Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Phát triển du lịch bền vững - nhìn từ khía cạnh bình đẳng giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.02 KB, 3 trang )

TRAO ĐỔI - THẢO LUẬN

PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG - NHÌN TỪ KHÍA CẠNH
BÌNH ĐẲNG GIỚI
PGS.TS. Phạm Hồng Long1
ThS. Nguyễn Việt Hoàng2

M

ột trong những nguyên tắc của phát triển du
lịch bền vững (DLBV) đó là thu hút sự tham
gia của cộng đồng địa phương, sự tư vấn của
các nhóm quyền lợi và cộng đồng. Trong đó, vấn đề
bình đẳng giới và cơ hội cơng việc bình đẳng đóng vai
trị vô cùng quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển
du lịch và hỗ trợ cuộc sống cho cộng đồng địa phương.
1. Nhận diện tình trạng bất bình đẳng trong
ngành dịch vụ du lịch

Định kiến giới (Gender Stereotyping)
Luật Bình đẳng giới của nước CHXHCN Việt Nam
đã nêu rõ, định kiến giới là nhận thức, thái độ và cách
đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc điểm, vị trí, vai trị và
năng lực của nam hoặc nữ. Chính vì vậy, định kiến giới
gây áp lực cho cả nam lẫn nữ, đặc biệt là phụ nữ. Cho
dù định kiến giới có thể hiện diện bằng nhiều gương
mặt, đường nét, sắc màu nhưng hệ lụy chung của nó
vẫn là sự phân biệt nam nữ và  theo đó là sự bất bình
đẳng mà sự thua thiệt vẫn nghiêng về những người phụ
nữ. Trên thực tế, quan niệm gắn vai trò và giá trị mặc
định cho phụ nữ là người chăm sóc gia đình và nam


giới là trụ cột kinh tế trong gia đình và xã hội, đang tạo
ra rào cản trong việc tiếp cận cơ hội việc làm và kinh tế
cho cả phụ nữ cũng như nam giới.
Trong ngành công nghiệp du lịch, đặc thù lao động
thường gắn với các đặc điểm như: 1) Tất cả các bộ phận
trong hoạt động kinh doanh khách sạn, nhà hàng, lữ
hành đều có quan hệ mật thiết với nhau; 2) Thời gian
làm việc của ngành Du lịch phụ thuộc vào thời gian,
đặc điểm tiêu dùng của khách, vì vậy người lao động
thường làm việc vào cuối tuần, vào ngày lễ, tết và có
thể làm đêm; 3) Tỷ lệ lao động trẻ, lao động nữ, lao
động thời vụ trong ngành Du lịch cao hơn các ngành
khác; 4) Cường độ lao động ở một số bộ phận có thể
khơng cao nhưng thường phải chịu áp lực tâm lý lớn
do thường xuyên phải tiếp xúc với nhiều loại đối tượng
có tuổi tác, giới tính, trình độ, nghề nghiệp, quốc tịch,
thói quen tiêu dùng khác nhau, bất đồng về ngôn ngữ;
5) Lao động trong ngành Du lịch, kinh doanh du lịch
cần nhiều lao động có kỹ năng cao về các nghiệp vụ
khác nhau, yêu cầu người lao động phải liên tục nâng
cao trình độ và hồn thiện kỹ năng nghiệp vụ.
1
2

Theo đó, trong xã hội, nghề du lịch với các vị trí
khác nhau như hướng dẫn viên du lịch, lễ tân, nhân
viên nhà hàng, nhân viên buồng, nhân viên massage…
luôn chịu nhiều áp lực bởi những định kiến xã hội
như: đây là những công việc quá nhạy cảm (thậm chí
là khơng đứng đắn); nghề du lịch q nặng nhọc, chỉ

dành cho nam giới; phụ nữ chỉ nên làm việc gia đình,
làm nghề dịch vụ sẽ ảnh hưởng đến hạnh phúc, hơn
nhân gia đình; nghề u cầu q nhiều về thời gian và
sức lực của người lao động; phụ nữ chỉ làm được nghề
này khi cịn trẻ, chưa có gia đình…
Ngồi ra, với đặc thù là áp lực cơng việc nặng nề,
“làm dâu trăm họ”, lại thường hay phải đi sớm về muộn,
có nhiều mối quan hệ rộng, điều này không tránh khỏi
những nghi kị về công việc của người làm việc trong
lĩnh vực du lịch. Với nhiều người lớn tuổi, hoặc thậm
chí với nhiều vùng miền cịn coi đây là nghề “phục
vụ”, lẽ ra với tấm bằng đại học thì khơng nên làm nghề
“phục vụ” mà phải làm những nghề có vị trí xã hội cao
hơn, được người khác “phục vụ”, cung phụng…
Tình trạng phân cấp trong phụ nữ (The
Hierarchical Status of Women)
Với nhiều doanh nghiệp, việc lựa chọn lao động
nam hay nữ vẫn còn khoảng cách khá lớn. Theo khảo
sát của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) Việt Nam trên
một số cổng thông tin việc làm lớn nhất Việt Nam thì có
tới 20% các quảng cáo tuyển dụng yêu cầu hoặc ưu tiên
giới tính nhất định. Trong đó, 70% các quảng cáo chỉ
tuyển dụng nam, 30% doanh nghiệp chỉ muốn người
lao động là nữ giới bởi hàng trăm lí do khác nhau mà
mặc nhiên qua đó người phụ nữ gặp nhiều khó khăn
trong q trình nộp đơn tuyển dụng…
Trong quá trình làm việc tại các doanh nghiệp du
lịch, việc phân cấp vai trò của phụ nữ được thể hiện một
cách khá rõ ràng. Tình trạng này diễn ra giữa những
người phụ nữ có nhan sắc và những người khơng có

nhan sắc hoặc ngoại hình khiêm tốn. Bên cạnh đó là sự
phân biệt giữa những người có trình độ học vấn cao,
có khả năng ngoại ngữ tốt với những người cịn hạn
chế về bằng cấp và khơng có ngoại ngữ. Nhiều cơng ty
xác định chỉ cân nhắc một tỷ lệ nhỏ phụ nữ ở các vị trí
lãnh đạo, quản lý, còn lại đa số vào các vị trí như: nhân

Trường Đại học KHXH và NV Hà Nội
Trường Đại học Hồng Đức
Chuyên đề I, tháng 3 năm 2022

109


viên kinh doanh, hướng dẫn viên các đoàn nhiều khách
nam, nhân viên hỗ trợ bộ phận sales và marketing trong
việc kí kết hợp đồng, điều hành du lịch, telesales… (tại
các công ty du lịch); phục vụ buồng, massage, phục
vụ nhà hàng, nhân viên bán hàng, phụ bếp… (tại các
khách sạn); lễ tân, chun viên văn phịng… (tại các
cơng sở, văn phịng du lịch).
Quấy rối tình dục (Sexual Harassment)
Khi một hướng dẫn viên du lịch, một lễ tân, một
nhân viên buồng/bàn/bar, một tiếp viên hàng không
xuất hiện, cô ấy trông thật xinh đẹp trong bộ đồng
phục, giày cao gót và lớp trang điểm phù hợp. Tuy
nhiên, có nhiều ảo tưởng khó xóa bỏ trong quan niệm
thơng thường về ngành cơng nghiệp này, bên cạnh vẻ
hào nhống đó, nghề du lịch khơng phải con đường
trải hoa hồng, những người trong ngành phải đối mặt

với nhiều điều tiêu cực, trong đó có nạn quấy rối tình
dục (QRTD)…
Việc làm khơng chính thức (Informal Employment)
Cùng với sự tăng trưởng của ngành công nghiệp du
lịch, các doanh nghiệp trong nhóm ngành dịch vụ, bao
gồm: lữ hành, nhà hàng, khách sạn, dịch vụ ăn uống
đang ráo riết tuyển dụng nguồn nhân lực trẻ và chất
lượng. Nhiều vị trí việc làm với tên gọi hấp dẫn đã xuất
hiện như một phương thức kêu gọi sự tham gia của lực
lượng lao động này. Tuy nhiên, thực tế trong quá trình
làm việc, sự bất bình đẳng trong phân cơng lao động lại
thường xuyên diễn ra, thậm chí nhiều người được phân
cơng những vị trí việc làm khơng giống như mơ tả vị trí
cơng việc hoặc việc làm khơng chính thức. Chẳng hạn,
nhiều lễ tân sẽ đảm nhiệm thêm nhiệm vụ phụ trách
các khoản thu, chi, mua sắm, hỗ trợ nhà bàn, dọn dẹp
buồng khi cần thiết; hướng dẫn viên du lịch (đặc biệt là
hướng dẫn viên nữ) ngồi cơng tác thuyết minh, hướng
dẫn, tổ chức chuyến đi còn đảm nhiệm nhiều cơng việc
khác như chăm sóc khách hàng, tiếp khách…
Khiêu dâm hóa lao động (Eroticization of Labour)
Với nhiều doanh nghiệp du lịch, việc “khiêu dâm
hóa lao động” khi yêu cầu nhân viên, đặc biệt nhân viên
nữ phải mặc trang phục nhạy cảm, hở hang, phản cảm
trong quá trình làm việc đang diễn ra khá phổ biến…
2. Hướng tới thực hiện bình đẳng giới trong
ngành dịch vụ du lịch
Bình đẳng giới ở Việt Nam đã dần trở thành nội
dung xuyên suốt trong triển khai hoạt động trên tất cả
các lĩnh vực, với nhiều thành tựu nổi bật được quốc tế

đánh giá và ghi nhận, trong đó có ngành Du lịch. Phát
triển bền vững gắn với giá trị bình đẳng đóng vai trị rất
quan trọng trong thúc đẩy và đảm bảo các giá trị bình
đẳng và cơng bằng, cuối cùng sẽ đạt được mục tiêu về
hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp và sự phát triển,
thịnh vượng của nền kinh tế. Tuy nhiên, để đạt được

110

Chuyên đề I, tháng 3 năm 2022

mục tiêu bình đẳng giới trong phát triển bền vững, địi
hỏi sự vào cuộc quyết liệt hơn, hiệu quả hơn của cả hệ
thống chính trị. Để hướng tới mục tiêu bình đẳng giới
trong ngành Du lịch, một số giải pháp cần được cân
nhắc như sau:
Nâng cao nhận thức của cộng đồng về giới và bình
đẳng giới, xóa bỏ định kiến về giới trong ngành dịch vụ
du lịch
Những cái nhìn thiên kiến, lệch lạc về vai trị của
phụ nữ và q trình phụ nữ làm các vị trí nghề nghiệp
khác nhau trong lĩnh vực du lịch cần được thay đổi
trong xã hội ngày nay. Các nghiên cứu và thực tiễn đã
chứng minh, giữa phụ nữ và nam giới chỉ có sự khác
biệt về mặt sinh học chứ khơng có sự khác biệt về mặt
xã hội. Mặc dù vậy nhưng khẳng định này chưa phải
đã hoàn toàn được chấp nhận trong xã hội. Giáo dục
về giới và bình đẳng giới chưa được lồng ghép rõ nét
trong chương trình giáo dục chính thống của  hệ thống
giáo dục quốc dân, cũng chưa được thực hiện một cách

thường xuyên, phủ khắp trong cộng đồng. Nhận thức
về giới và bình đẳng giới chủ yếu thơng qua các kênh
dự án tài trợ  dưới hình thức tập huấn, hội thảo, các
chiến dịch tun truyền ngắn do đó hiệu quả khơng
cao, đối tượng tiếp cận bị thu hẹp, nhận thức vấn đề
còn sơ lược nếu như khơng nói là nơng cạn…
Để khắc phục những hạn chế này, cần phải thay đổi,
cải tiến hình thức tuyên truyền giáo dục về giới và bình
đẳng giới. Nhất thiết phải có sự phối hợp đồng bộ giữa
ba mơi trường giáo dục, nhà trường, gia đình và xã hội,
những nơi mà định kiến giới đang tồn tại. Định kiến
giới tác động đến mọi đối tượng, không phân biệt tuổi
tác, giới tính, hồn cảnh sống. Theo đó, muốn xóa bỏ
định kiến giới phải xem giáo dục bình đẳng giới là một
trong những nội dung giáo dục chính và được lồng ghép
trong chương trình của các cấp học, từ giáo dục mầm
non đến giáo dục đại học. Trường học là nơi thuận lợi
và có điều kiện để xây dựng một  mơi trường bình đẳng
nói chung và bình đẳng giới nói riêng tốt nhất và hiệu
quả nhất. Tuy nhiên, việc giáo dục bình đẳng giới trong
nhà trường sẽ không thành công nếu thiếu sự tương tác
tích cực của giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
Ngoài ra, bộ quy tắc ứng xử văn minh trong du
lịch  cũng cần có thêm một nội dung liên quan đến
nâng cao nhận thức của xã hội, cộng đồng về hình ảnh
người phụ nữ làm việc trong lĩnh vực du lịch để xã hội,
du khách thêm tin tưởng, tin yêu và bảo vệ phụ nữ làm
nghề du lịch.
Cải thiện kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ nhằm tăng
quyền, nâng cao vị thế cho phụ nữ

Ở Việt Nam và ở rất nhiều quốc gia khác trên thế
giới, phụ nữ ít được tiếp cận với các quyền và cơ hội
hơn nam giới. Để thay đổi sự bất cân bằng đó và để nỗ
lực hướng tới bình đẳng giới, phụ nữ cần được nâng


TRAO ĐỔI - THẢO LUẬN

cao vị thế. Theo đó, nâng cao vị thế cho phụ nữ là kết
quả tổng hợp của những thay đổi ở ba khía cạnh: kiến
thức, kỹ năng và năng lực của phụ nữ (cá nhân), ví dụ
thông qua nâng cao nhận thức hoặc tạo dựng sự tự tin;
các chuẩn mực xã hội, phong tục tập quán, thể chế, và
chính sách (cấu trúc), ví dụ đưa ra các luật mới để thúc
đẩy bình đẳng giới; mối quan hệ quyền lực giữa các cá
nhân (mối quan hệ), ví dụ qua sự thay đổi trong việc
kiểm soát các nguồn lực hộ gia đình giữa các thành viên
trong gia đình.
Mỗi khía cạnh này đều phụ thuộc lẫn nhau, cùng
tác động lên khả năng tiếp cận tới quyền và cơ hội bình
đẳng của phụ nữ. Việc nâng cao vị thế cho phụ nữ có
thể được hỗ trợ bởi những can thiệp đóng góp vào sự
thay đổi trong từng khía cạnh của ba khía cạnh này.
Việc nâng cao vị thế cần được xuất phát từ nội lực,
phụ nữ cần tự nâng cao vị thế cho bản thân mình. Tuy
nhiên, điều khơng kém quan trọng là nam giới và trẻ
em trai cũng phải đóng vai trị tích cực trong việc nâng
cao vị thế của phụ nữ và phối hợp với phụ nữ để thay
đổi cơ cấu và quan hệ quyền lực hướng tới bình đẳng
giới, nếu khơng thì các nỗ lực sẽ khơng bền vững được.

Xây dựng khung điều luật lao động đặc thù nhằm
đảm bảo quyền lợi của phụ nữ trong quá trình làm nghề
du lịch
Nhân viên du lịch cũng là những người lao động
như bất kỳ lĩnh vực ngành nghề nào khác. Trong khi
đó, pháp luật là ý chí của nhân dân, pháp luật lao động
phải mang tiếng nói của người lao động, trong đó có
người lao động làm việc trong ngành Du lịch. Để đảm
bảo thực hiện bình đẳng giới, chống xâm hại, quấy
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngô Liên Hương. (2018, Jan 27). Định kiến giới - 'Rào
cản' cần xóa bỏ trong tiến trình thực hiện Bình Đẳng giới.
Retrieved Feb 25, 2019, from Phunudanang.gov.vn: http://
phunudanang.org.vn/vn/1734-dinh-kien-gioi-rao-cancan-xoa-bo-trong-tien-trinh-thuc-hien-binh-dang-gioi.
html

rối tình dục hoặc khiêu dâm hóa hình ảnh người phụ
nữ làm việc trong ngành Du lịch, đã đến lúc Luật Lao
động, Luật Du lịch có thêm những điều khoản riêng
nhằm đảm bảo quyền lợi của người phụ nữ trong quá
trình làm nghề.
Với các doanh nghiệp du lịch (công ty lữ hành,
khách sạn, nhà hàng, cơ sở kinh doanh dịch vụ bổ
sung…), đạo đức kinh doanh là một tập hợp những
nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức hoặc luật lệ có
tác dụng chỉ dẫn, điều chỉnh và kiểm soát hành vi nhằm
bảo đảm chuẩn mực và sự trung thực trong hoạt động
của chủ thể kinh doanh. Với tư cách là một dạng đạo
đức nghề nghiệp mang tính đặc thù cao vì gắn liền với
các lợi ích kinh tế, đạo đức kinh doanh chính là phạm

trù đạo đức được vận dụng vào hoạt động kinh doanh
nhưng nó không tách rời nền tảng của nó là đạo đức
xã hội chung và phải chịu sự chi phối bởi một hệ giá
trị và chuẩn mực đạo đức xã hội. Nguyên tắc tôn trọng
con người đòi hỏi chủ thể kinh doanh phải tơn trọng
phẩm giá, quyền lợi chính đáng (lương, bảo hiểm, hưu
trí, các chế độ chính sách); bảo đảm an toàn lao đợng
(đóng bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm du lịch,
môi trường làm việc thân thiện an toàn); tạo điều kiện
phát triển về thể lực và trí tuệ của đội ngũ nhân viên
trong doanh nghiệp ở các cấp khác nhau; mở rộng dân
chủ và khuyến khích phát huy sáng kiến, cải tiến công
nghệ; tôn trọng nhu cầu, sở thích và tâm lý khách hàng;
cạnh tranh lành mạnh và công bằng với đối thủ cạnh
tranh, thúc đẩy không khí vừa hợp tác vừa cạnh tranh
lành mạnh; gắn lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích của
khách hàng và xã hội, coi trọng hiệu quả kinh doanh
gắn với trách nhiệm xã hội■
2. Trần Thị Kim Xuyến. (2011). Tài liệu giảng dạy "Giới và
các vấn đề xã hội". Hà Nội.
3. Trần Thị Minh Đức. (2009, Apr 28). Định kiến và áp
lực xã hội đối với nữ tri thức. Retrieved Feb 25, 2019,
from
:
.
vn/?ArticleId=2964c414-69f7-4bae-95c9-97f9a7b203e4...

Chuyên đề I, tháng 3 năm 2022

111




×