PHƯƠNG NGỮ QUẢNG NAM NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN
Bùi Thị Lân1
Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu những đặc trưng cơ bản về các phương diện ngữ âm,
từ vựng, ngữ pháp của phương ngữ Quảng Nam qua cứ liệu ca dao. Về phương diện ngữ
âm đó là cách phát âm đặc thù của riêng người Quảng không thể nhầm lẫn với bất cứ
vùng nào; về từ ngữ đó là lớp từ địa phương đa dạng, với những đặc điểm khác biệt về
mặt cấu tạo và chức năng; về ngữ pháp cũng có những đặc trưng về từ loại, về kết hợp
khá thú vị. Những đặc trưng về phương ngữ đã làm sáng tỏ những điều thú vị về văn hóa
và con người địa phương.
Từ khóa: Phương ngữ, Quảng Nam, Ngữ âm, Từ vựng, Ngữ pháp, Giá trị văn hóa.
1. Mở đầu
Quảng Nam là vùng đất bao gồm cả Quảng Nam và Đà Nẵng như ca dao xưa đã từng
xác định: Quảng Nam là xứ tỉnh ta/ Trong là Quảng Ngãi ngoài là Thừa Thiên. Đó là vùng
đất anh hùng, có bề dày về văn hóa, lịch sử. Đây cũng là một trong những nơi sớm nhất hình
thành chữ quốc ngữ. Ngày nay, Quảng Nam được thế giới biết đến là nơi “một điểm đến hai di sản văn hoá thế giới”: phố cổ Hội An và thánh địa Mỹ Sơn và những điểm du lịch nổi
tiếng khác. Tuy nhiên, những đặc điểm về văn hóa và con người nơi đây vẫn cịn ít người
biết đến, đặc biệt là văn hóa và ngơn ngữ có thể cịn là một ẩn số với những nét riêng biệt, thú
vị. Bài viết nghiên cứu các phương diện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp của phương ngữ Quảng
Nam để tìm ra những đặc trưng riêng biệt về ngôn ngữ của vùng đất này dựa vào nguồn
ngữ liệu thơ ca dân gian địa phương. Thơ ca dân gian Quảng Nam là một bộ phận của thơ
ca dân gian dân tộc, được giấu mình trong những đặc trưng riêng biệt của vùng đất và con
người nơi đây ít được nghiên cứu, khám phá, nhất là phương diện ngôn ngữ. Trên cứ liệu ca
dao, những nét riêng về phương ngữ và văn hóa Quảng Nam được phản ánh khá chân thực.
2. Nội dung
2.1. Một số vấn đề chung
2.1.1. Vài nét về phương ngữ
Phương ngữ thường được hiểu một cách chung nhất đó là sự biểu hiện của ngơn ngữ
tồn dân ở một địa phương cụ thể với những nét khác biệt của nó so với ngơn ngữ tồn dân
hay với một phương ngữ khác. Sự khác biệt ấy có thể là về phương diện ngữ âm, từ vựngngữ nghĩa, ngữ pháp. Nghiên cứu phương ngữ của một vùng đất, khám phá những đặc trưng
về ngôn ngữ địa phương sẽ là cơ sở để nhìn nhận về những giá trị văn hóa mang tính đặc
trưng của địa phương đó.
Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về cách phân chia các vùng phương ngữ
của tiếng Việt. Trong bài viết này, chúng tôi chọn cách chia tiếng Việt thành ba vùng phương
1 TS., Trường Đại học Quảng Nam
19
PHƯƠNG NGỮ QUẢNG NAM - NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN
ngữ lớn là: phương ngữ Bắc (bao gồm Bắc Bộ và Thanh Hóa), phương ngữ Trung (từ Nghệ
An đến Bình Thuận) và phương ngữ Nam (khu vực Nam Bộ còn lại). Riêng phương ngữ
Trung có thể chia thành hai vùng là Bắc Trung Bộ (từ Nghệ An đến Thừa Thiên Huế) và
Nam Trung Bộ (từ Đà Nẵng đến Bình Thuận).
Như vậy, Phương ngữ Quảng Nam thuộc vùng phương ngữ Trung. Và vì vậy, vùng
phương ngữ này vừa mang những đặc điểm chung của phương ngữ Trung vừa mang những
đặc trưng riêng biệt của khu vực Quảng Nam.
2.1.2. Vài nét về vùng đất Quảng Nam
Quảng Nam là một tỉnh nằm gần như chính giữa hai địa đầu đất nước và là vùng đất
có địa hình tương đối đặc biệt: phía Tây dựa lưng vào dãy Trường Sơn sừng sững, giáp với
nước Cộng hồ Dân chủ Nhân dân Lào; phía Đơng là Thái Bình Dương bao la, rộng lớn;
phía Bắc là Thừa Thiên Huế với Hải Vân sơn cao ngất; Quảng Ngãi và Gia Lai - Kon Tum
là nơi giáp giới phía Nam của tỉnh.
Theo lịch sử, dưới thời vua Lê Thánh Tôn, từ đời Hồng Đức thứ II (1471), địa danh
Quảng Nam hay “Quảng Nam thừa tuyên đạo” được hình thành. Đến đời Hồng Đức thứ
XIX (1490), Lê Thánh Tôn đổi đạo thành xứ, đạo thừa tuyên Quảng Nam thành xứ Quảng
Nam, sau đó đổi thành trấn Quảng Nam. Đến đời Minh Mạng thứ 13 (năm 1838), trấn
Quảng Nam được đổi thành tỉnh Quảng Nam. Trước cách mạng tháng Tám 1945, Quảng
Nam gồm có bốn phủ và bốn huyện. Sau cách mạng tháng Tám, các phủ đều được đổi thành
huyện và lập thêm 4 huyện miền núi chia tách thành hai đơn vị hành chính độc lập là Quảng
Nam và Đà Nẵng. Đến năm 1952, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã nhập Quảng
Nam và Đà Nẵng thành tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Đến năm 1962, dưới chính quyền Ngơ
Đình Diệm, Quảng Nam được chia thành hai tỉnh là Quảng Nam và Quảng Tín. Trong thời
gian này, Uỷ ban kháng chiến Quảng Nam - Đà Nẵng đã chia tách tỉnh Quảng Nam - Đà
Nẵng thành hai đơn vị hành chính là: tỉnh Quảng Nam và tỉnh Quảng Đà (sau gọi là đặc khu
Quảng Đà). Từ năm 1975, khi đất nước hồn tồn giải phóng, tỉnh Quảng Nam và đặc khu
Quảng Đà được đổi thành tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Tồn tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, có
một thành phố trực thuộc tỉnh là Đà Nẵng, hai thị xã là Hội An và Tam Kỳ, tám huyện đồng
bằng, bốn huyện miền núi và một huyện hải đảo (huyện đảo Hồng Sa).
Tại kì họp thứ X Quốc hội khố IX (tháng 10.1996), tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng được
quyết định chia thành hai đơn vị hành chính là tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng trực
thuộc Trung ương. Như vậy, Quảng Nam và Đà Nẵng đã trải qua nhiều lần tách, nhập nhưng
hai đơn vị này dường như vẫn là một trong lòng mỗi người dân đất Quảng. Và hiện nay,
Quảng Nam và Đà Nẵng là hai đơn vị hành chính độc lập, dễ dàng xác định mốc địa giới của
hai đơn vị này nhưng những đặc trưng về văn hóa và về ngơn ngữ thì khơng dễ gì tách biệt.
Vì vậy, phương ngữ Quảng Nam được hiểu là phương ngữ của cả Quảng Nam và Đã Nẵng.
2.2. Đặc trưng phương ngữ Quảng Nam
2.2.1 Đặc trưng về ngữ âm
20
BÙI THỊ LÂN
2.2.1.1. Hiện tượng trầm hóa âm tiết
Đặc trưng ngữ âm nổi bật của phương ngữ Quảng Nam là cách phát âm riêng biệt làm
cho người nơi khác khó nghe, khó hiểu. Chẳng hạn: a phát âm thành oa, am → oam, an →
oan, ac → oac, ao → ô, ăn → en, ăt→ et, ăc → ec, oai → ua… Do vậy, đã có người viết về
giọng Quảng rằng:
Quê tôi A phát thành OA
Ă thành E hết, A0 ra Ơ mà.
Có thể hình dung rõ hơn sự biến đổi ngữ âm này qua bảng so sánh sau:
Bảng 1. Sự biến đổi ngữ âm làm trầm hóa âm tiết trong phương ngữ Quảng Nam
TT
Âm/ vần
Ngơn ngữ tồn
Ngơn ngữ
dân
Quảng Nam
1
a
wa
2
am
wam
3
an / aŋ
4
ak / at
wan / waŋ
wak / wat
5
aw
o
6
ăn / ăŋ
εn / εŋ
7
ăk / ăt
εk / εt
8
waj
uo
9
aj
ɯɤ
Từ
Ngơn ngữ
tồn dân
ba má
hoa lá
ham làm
tham lam
bàn tán
ngang tàng
lạc rang
tát nước
chào
gạo
nhà giáo
cái khăn
tặng quà
màu sắc
khăn mặt
đối thoại
khoai lang
con cái
ngày mai
Ngơn ngữ Quảng Nam
Boa móa hoa lóa
hoam lồm, thoam loam.
bồn tốn
ngoang tồng
loạc roang tốt nước
chồ
gộ
nhịa giố
cứa khen,
tẹng quà
màu séc,
khen mẹt
đối thụa,
khua lang
con cứa
ngày mưa
Đây là cách phát âm phổ biến trong đời sống thường nhật của người dân đất Quảng.
Và cũng chính cách phát âm này làm cho người dân ở địa phương khác nghe rất lạ tai và
nhận ra ngay người nói là người Quảng Nam. Bởi cách phát âm của người địa phương
Quảng Nam đã đi quá xa so với “âm chuẩn”. Hiện tượng này cũng đã được nhà ngôn ngữ
học Cao Xuân Hạo phát hiện và đề cập đến trong bài viết Nhận xét về các nguyên âm của
một phương ngữ ở tỉnh Quảng Nam [8 :136]. Ông viết: “trong các phương ngữ của tiếng
Việt mà chúng ta từng biết khơng có một phương ngữ nào cho thấy một sự chuyển đổi
nguyên âm đi xa như vậy” [8: 136].
21
PHƯƠNG NGỮ QUẢNG NAM - NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN
Hiện tượng trầm hóa âm tiết trong phương ngữ Quảng Nam và tính cách cục cằn,
hơi thiếu tế nhị của con người nơi đây ít nhiều có mối quan hệ. Tuy nhiên, đối với những
người được đi nhiều nơi thì sự phát âm của họ có sự điều chỉnh cho dễ nghe hơn, tiến gần
đến “chuẩn” hơn. Và, các từ ngữ khi đi vào thơ ca dù là thơ ca dân gian cũng đã có ít nhiều
lựa chọn và được các nghệ nhân phát âm tương đối “chuẩn”, nhất là trong lời hát không bao
giờ phát âm như khẩu ngữ mà đã có sự thay đổi cho hay hơn, mềm mại hơn. Nên các từ như
trên không xuất hiện nhiều trong thơ ca dân gian Quảng Nam nhưng thường trực trong lời
nói hằng ngày.
2.2.1.2. Hiện tượng biến âm phong phú
Trước hết, có thể thấy sự biến đổi ấy ở phụ âm đầu: gi→ ch (gì/ chi) ; v→d (về/ dề,
vạt/ dạt, vơi/ dơi), nh →l (nhầm/ lầm, nhạt/ lạt, nhợt/ lợt), d → l (dần/ lần)... Đây không
chỉ là biến thể ngữ âm của khu vực Quảng Nam mà trong đó có những biến thể ngữ âm
của Bắc Trung Bộ như: gi→ ch (gì → chi) và những biến thể ngữ âm của cả khu vực Nam
Trung Bộ và Nam Bộ như : v→d (về/ dề, vạt/ dạt, vôi/ dôi), nh →l (nhầm/ lầm, nhạt/ lạt,
nhợt/ lợt). Do đó, có thể bắt gặp chúng ở cả các địa phương khác. Hiện tượng này cho phép
khẳng định phương ngữ Quảng là gạch nối, là vùng chuyển tiếp giữa phương ngữ Trung và
phương ngữ Nam.
Tiếp đến là hiện tượng biến đổi về ngữ âm so với ngơn ngữ tồn dân khá độc đáo. Đó
là trường hợp những từ có phụ chữ âm đầu h hay ng mà trong âm tiết có âm đệm thì thường
được phát âm thành qu, ví như hoa → qua, huy → quy, huệ → quệ, huyền → quyền, huyện
→ quyện, huân → quân, huấn → quấn, hoang → quang, hoàng → quàng, huyết → quyết;
nguyên → quyên, nguyền → quyền, nguy → quy, nguyệt → quyệt… Ví dụ: Nên, khơng nên,
tại số tại duyên/ Không trách chi bạn, chẳng quyền chi ta. Từ quyền trong câu trên là biến
âm của từ nguyền: không trách chi bạn, chẳng nguyền chi ta. Hiện tượng biến đổi ngữ âm
này đã làm trầm hóa âm tiết, phản ánh rõ chất giọng Quảng Nam.
Sự biến đổi ngữ âm trong ngôn ngữ Quảng diễn ra mạnh mẽ nhất là ở âm chính. Tiêu
biểu nhất là các âm như trong bảng sau đây:
Bảng 2 Sự biến đổi âm chính trong phương ngữ Quảng Nam
TT
Từ
2
Ngơn ngữ
tồn dân
ɯ
3
ɤˇ
Ngơn ngữ
Quảng Nam
ɤ
o
ɯ/ɤ
4
o
ɤ
u
5
6
a
a
1
22
Âm
ie
ɯɤ
Ngơn ngữ
tồn dân
chứ, thư, gửi
chân, nhật, nhân
tơm, ốm, trộm
hơn, rối, gối, tôi,
tối, thối
bảo
nàng
Ngôn ngữ
Quảng Nam
chớ, thơ, gởi
chưn, nhựt,
nhơn/ nhưn
tơm, ớm, trợm
hun, rúi, gúi, tui, túi,
thúi
biểu
nường
BÙI THỊ LÂN
7
8
9
o
ăw
ăj
…
ɯɤ
a
a
…
hồng
mai sau
máy bay
...
hường
mưa sa
má ba
Hiện tượng này cũng được phản ánh trong thơ ca dân gian của người dân xứ Quảng: Dậm chưn (chân) cái thịch/ Giở lịch coi liền…hay Long đanh như chỉ rúi (rối) trong lòng.../
Tri nhơn tri diện bất tri tâm/ Thơ rơi bốn bức chẳng cầm bức mơ.
Sự biến đổi ấy khơng chỉ có ở phụ âm đầu và phần vần mà còn xảy ra cả với thanh
điệu: thanh ngang, thanh ngã biến đổi thành thanh nặng: bữa → bựa, chỗ → chộ, tô → tộ…
Chẳng hạn: Bữa ăn khép nép phải coi/ Tộ trong cá ngọt tộ ngoài canh cua.
Điều dễ nhận thấy là, tất cả sự biến đổi ngữ âm, từ vựng của từ địa phương xứ Quảng
dường như đều làm cho âm tiết trầm hơn, nặng hơn khi phát âm và đó cũng chính là đặc
điểm của ngơn ngữ Quảng. Cách phát âm ấy thể hiện bản tính cương trực, thẳng thắn pha
lẫn cục cằn như chính vùng đất này vậy.
2.2.2 Đặc trưng về từ vựng
2.2.2.1 Về mặt cấu tạo
Xét về mặt cấu tạo, từ địa phương Quảng Nam trong ca dao bao gồm cả kiểu từ đơn
âm tiết và từ đa âm tiết. Chiếm tỉ lệ nhiều nhất là từ đơn âm tiết. Các từ đa âm tiết có tỉ lệ ít
hơn và được cấu tạo theo hai phương thức chủ yếu là phương thức ghép và phương thức láy.
Có 1350 lượt từ địa phương xuất hiện trong 1237 văn bản ca dao Quảng Nam, chúng có sự
phân bố như sau:
Bảng 3 Tỉ lệ các kiểu từ xét về cấu tạo trong phương ngữ Quảng Nam
Kiểu từ
Đơn âm tiết
Đa âm tiết
Tổng cộng
Ghép
Láy
Số lượng
715
471
164
1350
Tỉ lệ
53%
34,8%
12,2%
100%
Bảng thống kê cho thấy các từ đơn âm tiết trong ca dao Quảng Nam có số lượng nhiều
nhất (chiếm 53%). Các từ này có tần số xuất hiện cao, nhiều từ có mặt trong rất nhiều bài ca
dao dân ca đất Quảng. Đó là các từ: chưn (chân):, tui (tôi), nhơn (nhân, bậu (em, bạn), dặn
(bận), phỉnh (lừa), hô (gọi), té (ngã) hun (hôn), lộn (lẫn), lu (mờ), lú (nhú), nài (năn nỉ) ...
Các từ đơn âm tiết này có thể xuất hiện và hoạt động trong ca dao Quảng Nam với tư cách
một từ hay một từ tố cấu tạo nên từ. Ví dụ, từ bậu trong ngôn ngữ Quảng Nam và các tỉnh
Nam Trung Bộ, Nam Bộ nói chung thường được dùng với tư cách là đại từ nhân xưng ngơi
thứ hai, có nghĩa là em hay bạn, người yêu là nữ như trong các câu ca dao sau: Chiều chiều
đổ lúa ra quay/ Bậu về quê bậu, lúa này ai quay hay Sông sâu sào dắn khó dị/ Muốn qua
thăm bậu sợ đị không đưa. Đôi khi, từ này (bậu) lại được sử dụng với tư cách một từ tố
cấu tạo nên từ đa tiết, ví dụ: Tai nghe em bậu có chồng/ Qua giận qua liệng cái cuốc ngoài
đồng sứt đai.
23
PHƯƠNG NGỮ QUẢNG NAM - NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN
Ở đây bậu → em bậu. Kiểu cấu tạo này có thể bắt gặp ở nhiều từ như: dặn → mắc
dặn, giị → chưn giị/ giị cẳng, hun → hun hít, xằng → xằng bậy... Như vậy, có thể thấy,
từ đơn âm tiết trong lớp từ địa phương Quảng Nam là yếu tố cơ sở để tạo ra từ phức, làm
phong phú thêm vốn từ ngữ địa phương. Điều này cũng phù hợp với quy luật tạo từ phức
trong kho tàng từ vựng tiếng Việt.
Hiện tượng từ đơn âm tiết được sử dụng nhiều trong ca dao Quảng Nam trước hết thể
hiện đặc điểm thích nói ngắn gọn, nói gộp của con người xứ Quảng. Hơn nữa, nghĩa của lớp
từ này có tính chất cụ thể, dễ hiểu và khá quen thuộc đối với người bình dân và đây là lớp từ
cơ bản, có nội dung phản ánh mọi sự vật, hiện tượng, hoạt động, đặc điểm, tính chất của đời
sống tự nhiên và xã hội của con người nơi đây.
Kiểu từ được tạo ra theo phương thức ghép chủ yếu là các từ dùng để chỉ các tên gọi,
phong tục, tập quán được quen dùng ở địa phương như: mì Quảng, rượu Hồng Đào, kẹo
đậu, bả trạo, chất rơm... hay các từ chỉ mức độ cao trong cách nói năng của người Quảng:
mặn quắn, chát ngắt, trổ quáu, xử giặc, đi này, cù queo, rạng tưng, vàng hườm... Các từ đa
âm tiết được tạo ra theo phương thức láy không nhiều, chỉ chiếm 12,2%, đó là các từ như:
chàng ràng, tròm trèm, cời cời, rần rần... Tuy chiếm tỉ lệ ít nhất nhưng các từ láy thường
gây được ấn tượng mạnh đối với người nghe, thể hiện đặc điểm tinh nghịch có phần “nghẽn”
của con người xứ Quảng. Ví dụ: Chàng ràng như cá quanh nơm/ Nhiều con anh rạn không
biết đơm con nào.
2.2.2.2. Về phương diện phản ánh
a) Phản ánh đời sống lao động
Các từ địa phương thường được nảy sinh trong chính q trình lao động sản xuất của
con người. Lớp từ này là yếu tố phản ánh rất rõ hiện thực cuộc sống của địa phương. Quảng
Nam là vùng đất có địa hình đa dạng, phức tạp nên người dân phải làm đủ các ngành nghề để
mưu sinh. Thế nhưng cuộc sống quanh năm vẫn vất vả, nhất là vào những khi thời tiết khắc
nghiệt, thiên tai đe dọa: Tai nghe nam xuống ào ào/ Ông lăn buồm bắt tội, làm sao tới bờ?
Nam xuống ào ào là cách nói của dân gian Quảng Nam chỉ những ngày có gió nam
Lào thổi mạnh. Vào những ngày này thời tiết nóng bức nhưng gió rất mạnh thổi ngược ra
biển gây khó khăn khơng chỉ cho người làm nghề nông mà cả những người làm nghề biển.
Bắt tội là tính từ của người Quảng rất hay dùng để chỉ tình cảnh vất vả, đáng thương, tội
nghiệp của con người. Sự có mặt của các từ này đã phản ánh được sự vất vả, nhọc nhằn của
người dân vùng biển Quảng Nam. Người đọc có thể hình dung đó là hình ảnh người ngư dân
đang cố dùng hết sức lực của mình để đẩy thuyền vào bờ nhưng lại bị gió Lào quá mạnh thổi
dạt ra biển. Bằng việc sử dụng các từ địa phương, câu ca dao đã vẽ nên hình ảnh tương phản
giữa cái nhỏ nhoi của sức người và sự khắc nghiệt, dữ dội của thiên nhiên.
Nhưng dù cuộc sống vất vả, con người nơi đây vẫn ln nặng tình nghĩa với nhau:
Đường xa chặt bổi trên rừng/ Hai vai gánh nặng vẫn ưng một lòng. Có lẽ chỉ có người dân
xứ Quảng mới cảm nhận được nỗi cực nhọc của hành động chặt bổi. Vốn là vùng đất cằn
24
BÙI THỊ LÂN
cỗi, để có thể cải tạo đất, làm cho đất tơi xốp giúp cho việc trồng trọt được thuận lợi, người
dân phải lên rừng chặt lá cây gánh về phơi khô chất lại thật chặt, khi làm đất gieo trồng
thường lót một lớp bên dưới, sau đó đến lớp phân cho cây mau tốt. Lớp lá cây được chặt từ
trên rừng gánh về để lót bên dưới đó gọi là bổi. Ưng được người Quảng Nam dùng với nghĩa
thương u, thích thú.
b) Phản ánh đời sống tình cảm
Lớp từ địa phương trong ca dao Quảng Nam không chỉ phản ánh cuộc sống, lao động
nghèo nàn, vất vả của người bình dân mà cịn phản ánh rất rõ đời sống văn hóa, tinh thần của
họ. Hát bội (hát tuồng), hị khoan, bài chịi được xem như những món ăn tinh thần không
thể thiếu của người dân đất Quảng lúc bấy giờ. Những loại hình nghệ thuật này đã giúp
con người hiểu và thông cảm nhau hơn để vượt qua những khó khăn, cơ cực của cuộc sống
thường nhật. Vì vậy, họ sẵn sàng gác bỏ mọi công việc đang dở dang để đến với nghệ thuật:
Nghe rao trống chiến, không khiến cũng đi/ Nghe giục trống chầu, đâm đầu mà chạy. Tai
nghe trống chiến, trống chầu/ Xếp ba miếng kẹo đậu phụng lộn đầu lộn đi.
Bên cạnh đó, lớp từ địa phương còn dùng để gieo vần trong các thể thơ dân gian..
Chẳng hạn, người Quảng thường dùng từ đề để chỉ điều người ta tưởng rằng, nghi ngờ rằng,
hay suy nghĩ rằng. Ví như, người Quảng Nam thường quen nói : Tơi đề nó đã tốt nghiệp tú
tài ai ngờ nó chưa học hết lớp tám. Những từ kiểu này cũng đi vào thơ ca dân gian và đảm
trách chức năng hiệp vần cho dịng thơ. Ví dụ: Bạn ơi thả áo ta về/ Kẻo cha ta kêu cờ bạc,
mẹ ta đề gái trai.
Đây là hai câu lục bát biến thể. Nhờ từ đề ở câu bát biến thể hiệp vần với về ở câu lục
bên trên rất chuẩn theo thi luật của lục bát đã giúp cho hai dịng thơ có liên kết với nhau và
giữ cho câu thơ còn lưu lại ở thể lục bát. Câu bát biến thể trên có đến hai từ địa phương: kêu
ở đây được người Quảng dùng với nghĩa bảo, đề có nghĩa tưởng, nghi ngờ, tuy nhiên chỉ có
đề đảm trách vai trò hiệp vần. Nếu thay từ đề trong câu này thành từ khác theo đúng nghĩa
của nó thì câu ca sẽ mất đi nhiều phương diện nhưng trước hết đó là tính vần, nhịp của câu
thơ khơng cịn nữa.
Hay từ ghiền trong câu ca dao sau có chức năng hiệp vần theo kiểu vần chính rất
chuẩn: Cơm trì với cá rơ chiên/ Ăn đà no bụng, cịn ghiền muốn thêm. Ghiền trong ngơn
ngữ một số địa phương khác có nghĩa như nghiện. Nhưng từ ghiền được người Quảng
quen dùng để chỉ sự thích thú/ rất thích thú, say mê mang tính tích cực chứ khơng đến mức
nghiện; hay từ ngò và giả đò được dùng trong câu sau đây cũng có chức năng hiệp vần cho
câu ca: Sớm mai xách rổ nhổ ngò/ Lòng thương quân tử, giả đò lượm dăm.
Nhiều trường hợp đã có từ tồn dân được dùng từ lâu nhưng để đảm bảo vai trò hiệp
vần, tác giả dân gian lại sử dụng từ địa phương để tạo ra tính vần điệu cho lời thơ. Chẳng
hạn: Trầu mơ đêm sắp vài cơi/ Nghiêng vai rót rượu, miệng mời các yên/ Mời rồi xây lại hỏi
liền/ Hỏi anh đi công tư hà sự, hay nghe gái thuyền qun tới tìm.
Từ n trong câu trên có nghĩa là anh thực hiện vai trò hiệp vần với các từ liền, quyên
ở câu dưới. Việc dùng yên thay anh tại vị trí này làm cho các dịng thơ có sự liên kết chặt
25
PHƯƠNG NGỮ QUẢNG NAM - NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN
chẽ, liền mạch.
2.2.2.3. Phản ảnh những sản vật của quê hương
Từ là đơn vị ngơn ngữ có chức năng định danh. Thông thường mỗi sự vật hiện tượng
được gọi tên bằng một từ nhất định. Tuy nhiên, có những trường hợp cùng một sự vật, hiện
tượng nhưng được gọi bằng những tên khác nhau. Đó là những sự vật, hiện tượng bên cạnh
từ ngữ tồn dân đã có nhưng mỗi địa phương lại có những tên gọi riêng tạo nên nét riêng
về vùng đất của quê hương, góp phần làm phong phú kho tàng từ vựng tiếng Việt. Hay các
từ có nghĩa giống với từ tồn dân nhưng có vỏ ngữ âm khác đã xuất hiện trong nhiều bài ca
dao như là lời giới thiệu về quê hương. Ví dụ: Thương nhau múc bát chè xanh/ Làm tơ mì
Quảng mời anh xơi cùng.
Tương tự các từ rượu Hồng Đào, lòn bon, củ nén... Những tên gọi này dùng để chỉ
những thứ chỉ có ở vùng đất này dần dần cũng sẽ đi vào ngôn ngữ dân tộc khi các sản phẩm
này trao đổi với các địa phương khác cũng như các từ măng cụt, chôm chôm, mãng cầu, sầu
riêng... trong phương ngữ Nam Bộ. Khi đi vào ngôn ngữ dân tộc các từ địa phương khơng
chỉ góp phần làm phong phú vốn từ mà còn là cách giới thiệu khéo léo về những đặc sản
của quê hương.
2.3. Đặc trưng về ngữ pháp
2.3.1. Về mặt từ loại
Với 1350 lượt từ địa phương có mặt trong 1237 đơn vị ca dao Quảng Nam, chúng
thuộc vào nhiều từ loại và được phân bố theo những tỉ lệ rất khác nhau như trong bảng thống
kê và phân loại từ loại sau:
Bảng 3. Phân loại từ địa phương Quảng Nam theo từ loại
Từ loại
Số lượng
Tỉ lệ
Danh từ Động từ Tính từ Đại từ Phụ từ
467
417
201
122
57
34,6% 30,8% 14,9% 9,1% 4,2%
Từ loại khác
86
6,4%
Tổng cộng
1350
100%
Bảng thống kê cho thấy, các từ địa phương được chia thành 6 từ loại. Trong đó, các
từ loại cơ bản là danh từ, động từ, tính từ chiếm số lượng nhiều nhất (chiếm 34,6%). Thuộc
các từ loại danh từ, động từ, tính từ là các từ miêu tả những sự vật, hiện tượng, hoạt động,
đặc điểm, tính chất quen dùng của người dân Quảng Nam. Lớp từ này đã phản ánh rất rõ
hiện thực đời sống của người dân địa phương này. Các từ loại còn lại chỉ chiếm 19,7%, bao
gồm đại từ, phụ từ và nhóm từ loại khác (quan hệ từ, thán từ, tình thái từ). Tuy chiếm tỉ lệ
nhỏ trong lớp từ địa phương của thơ ca dân gian Quảng Nam nhưng các từ loại này thể hiện
rõ sắc thái địa phương hơn cả. Chẳng hạn, các tình thái từ, bơi (ơi), quơi (ơi), bớ (hỡi), quớ
(ơi), chớ (chứ)... đã đem lại giọng điệu riêng của người Quảng Nam: Bạn bơi bớ bạn vô
đây/ Trầu cau một hộp đem xây trên bàn/ Tội chi đứng sá giữa đàng/ Sương sa lệ nhỏ cảm
thương hàn ai nuôi.
Đáng chú ý nhất là các từ thuộc từ loại đại từ, các từ này có số lượng khơng nhiều
nhưng có tần số xuất hiện cao trong thơ ca dân gian Quảng Nam (nhiều từ xuất hiện trên 10
26
BÙI THỊ LÂN
lần). Đó là các đại từ nhân xưng như: qua (tôi/ anh), yên (anh), bậu (bạn/ em), hắn (nó), sắp
(chúng nó), tui (tơi), tụi (bọn); đại từ chỉ định và thay thế: ni (này), tê (kia), nớ (đó), rứa (thế/
vậy)...; đại từ nghi vấn: chi (gì), răng (sao), mô (đâu/ nào) ... Lớp từ này là dấu hiệu giúp
người nghe nhận diện thơ ca của địa phương. Ví dụ, câu ca sau đây không thể lẫn lộn với bất
cứ vùng nào khác do sự có mặt của từ sắp - từ được người Quảng Nam dùng để chỉ ngơi thứ
ba số nhiều, thường là người lớn nói với những người nhỏ, hoặc với ý coi thường, có nghĩa
như bọn, chúng nó, tụi nó: Tức mình cho sắp ở khơng/ Nó qua đánh thuế đậu, bơng, mía,
chè. Ở khơng là khơng làm gì, khơng có việc gì làm, là “vơ cơng rỗi nghề”. Sắp ở khơng có
nghĩa là những người nhàn cư, bọn vô công rỗi nghề, hại dân, hại nước, ở đây ý muốn nói
bọn thực dân.
Trong số các đại từ quen dùng ở địa phương Quảng Nam, có nhiều từ có mặt trong
phương ngữ Bắc Trung Bộ như: chi (gì), mơ (đâu), nớ (đó), ni (này), tê (kia), răng (sao), rứa
(thế/ vậy), mơ (đâu/ nào)... và có khá nhiều từ có mặt trong phương ngữ Nam Trung Bộ và
Nam Bộ: qua (tôi, anh), tui (tôi), bậu (bạn/ em), ổng (ông ấy), bả (bà ấy), chỉ (chị ấy), ảnh
(anh ấy), dĩ (dì ấy), cổ (cơ ấy)... Điều đó cho thấy ngơn ngữ Quảng Nam có sự giao thoa
giữa ngôn ngữ Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ và Nam Bộ, là gạch nối, là vùng chuyển tiếp
giữa phương ngữ Trung và phương ngữ Nam nhưng có xu hướng thiên về phương ngữ Nam.
2.3.2. Kiểu câu ngắn gọn, súc tích
Có thể thấy đặc trưng ngữ pháp nổi bật nhất trong ngơn ngữ Quảng Nam là kiểu câu
ngắn gọn, súc tích, lượng thơng tin cao, mang tính kí hiệu.
Ví dụ tiêu biểu cho kiểu câu ngắn gọn người Quảng thường dùng là “Rứa hỉ.” hoặc
“Thơi, rứa hỉ.” được dùng có giá trị thông báo như một câu, với những nét nghĩa rất đặc
trưng. Có lẽ, chỉ có người Quảng mới cảm nhận hết ý nghĩa của chúng. Rứa hỉ được dùng để
chỉ sự đồng tình, nhất trí cao, sự mong muốn được như ý, hay đó là kết luận của vấn đề đã
được trao đổi không cần bàn luận thêm nữa. Ví như, sau khi bàn bạc xong hay kết thúc một
vấn đề gì quan trọng người nói thường dùng: Rứa hỉ trước khi ra về. Cách nói này thể hiện
sự đồng thuận cao giữa những người tham gia giao tiếp, khơng cần suy nghĩ gì thêm nữa, cứ
như vậy mà tiến hành. Để chúc nhau những lời tốt đẹp nhất đối với những người thân tình,
người Quảng cũng dùng: Rứa hỉ, Rứa nghe. Chẳng hạn một cuộc giao tiếp của hai người
bạn thân, trước khi ra về, họ chào tạm biệt, một người nắm tay người kia nói: - Thơi, rứa hỉ.
Người kia đáp: Ừ, rứa nghe. Đó chính là sự hiểu nhau nhiều hơn những gì được nói ra trong
giao tiếp. Quả thật nếu không phải người Quảng Nam thì có lẽ đơi lúc phải có “phiên dịch”
mới có thể hiểu được. Cách nói ngắn gọn này rất phù hợp với xã hội hiện đại ngày nay.
Vốn là nơi có bề dày truyền thống văn hóa, ngơn ngữ Quảng Nam có những đặc trưng
rất riêng biệt khơng thể nhầm lẫn với bất cứ vùng miền nào trong cả nước. Điều đặc biệt là
những đặc trưng ngôn ngữ ấy của người Quảng đã được hình thành từ trong lịch sử nhưng
lại rất phù hợp với xu thế và sự phát triển của thời đại công nghiệp 4.0.
3. Kết luận
Từ sự phân tích trên, có thể thấy phương ngữ Quảng Nam có những đặc trưng khá
27
PHƯƠNG NGỮ QUẢNG NAM - NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN
riêng biệt thể hiện ở tất cả mọi phương diện. Đó là cách phát âm với xu hướng làm trầm
hóa âm tiết khơng giống với bất kì địa phương nào, là lớp từ địa phương đa dạng nhiều màu
vẻ, là cách kết hợp từ độc đáo, mang tính kí hiệu với kiểu trình bày ngắn gọn, khơng vịng
vo, dài dịng và cách lí giải có cơ sở thuyết phục... Tất cả đã vẽ nên nên một bức tranh tổng
thể về ngôn ngữ xứ Quảng và qua đó phản ánh phần nào về văn hóa của địa phương. Tất
cả những đặc điểm trên cùng với giọng nói, cách phát âm đặc trưng của người Quảng đã
làm nên “bằng C tiếng Quảng”, là tấm “căn cước tinh thần” để xác nhận nhân thân cho mỗi
người con xứ Quảng xa quê.
[1].
[2].
[3].
[4].
[5].
[6].
[7].
[8].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Văn Bổn (1983), Văn nghệ dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng - tập 1, Sở Văn
hóa Thơng tin Quảng Nam - Đà Nẵng.
Nguyễn Văn Bổn (2001), Văn học dân gian Quảng Nam - tập 1, Sở Văn hóa Thơng tin
Quảng Nam.
Hoàng Trọng Canh (2009), Từ địa phương Nghệ Tĩnh về một khía cạnh ngơn ngữ văn
hóa, NXB KHXH.
Hồng Thị Châu (2008), Phương ngữ học tiếng Việt, Nxb ĐHQG Hà Nội.
Phạm Văn Hảo chủ biên (2017), Từ điển phương ngữ Quảng Nam, Sở Khoa học&
Công nghệ Quảng Nam – Viện Từ điển học và Bách khoa thư.
Nguyễn Nhã Bản (chủ biên), Phan Mậu Cảnh, Hoàng Trọng Canh, Nguyễn Hoài
Nguyên (1999), Từ điển tiếng địa phương Nghệ Tĩnh, Nxb Văn hoá thông tin.
Cao Xuân Hạo (1998), Tiếng Việt – mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
Nguyễn Quang Hồng (1981), Các lớp từ địa phương và chức năng của chúng trong
ngơn ngữ văn hố tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Title: QUANG NAM DIALECT - FUNDAMENTAL CHARACTERISTICS
BUI THI LAN, PhD.
Quang Nam University
Abstract: The study on fundamental characteristics regarding phonetics, vocabulary,
and grammar within Quang Nam dialect is carried out via folk poetry. In terms of phonetics,
it may be said that the pronunciation in Quang Nam region is distinctive from other regions.
With respect to vocabulary, Quang Nam dialect is rather diverse, including a variety of
structures and functions. Its grammar and collocation are also found interestingly typical.
All these distinctions may provide much more interesting information about Quang Nam
culture and people.
Keywords: Dialect, Quang Nam, Phonetics, Vocabulary, Grammar, Cultural values.
28