy trì và phát triển cuộc sống
của mỗi cộng đồng dân tộc. Chính vì vậy, văn hóa được xem là “giá trị
tinh thần” nhằm thỏa mãn mọi nhu cầu tinh thần của con người. Nhà Nhân học
Ruth Bennedict đã nhận định rằng:“Văn hóa là những hành vi (lối sống) do con
người học được, chứ không phải là sự kế thừa sinh học”.
Ở làng tranh Đơng Hồ có một ngơi đình cổ rất lâu đời. Trước đây đình ở
ngồi bờ sông, nhưng do nước sông dâng lên thường xuyên nên phải di chuyển
vào vùng đất cao như hiện nay, việc chuyển dời đình đã được thực hiện vào năm
Đinh tỵ cách đây hơn 100 năm. Đình làng Đơng Hồ đã được cơng nhận là “di
tích lịch sử văn hóa” từ năm Quý Dậu (1993) và mới đây được trùng tu lại vào
năm Ất Dậu (2005).
Biểu tượng Thành hoàng làng của đình Đơng Hồ là một “nhiên thần” có
tên là “Phổ Tế Trấn Bắc đại vương - Thượng Đẳng Thần” có từ đời vua Tự Đức.
Truyện kể rằng, có một lần thuyền vua Tự Đức đi ngang qua nơi đây, bỗng nhiên
có một trận cuồng phong, mưa gió nổi lên, nhà vua ra lệnh dừng thuyền và cho
người tìm hỏi dân làng gần đây có đình, chùa nào linh thiêng không? Dân sở tại

13


cho biết, làng có một ngơi đình thờ đức ơng “Phổ Tế Trấn Bắc Đại vương” và
một đền thờ đức bà “Diệu Linh Tiên chúa” rất linh thiêng. Vua Tự Đức nghe
xong, liền ra lệnh sắc phong cho vị đức ông là: “Bác trạch hoằng thi phổ huệ
đôn ngưng chi thần” và vị tiên bà là: “Cổ mão đại ngạn diệu linh tiên chúa”.
Về sau, đời vua Khải Định cửu niên tái sắc phong cho đức ông là: “Dực
bảo trung hưng phổ tế trấn Bắc Đại vương” và sắc phong cho đức bà là: “Túy
mục thượng đẳng thần”. Có lẽ, vì thế mà hướng đình làng Đơng Hồ đã được dân
làng chọn nhìn về hướng Bắc, thay vì quay về hướng Nam như các ngơi đình
khác. Ngồi đình và đền ra, trong bảng khai thần tích của làng, khơng thấy ghi
chép một ngôi chùa nào.
Trong dịp mở hội làng, mọi người ở khắp nơi đều muốn giành chút thời
gian trở về làng dự hội, qua đó, có nén tâm hương cùng với tấm lịng thành kính
dâng các bậc “thần linh” để cầu mong các ngài phù hộ cho được ấm no và hạnh
phúc. Có thể nói, vai trị tín ngưỡng của ngơi đình trong tâm thức của người dân
làng Đơng Hồ là rất quan trọng. Nó thuộc về “nhu cầu tâm linh” khơng thể thiếu
được trong đời sống văn hóa ở nơi đây.
Ngơi đình làng Đơng Hồ được trùng tu, xây dựng lại theo kiến trúc hình
chữ Đinh, tạo nên bởi tịa hậu cung nối vng góc với gian đại đình. Gian đại
đình bao gồm một tịa 5 gian 2 chái, kết cấu 8 hàng chân cột, mỗi hàng 4 cột với
tổng số là 32 cột gỗ lim cứng, tạo nên thế vững chắc cho ngơi đình. Bề ngang
ngơi đình rộng 12m, nếu kể cả hai chái hai bên (mỗi bên 2,5m chiều ngang) tổng
cộng là 17m. Chiều dọc của ngơi đình là 12m (gồm 6m gian đại đình và 6m hậu
cung). Đình tuy tu tạo lại mới được 6 năm, nhưng do kế thừa hầu hết phần thiết
kế nội cung của ngơi đình cổ trước đây, nên khi hồn thành vẫn giữ được sự uy
nghiêm, cổ kính như hiện nay (chủ yếu là phần bên trong ngơi đình). Kết cấu vì
kèo theo kiểu “Chồng rường giá chiêng, hạ bẩy”, trên các đầu dư, đầu bẩy, xà
ngang, cốn nách, câu đầu…đều có chạm khắc các hình trang trí hoặc hoa lá với

14


kỹ thuật khá tinh vi và có giá trị mỹ thuật cao. Kiểu nhà 2 mái lợp ngói mũi hài
tạo nên sự hài hồ và thơng thống. Trên nóc đình có đắp nổi biểu tượng “Lưỡng
long chầu nguyệt” tạo nên sự uy nghiêm cho ngơi đình. [Nguyễn Văn Hậu – Đời
sống văn hóa tâm linh ở làng tranh Đơng Hồ].

Chương 2: ĐẶC ĐIỂM LÀNG TRANH DÂN GIAN ĐƠNG HỒ.
2.1.

Sự hình thành và phát triển làng tranh dân gian Đông Hồ.

2.1.1. sự hình thành làng tranh dân gian Đơng Hồ.
Tranh Đơng Hồ có từ thời Lê, thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh
Hà Bắc (cũ). Ngày xưa chợ tranh họp năm phiên trong tháng duy nhất của năm –
tháng chạp vào các ngày 6,11,16,21,26.
Chợ chỉ họp và bán tranh sau khi các gia đình đã sửa lễ cúng thánh:
“Dù ai bn bán trăm nghề
Nhớ đến tháng chạp thì về bn tranh…”
Làng Đơng Hồ xưa cịn gọi là làng Mái. Ở cái làng nghèo mà hào hoa như
làng tranh Đông Hồ trước đây các cụ vẫn truyền lại mấy câu ca:
“Hỡi cơ thắt lưng bao xanh
Có về làng Mái với anh thì về
Làng Mái có lịch có lề
Có sơng tắm mát có nghề làm tranh”
Làng Đơng Hồ nằm ngay sát bờ sơng Đuống, ngày xưa chỉ cách sơng một
con đê, đó là ý trong câu “Có sơng tắm mát có nghề làm tranh”. Ngày nay, do sự
bồi lấp của dịng sơng nên từ đê ra đến mép nước giờ khá xa.
15



Cịn “làng Mái có lịch có lề” thì nghĩa là gì? Tục ngữ Việt Nam có câu:
giấy rách phải giữ lấy lề. Chữ lề ở đây tượng trưng cho những quy tắc đạo đức
của người xưa, rất trọng danh dự, khí tiết. Cịn dân làng Mái, dân nghệ thuật rất
trọng lời ăn tiếng nói. Khơng như nhiều làng q khác, người dân làng Hồ, nhất
là phụ nữ, ăn nói rất lịch lãm, trên dưới thưa gửi rất rõ ràng. Người làng kể rằng
kể cả từ xưa, rất hiếm khi trong làng có tiếng người mắng chửi nhau.
Khơng khí sầm uất vào cữ một chạp, các thuyền từ xứ Đôn xứ Đoài ghé
bến “ăn tranh”. Người làm tranh trước ở ngoài đê vào mùa vụ làm tranh cũng
phải một sương hai nắng tất bật sớm khuya. Thơi thì chỗ này rậm rịch tiếng chày
giã điệp, chỗ nọ dỡ ván in tranh cọ rửa lau chùi sạch sẽ. Khói đốt than lá tre ẩn
hiện la đà trên các ngọn cây. Làng Đông Hồ ruộng đất ít, từ cụ già đến con trẻ
đều mê và nghiện trà đặc. Thuốc lào Tiên Lãng và chè móc câu Thái Ngun là
thứ khơng thể thiếu được trong các đêm làm tranh. Tiếng rít thuốc lào sịng sọc
nghe vui tai, nước trà đặc sánh, làm cho đầu óc minh mẫn, tỉnh táo khiến cho nét
vẽ, màu vẽ thêm sống động, có hồn có vía. Tranh đẹp hay không đẹp đều chỉ
nhất loạt giữ giá một, người sành chơi có thể tùy ý lựa chọn. Khơng khí tết chộn
rộn không chỉ ở cảnh kẻ bán người mua tấp nập, mà cả bởi vẻ rực rỡ, sắc màu
tươi rói của những bộ tứ bình, Thạch Sanh, những gà, lợn, mèo, chuột, ngựa.
“Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Hồn dân tộc sáng lừng trên giấy điệp”
Có thể nói, cái đặc biệt của làng tranh Đông Hồ là ở chỗ. Tranh dân gian
Hàng Trống, Kim Hồng, Huế… khơng thể có sắc màu mn hồng ngàn tía của
tranh Đơng Hồ, cũng khơng thể có nền giấy điệp quyến rũ đó. Người sành tranh
Đơng Hồ cũng chính bởi chất dân gian chứa đựng trong tờ tranh nền giấy điệp
trắng ngà.

16



Người dân làng chuyên sản xuất tranh nhưng không bao giờ treo tranh
trong nhà mà đem bán hoặc cho thiên hạ hết. Nghề làm tranh trong làng rất được
trọng vọng; ai có hoa tay, có thú chơi cầm, kỳ, thi, họa đều được mọi người vị nể
(cũng là theo cái thú tao nhã của nhà nho xưa). Làng tranh cũng trải qua biết bao
nhiêu thăng trầm. Các cụ nghệ nhân trong làng kể lại: Hồi Pháp thuộc, người ở
nhà Bác Cổ thỉnh thoảng lại đánh xe ô tô về mua tranh, thậm chí mua cả bản
khắc tranh nữa! Nhà cụ Lử có bản khắc tranh gà rất quý đưa đi đóng cửa chuồng
gà, người Pháp phát hiện ra hỏi mua cụ bán liền. Nghĩ mà tiếc đứt ruột! Lại còn
nhớ cái thuở Tây càn, dân làng Hồ chạy loạn, binh lửa chiến tranh liên miên và
cái khí hậu ẩm ướt khắc nghiệt của thiên nhiên miền Bắc, ván khắc tranh bị hỏng
và thất lạc khá nhiều.
Bản gốc tranh Đánh ghen, Gà đại cát, lợn ăn củ ráy... cũng khơng cịn nữa.
Sau ngày Hịa Bình lập lại thấy trên báo Pháp có in tranh dân gian làng Hồ,
Chính phủ ta phải liên hệ với Đảng Cộng sản Pháp xin cho khắc lại ván tranh để
bảo tồn. Tranh Đơng Hồ có một dạo lên đến điểm “cực thịnh”, đã từng sáng giá
trong các triển lãm nghệ thuật lớn ở các nước trên thế giới với nét vẽ nhuần
nhụy, tươi tắn như hồn người đất Việt. Bà con Việt kiều khi về nước cũng phải
tìm mua bằng được những “bức tranh làng Hồ và cô Tố Nữ dáng quê hương, để
khi ở xa quê trong sương mù Luân Đôn hay cái giá lạnh của Pa-ri hoa lệ cảm
thấy ấm lòng ở chốn tha hương”
2.1.2. Quá trình phát triển của làng tranh dân gian Đông Hồ.
Do công nghệ phát triển, tranh dân gian Đông Hồ bây giờ không tiêu thụ
nhiều như trước. Qua nhiều thế kỷ, 17 dòng họ đã quy tụ về làng, vốn xưa tất cả
đều làm tranh. Nhưng đến nay, dân làng Hồ hiện chủ yếu sống bằng nghề làm
vàng mã. Hiện nay chỉ cịn hai gia đình nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế và Nguyễn
Hữu Sam cùng con cháu là theo nghề tranh, gìn giữ di sản tranh Đơng Hồ.
17



Mặc dù vậy, Quanh năm vẫn có rất nhiều khách du lịch trong ngồi nước
đến làng tranh Đơng Hồ thăm và mua tranh Đông Hồ làm kỷ niệm. Một số khách
sạn, nhà hàng từ Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh cũng về đây đặt những bức
tranh khổ lớn để trang trí cho cách phịng khách, hoặc phịng ăn lớn. Từ Hà Nội
muốn đi Đông Hồ đường gần nhất du khách thường đi là xuôi theo đường Quốc
lộ số 5 (đường đi Hải Phòng) đến ga Phú Thụy, cách Hà Nội chừng 15 km thì rẽ
trái, đi chừng 18 km nữa, qua các địa danh khá nổi tiếng của huyện Gia Lâm (Hà
Nội) như phố Sủi, chợ Keo, chợ Dâu (Thuận Thành-Bắc Ninh) là đến phố Hồhuyện lỵ Thuận Thành. Rẽ trái thêm 2 km là đến làng Hồ. Cũng có thể đi hết phố
Hồ, lên đê rẽ trái, gặp điếm canh đê thứ hai sẽ có biển chỉ đường xuống làng
Đông Hồ.
Theo đánh giá của một số họa sĩ, tranh Đông Hồ in ở thời điểm hiện tại
thường không có màu sắc thắm như tranh cổ, nguyên nhân là người ta trộn màu
trắng vào điệp quét giấy để bớt lượng điệp khiến giấy mất độ óng ánh và trở nên
"thường", màu sắc sử dụng cũng chuyển sang loại màu cơng nghiệp, các bản
khắc mới có bản khơng được tinh tế như bản cổ. Một điểm đáng lưu ý khác nữa
là một số bản khắc đã đực bỏ phần chữ Hán (hoặc chữ Nơm) bên cạnh phần
hình của tranh khiến tranh ít nhiều bị què cụt về mặt ý nghĩa. Ngun nhân dẫn
tới tình trạng này ước đốn là: Có một thời chữ Hán (và chữ Nôm) bị coi là
phong kiến lạc hậu, liệt vào danh mục bài xích nên thợ in đự bỏ đi cho đỡ rách
việc. Thế hệ sau này không phải ai cũng đọc và hiểu được các ký tự ấy nên tự ý
bỏ đi. Cũng do không đọc hiểu được nên các ván khắc truyền lại “tam sao thất
bản”, đến mức còn lại các ký tự nhưng khơng đọc được ra chữ gì.
Về nội dung tranh, lưu ý rằng có sự gần gũi nhất định giữa nội dung tranh
khắc gỗ màu của Việt Nam với của Trung Quốc, có những tranh mà cả hai nước
đều có, song tranh Đông Hồ phát triển thành một hướng riêng tồn tại nhiều thế
18


kỷ và được thừa nhận như dòng tranh dân gian được biết đến nhiều nhất ở Việt
Nam.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây do sự sản xuất ồ ạt mặt hàng vàng mã
của những hộ gia đình trong xã đã làm cho môi trường đất và nước của xã đang
bị ô nhiễm bởi phế thải phẩm màu từ việc sản xuất mang lại.
* Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế trăn trở truyền nghề tranh.
Trải qua bao thăng trầm lịch sử, tưởng chừng những nét văn hóa truyền
thống đậm chất dân gian của những bức tranh miền quê Kinh Bắc sẽ dần mai
một.
Thế nhưng, trong vơ vàn gian khó, lão nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế vẫn
miệt mài khôi phục và làm thức dậy những tuyệt tác của tranh dân gian Đông
Hồ.
Không gian làng quê, những mảnh vườn được trau truốt như đập vào mắt
người xem một quãng thời gian hưng thịnh của làng tranh Đơng Hồ, ít ai biết để
có được một thành quả như vậy ông đã mất hàng chục năm tìm tịi, phục dựng.
Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế đã xây dựng trong chính căn nhà rộng hơn 10.000
mét vng của ông để làm nơi sản xuất và trưng bày những bức tranh Đơng Hồ
độc đáo, nó được ơng gọi một cách thân quen là “bảo tàng nhà quê”.
Chỉ tay về hướng những người thợ đang miệt mài bút vẽ, ông nói tranh làng
Ðơng Hồ khơng phải vẽ theo cảm hứng nghệ thuật mà người ta dùng ván để in.
Bởi vậy, chất lượng nghệ thuật của tranh phụ thuộc khá nhiều vào bản khắc gỗ.
Ðể có những bản khắc đạt đến trình độ tinh xảo như vậy địi hỏi phải có người vẽ
mẫu trước.
Hơn nữa, những người vẽ mẫu và người chế tác bản khắc địi hỏi họ phải
có lịng u nghệ thuật và tâm hồn nghệ sĩ, đức tính tỉ mỉ và đặc biệt phải có
19


trình độ kĩ thuật cao. Sau khi hồn thành bản khắc thì cơng việc in tranh khơng
cịn khó khăn gì, một người mới vào nghề cũng có thể in được.
Tranh in cũng thể hiện tính dí dỏm, khung cảnh ấm cúng của Tết Nguyên
đán đó là “hạnh phúc, may mắn và thịnh vượng”.

Nhìn vào từng bức tranh chúng ta cũng có thể thấy những bình luận về xã
hội phong kiến qua các hình tượng tranh Đơng Hồ. Riêng bức tranh nổi tiếng
“Đám cưới chuột” là sự thể hiện tài tình các thói hư tật xấu của xã hội phong
kiến thơng qua hình tượng các con vật một cách dí dỏm và sâu sắc.
Nhìn cái cách ơng nâng niu từng bức tranh trên tay, chúng ta có thể hiểu
nghệ nhân này đang đam mê với nghề như thế nào, dù đã ở cái tuổi “thất thập cổ
lai hy” nhưng những bộ tranh cổ và quý hiếm thuộc dòng tranh dân gian vẫn
được ơng lưu giữ cẩn thận.
Ơng cho biết, hiện đang lưu giữ khoảng 20 mẫu tranh Đông Hồ do một
người nước ngồi u tranh Đơng Hồ gửi tặng. Theo ơng đây đều là các mẫu
tranh lạ mà ông chưa từng thấy.
Điều này khẳng định thêm các mẫu tranh Đông Hồ qua các thời kỳ là rất đa
dạng nhưng những biến cố của lịch sử đã làm mai một dần sự phong phú đó,
cũng như những giá trị vốn có của dịng tranh dân gian Đơng Hồ…
Nghề làm Tranh Đơng Hồ ở Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh ngày nay chỉ còn đếm
trên đầu ngón tay, những hình bóng về một làng tranh tấp nập kẻ bán người mua
giờ chỉ còn trong ký ức của những người già. Thậm chí cái tên làng tranh Đơng
Hồ cũng chỉ cịn trên... giấy.
Theo như nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế, làng Đơng Hồ xưa cịn gọi là làng
Mái, thời kỳ cực thịnh của dòng tranh này là trước năm 1944, khi đó, 17 dịng họ
trong làng Đông Hồ đều làm tranh. Mỗi năm phiên chợ bán tranh của làng chỉ

20


họp năm phiên, mỗi phiên năm ngày vào dịp tháng Chạp để bán cho khách thập
phương.
Để chuẩn bị cho phiên chợ, cả làng tất bật từ tháng bảy âm lịch. Sân nhà,
sân đình, triền đê sơng Đuống bừng lên năm sắc mầu cơ bản: sắc đỏ của sỏi son,
sắc xanh từ lá chàm, sắc vàng của hoa hòe, mầu đen của rơm nếp và lá tre, mầu

trắng óng ánh từ vỏ sị, vỏ điệp.
Bấy nhiêu thơi cũng đủ cho thấy, một bức tranh ra đời là chứa đựng trong
nó bao nhiêu tài hoa, công sức, thời gian, ý tưởng, suy nghĩ của người làm tranh.
Nhưng đó cũng là lý do tại sao người dân làng tranh phải dứt bỏ nghề
truyền thống bao năm của mình khi tranh giờ đây khơng thể đủ ni sống họ,
hiện chỉ có 2 gia đình theo nghề với những tâm huyết và đầu tư thực sự.
Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế chia sẻ, tuy đã có nhiều cố gắng của khơng ít
cá nhân, tổ chức, nhưng việc khơi phục và phát triển dịng tranh vẫn đang ở trong
tình trạng hết sức khó khăn và Tranh Đơng Hồ đang đứng trước nguy cơ mai
một.
“Đối với tôi, làm tranh văn hóa dân gian cịn là khát vọng cho người xem
thấy nền văn hóa Việt đa dạng, sống động. Nhưng giờ giới trẻ lạnh nhạt với
những bức tranh truyền thống này lắm. Nhiều người đến đây học, nhưng lòng
kiên trì của họ ít q nên tồn bỏ dở”, ơng Chế trăn trở.
Chính những thăng trầm ấy khiến dịng tranh dân gian Đơng Hồ “vang
bóng một thời” khơng cịn ở thời kì hồng kim như trước và muốn xem tranh
Đơng Hồ chắc người u tranh cũng chỉ cịn tìm được những nơi như gia đình
nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế.
Những đóng góp bây lâu nay của gia đình ơng cho nghề tranh Đơng Hồ đã
góp phần khơng nhỏ trong việc khơi phục và gìn giữ một dịng tranh dân gian nổi
tiếng của đất kinh Bắc, góp phần giữ hồn dân tộc tiếp tục sáng bừng trên giấy
21


điệp với những sắc màu tươi trong, ấm áp như chính tâm hồn con người Việt
Nam.
“Nhiều người nói rằng tranh Đông Hồ sẽ mai một đi, nhưng tôi tin là với
hồn Việt ẩn chứa trong mỗi bức tranh thì tranh Đông Hồ vẫn sống, như mạch
sống đã lan truyền từ đời ông cha ta hàng trăm năm nay”, nghệ nhân Nguyễn
Đăng Chế nói.

2.2.

Quy trình sản xuất và sản phẩm của làng tranh Đơng Hồ.

2.2.1. Quy trình sản xuất của làng tranh Đông Hồ.
a. Nguyên liệu.
Cái làm nên nét đẹp đặc sắc độc đáo của tranh Đơng Hồ chính là chất liệu
làm tranh, được chế biến thủ công từ các nguyên liệu có sẵn trong thiên nhiên.
- Bản khắc gỗ in tranh.
Được làm bằng gỗ mít, do các nghệ nhân khắc các mảng miếng khác nhau
của bức tranh lên đó. Người làm công đoạn này phải rất tài hoa, tinh xảo và điêu
luyện. Tranh có đẹp hay khơng phụ thuộc hồn toàn vào các bản khắc ấy. Cái đặc
biệt của tranh Đơng Hồ, đó là cùng một bức tranh nhưng có rất nhiều bản in, mỗi
bản in là một chi tiết trên bức tranh. Khi in đủ số bản in đó thì mới hồn thành
một bức tranh với đầy đủ những đường nét, màu sắc hấp dẫn, vui tươi.
- Giấy in tranh.
+ Giấy dó.
Vỏ cây dó được nấu ngâm trong nước vơi với thời gian ba tháng, bóc bỏ
lượt vỏ đen đi, giã bằng cối và chày rồi dùng chất nhày từ cây mị (chi
clerodendrum) tạo hỗn hợp kết dính. Hỗn hợp này gọi là “huyền phù” mà người
thợ sẽ pha với nước độ lỏng hay đặc tùy theo loại giấy. Khi seo giấy, người thợ
dùng “liềm seo” (khn có mành trúc, nứa hay dây đồng ken dày) chao đi chao
22


lại trong bể bột dó. Lớp bột dó trên liềm chính là tờ giấy dó sau khi kết thúc cơng
đoạn ép. Phơi, sấy, nén hay cán phẳng. Xơ dó kết lại với nhau, như cái mạng
nhện nhiều lớp, tạo nên tờ giấy dó. Sự kết mạng như vậy đã làm cho tờ giấy xốp.
Vì xốp nên giấy rất nhẹ. Sau cùng là phơi hoặc sấy.
+ Đặc tính của giấy dó.

Giấy dó có đặc tính xốp nhẹ, bền dai, khơng nh khi viết vẽ, ít bị mối mọt,
hoặc dịn gẫy, ẩm nát.
Giấy dó xốp, nhẹ do nguyên liệu, cách chế biến, xử lý ngun liệu và cơng
nghệ sản xuất giấy dó quy định. Giấy dó có cấu trúc dạng sợi, các xơ sợi li ti cố
kết với nhau tựa mạng nhện, nhiều lớp, không theo thứ tự sợi ngang, dọc như
tấm lụa dệt, mà theo dạng chuyển động brown, đa chiều. Giấy dó có trọng lượng
riêng bằng khoảng một nửa các loại giấy sản xuất công nghiệp.
+ Giấy điệp.
Giấy in tranh Đông Hồ được gọi là giấy điệp: người ta nghiền nát vỏ con
điệp, một loại sò vỏ mỏng ở biển, trộn với hồ (hồ được nấu từ bột gạo tẻ, hoặc
gạo nếp, có khi nấu bằng bột sắn - hồ dùng để quét nền tranh thường được nấu
loãng từ bột gạo tẻ hoặc bột sắn, hồ nấu từ bột nếp thường dùng để dán) rồi dùng
chổi lá thông quét lên mặt giấy dó. Chổi lá thơng tạo nên những ganh chạy theo
đường quét và vỏ điệp tự nhiên cho màu trắng với ánh lấp lánh những mảnh điệp
nhỏ dưới ánh sáng, có thể pha thêm màu khác vào hồ trong quá trình làm giấy
điệp.
- Màu vẽ tranh.
Màu sắc sử dụng trong tranh là màu tự nhiên từ cây cỏ như đen từ than
xoan hay than lá tre, xanh từ gỉ đồng, lá chàm, vàng từ hoa hòe, đỏ từ gạch non,
gỗ vang, màu trắng từ vỏ sò v.v… Đây là 5 màu cơ bản, khơng pha trộn và vì số
23


lượng màu tương ứng với số bản khắc gỗ, nên thường thường tranh Đông Hồ chỉ
dùng tới 5 màu mà thơi. Ngồi ra thì có thêm màu màu cam, lam, tím là do pha
trộn các màu vào nhau. Dùng màu sắc lấy hoàn toàn từ tự nhiên khiến bức tranh
thêm sinh động và gần gũi với làng quê nhiều hơn.
Tưởng chừng như đơn giản nhưng việc lấy nước màu cũng khơng hề đơn
giản chút nào. Ví dụ như màu đen, phải lấy lá tre vừa rụng cịn vàng (khơng thể
lấy lá xanh hoặc lá rụng lâu sắp mục) đem đốt. Đốt đến đâu, vẩy nước tắt đến

đấy. Khi đốt phải lựa chiều gió, khơng được cho gió bay ngược lại. Than tre ấy,
đem ngâm vài năm, mới lấy ra dùng. Màu đen của than tre vừa đằm, vừa thắm
hơn hẳn màu đen mực Tầu.
Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế đã giải thích về ý nghĩa của việc dùng màu
sắc sao cho phù hợp với mỗi đề tài khác nhau: nền màu đỏ cho tranh đánh ghen
để lột tả được cái nóng giận bực bội ngột ngạt của khơng khí lúc đó, nền màu
vàng cho cảnh vui tươi tràn ngập sắc xuân trên các bức tranh ngày tết, nền màu
hồng nhạt cho tranh làng quê yên bình …
b. Qui trình sản xuất của làng tranh Đơng Hồ.
Để hồn thành một bức tranh, khơng kể khâu khắc tranh trên bản gỗ, có sẵn
giấy và màu, người làm tranh phải rất công phu, cẩn thận trong từng giai đoạn:
sơn hồ lên giấy, phơi giấy cho khô hồ, quết điệp rồi lại phơi giấy cho khô lớp
điệp, khi in tranh phải in từng màu lần lượt. Nếu có 5 màu thì in 5 lần, mỗi lần
in là một lần phơi... Cứ thế, dưới ánh sáng mặt trời lấp lánh từng hình ảnh,
đường nét của cảnh sắc thiên nhiên, nếp sống sinh hoạt của người dân, những
hình ảnh của cuộc sống thường ngày… như “bừng” sáng trên giấy dó. Mọi giai
đoạn đều thật cơng phu nên địi hỏi người làm tranh ln cẩn trọng, cầu kì, chú ý
đến từng chi tiết nhỏ để có được một bức tranh đẹp.
2.2.2. Sản phẩm của làng tranh Đông Hồ.
24


Ngày trước, mỗi nhà in tranh, hàng năm lạ nhờ vẽ thêm vài mẫu tranh mới
để đem khắc thành bản in. Vì thế, mẫu tranh làng Đơng Hồ ngày càng nhiều
không kể siết. Người ta tạm chia ra mấy loại chính như sau:
- Tranh thờ (ngũ hổ, tứ địa, thập nữ vương, bộ nghi - môn)
- Tranh chúc tụng (gà, lợn, tích ngọc đơi kim, mong ước đầu năm…)
- Tranh sinh hoạt (tăng gia bi bản…)
- Tranh vui (hứng dừa, đánh ghen), châm biếm (thầy đồ cóc, đám cưới chuột…)
- Tranh chuyện (Thạch Sanh, Phạm Tải Ngọc Hoa, Kiều Kim Trọng…)

- Tranh phong cảnh tĩnh vật (tứ quý, tứ bình…)
- Tranh phương châm, phương ngôn (nhị thập tứ hiếu…).
Trong mỗi loại tranh, lại có nhiều mẫu tranh khác nhau mà cùng mẫu lại có
tranh sắc đậm sắc nhạt. Có thể cùng mẫu tranh “hứng dừa” người khắc tranh
mẫu kiểu này, người khác vẽ khắc màu tranh kiểu khác. Người thêm chi tiết này,
người giảm chi tiết kia. Cùng một mẫu tranh, gia đình này tơ đậm, gia đình kia tơ
nhạt. Người dùng màu tùy theo tâm trạng của họ. Khi vẽ tùy theo đối tượng mua
tranh. Chính điều này làm tranh Đông Hồ càng thêm tự nhiên, càng phong phú.

Chương 3: BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN LÀNG TRANH ĐÔNG HỒ.
3.1.

Những yêu cầu bảo tồn và phát triển của làng tranh Đơng Hồ.

3.1.1. Sự quan tâm của Chính quyền và các tổ chức xã hội.
Làng tranh Đơng Hồ tuy đã có một thời kỳ bị mai một đi rất nhiều. Nhưng
hiện nay nước ta đang đẩy mạnh xu thế hội nhập quốc tế về mọi mặt. Vì vậy
những nét văn hóa truyền thống của dân tộc ngày càng được nhà nước quan tâm
phục hồi. Trong đó, tranh Đơng Hồ được coi là một trong những dịng tranh có
giá trị của dân tộc mà cần được bảo tồn và phát triển đi lên. Vì vậy, hơn lúc nào
25


×