Tải bản đầy đủ (.pdf) (166 trang)

Dấu ấn Võ Văn Kiệt thời kỳ đổi mới: Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.81 MB, 166 trang )



BÁO CÁO
VỀ HỘI NGHỊ PHÂN BỐ LAO ĐỘNG VÀ DÂN CƯ
CÁC TỈNH NAM BỘ
Số 248/Pg, ngày 15, 16 tháng 02 năm 1986

Kính gửi: Các anh trong Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng
Ngày 15 và 16/02/1986, tơi đã chủ trì cuộc họp về phân bố lao
động và dân cư các tỉnh Nam Bộ tại Mỹ Tho (Tiền Giang).
Dự hội nghị này có các đồng chí Bộ trưởng Thủy lợi, Lâm
nghiệp, Văn hóa; các đồng chí Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch
Nhà nước, Ủy ban Khoa học - Kỹ thuật Nhà nước, Văn phịng Hội
đồng Bộ trưởng, các đồng chí Thứ trưởng Tài chính, Lao động,
Nơng nghiệp, Lương thực, Bí thư thứ nhất Trung ương Đồn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Tổng cục Phó Tổng cục Cao
su, đại diện Quân khu 9. Về phía địa phương, có các đồng chí chủ
tịch tỉnh Tiền Giang, Sơng Bé, các đồng chí phó chủ tịch hoặc ủy
viên thư ký các tỉnh: Đồng Nai, Tây Ninh, Long An, Cửu Long,
Đồng Tháp, Bến Tre, An Giang, Kiên Giang, Minh Hải, Thành
phố Hồ Chí Minh và phó chủ tịch 3 tỉnh có dân đi: Hà Nam Ninh,
Hải Hưng và Thái Bình. Ngồi ra, cịn có đại diện một số huyện
có dân đến.
Tại Hội nghị, Ủy ban Kế hoạch Nhà nước đã trình bày bản báo
cáo về kế hoạch phân bố lao động và dân cư 5 năm 1986 - 1990 và
năm 1986 các tỉnh Nam Bộ; Bộ Lao động đã trình bày dự thảo các
665


Dấu ấn Võ Văn Kiệt thời kỳ đổi mới
chính sách liên quan đến sử dụng lao động và phân bố lao động


ở Nam Bộ. Các đồng chí Bộ trưởng Thủy lợi, Lâm nghiệp, Chủ
tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh Tiền Giang, Sông Bé và đại diện
một số ngành, địa phương đã phát biểu ý kiến về biện pháp thực
hiện và nhiệm vụ, biện pháp của ngành mình để phục vụ cho kế
hoạch phân bố lao động và dân cư; đặc biệt báo cáo của đồng chí
Chủ tịch tỉnh Tiền Giang và đồng chí Phó Chủ tịch tỉnh Long An
đã nêu được một số kinh nghiệm tốt về chỉ đạo thực hiện cơng tác
này trong nội tỉnh. Về chính sách do Bộ Lao động soạn và trình
bày tại hội nghị, chưa được cụ thể, cịn phải làm tiếp để chính sách
có tác dụng khuyến khích đẩy mạnh cơng tác phân bố lao động và
dân cư.
Các tỉnh đồng bằng sông Hồng: Hà Nam Ninh, Hải Hưng,
Thái Bình có dân đi và một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long:
Kiên Giang, Long An, Minh Hải còn phân vân, chưa được chuẩn
bị nhận dân đến, do còn vướng mắc về vốn đầu tư, do cách làm
trước đây có khuyết điểm...
Về phân bố lao động trong nội tỉnh, nội huyện, các tỉnh Nam
Bộ đã nhận thức rõ hơn, thấy sự cần thiết và một số nơi đã làm
tốt, như Tiền Giang, Long An.
Tôi đã chỉ đạo các ngành và địa phương tiếp tục xử lý các vấn
đề để bảo đảm triển khai kế hoạch, như:
1. Bộ Lao động xúc tiến hoàn chỉnh văn bản về các chính sách
để trình Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng xét và ban hành.
2. Các địa phương nhận dân đến cùng các ngành xúc tiến việc
quy hoạch địa bàn sẽ nhận dân.
3. Các tỉnh Minh Hải, Kiên Giang, Long An cùng các tỉnh
Thái Bình, Hà Nam Ninh, Hải Hưng tiếp tục làm việc với nhau
666



Phần II: Dấu ấn Võ Văn Kiệt trong lĩnh vực văn hóa - xã hội
để xác định địa bàn, bàn kế hoạch và biện pháp để triển khai
kế hoạch đưa dân và đón dân, tích cực chuẩn bị cho mùa khô
1986 - 1987. Năm 1986, tỉnh Hải Hưng đưa ngay lao động vào
để khai hoang ngay 10.000 ha mà tỉnh Long An đã được chuẩn
bị tương đối tốt. Trong năm 1986, các tỉnh Minh Hải, Kiên
Giang phải tăng thêm chỉ tiêu phân bố lao động trong nội tỉnh
để bù lại số dân đón từ các tỉnh miền Bắc vào, đồng thời cùng
tỉnh liên quan chuẩn bị tích cực để mùa khô năm 1986 - 1987
nhận được dân đến theo kế hoạch phân bố.
4. Tôi đã truyền đạt tinh thần của Thường trực Hội đồng
Bộ trưởng về việc tổ chức hội đồng phân bố lao động và dân cư ở
Trung ương và các địa phương; hội nghị hoan nghênh và thấy cần
thiết phải có tổ chức mạnh, có hiệu lực mới bảo đảm thực hiện
được công tác quan trọng này.
Sau hội nghị này, tôi sẽ chỉ đạo các ngành, địa phương để tiếp
tục tổ chức hội nghị phân bố lao động và dân cư các tỉnh trung du
và miền núi phía Bắc (dự kiến họp vào giữa tháng 3/1986) gắn
với các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ.


Kính

Tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia III,
Phông Thủ tướng Võ Văn Kiệt, hồ sơ số 25.

667


THƯ GỬI ỦY BAN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC

VỀ VẤN ĐỀ PHÊ BÌNH, TỰ PHÊ BÌNH
Ngày 04 tháng 6 năm 1986

Kính gửi: Các anh trong Ủy ban,
Trong dịp tiến hành tự phê bình và phê bình hiện nay, tơi
muốn đề nghị Ủy ban phân tích sâu sắc về tình hình cơng tác kế
hoạch, trách nhiệm của Ủy ban Kế hoạch Nhà nước với tư cách
là tổng tham mưu về kinh tế, để từ kinh nghiệm, bài học của thời
gian qua, chấn chỉnh một bước công tác của chúng ta. Như các
anh đều biết, trong nhiều năm nay, đã nhiều lần đề nghị tổng kết
cơng tác kế hoạch hóa, chúng ta vẫn chưa làm được như ý muốn.
Lần này, tôi muốn đề nghị Ủy ban dành thời giờ thích đáng,
để xem xét hai vấn đề chủ yếu:
- Trách nhiệm của Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, kinh nghiệm
về bài học rút ra từ việc xác định cơ cấu kinh tế thời gian qua; đó
cũng là phương hướng để khắc phục trong thời gian tới;
- Phần trách nhiệm của cơ quan kế hoạch trong cơ chế quản
lý hành chính quan liêu, bao cấp; và cụ thể là bệnh này biểu hiện
trong kế hoạch như thế nào; cần sửa ra sao?
Tôi nghĩ rằng và khẩn thiết đề nghị được kiểm điểm sâu sắc,
để rút ra được bài học kinh nghiệm, điều đó chỉ có ích cho việc đổi
mới thật sự công tác kế hoạch hóa trong thời gian tới, hồn tồn
khơng có gì đáng nể nang, e ngại, trên cơ sở đặt lợi ích chung trên
hết, đừng để ảnh hưởng bởi bất cứ một sự tình cảm riêng tư nào
trong chúng ta.
668


Phần II: Dấu ấn Võ Văn Kiệt trong lĩnh vực văn hóa - xã hội
Với tinh thần ấy, tơi đã giao một số anh em dự thảo trên cơ sở

tổng hợp ý kiến các anh trong Ủy ban bản kiểm điểm kèm theo
đây - Bản này cũng mới chỉ thể hiện được một mức lịng mong
muốn đó - Tơi thiết tha đề nghị các anh dành thời giờ xem kỹ, góp
thẳng vào bản kiểm điểm, gửi lại tơi, anh em sẽ tổng hợp lại trình
ra Ủy ban thơng qua. Sau đó, sẽ hồn chỉnh bản kiểm điểm, đưa
ra cấp vụ thảo luận bổ sung thêm.
Làm được tốt việc kiểm điểm lần này, chắc chắn chúng ta sẽ
nêu ra được phương hướng, biện pháp củng cố Ủy ban Kế hoạch
Nhà nước, xây dựng một cơ quan đúng tầm với yêu cầu của chức
năng, nhiệm vụ tổng tham mưu về kinh tế, đáp ứng được đòi hỏi
của Đảng và Nhà nước.
Rất mong các anh quan tâm và cùng đóng góp tích cực và
thẳng thắn.
Thân ái
Sáu Dân
Tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia III,
Phông Thủ tướng Võ Văn Kiệt, hồ sơ số 25.

669


THƯ GỬI ƠNG HỒNG QUY,
ỦY BAN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC VỀ CUNG CẤP
VẬT TƯ, GIẢI QUYẾT KHẮC PHỤC HẬU QUẢ
LŨ LỤT TẠI TỈNH LẠNG SƠN
Ngày 02 tháng 8 năm 1986

Kính gửi: Anh Hoàng Quy, Ủy ban Kế hoạch Nhà nước
Sáng nay, tôi đã làm việc với Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực
Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn. Tình hình lũ lụt đã gây thiệt

hại rất lớn cho tỉnh. Tỉnh ủy và Ủy ban tỉnh đang tập trung chỉ
đạo để khắc phục khó khăn, nhằm ổn định sinh hoạt và chuẩn
bị cho sản xuất. Sau khi nghe báo cáo, tôi đã trao đổi với anh
Lập, anh Hiến (Vụ phó Vụ Vật tư) thấy cần thiết phải giải quyết
ngay một số nhu cầu bức bách nhất. Các đồng chí ở địa phương
sẽ mang thư này cho anh và trình bày kỹ thêm để anh rõ. Đề
nghị anh chỉ đạo các vụ của ta đôn đốc các cơ quan cung ứng, ưu
tiên giải quyết kịp thời, khẩn trương các loại vật tư hàng hóa mà
Ủy ban Kế hoạch Nhà nước giao cho tỉnh trong kế hoạch 1986.
Đồng thời giải quyết thêm cho tỉnh các loại vật tư sau đây:

670

1. Xe ôtô vận tải:

15 chiếc.

2. Than mỏ:

100 tấn.

3. Tôn lợp:

30 tấn.

4. Xăng ôtô:

200 tấn.

5. Điêzen:


200 tấn.

6. Cáp nhôm:

5 tấn.


Phần II: Dấu ấn Võ Văn Kiệt trong lĩnh vực văn hóa - xã hội
Đề nghị anh Nhường trao đổi ngay với Bộ Tài chính để giải
quyết cho tỉnh 25 triệu đồng tiền mặt (trong tổng số yêu cầu
của tỉnh là 75 triệu). Trước mắt là để trợ cấp cho hơn 2.000 hộ
gia đình bị mất hết tài sản, nhà cửa. Đồng thời bàn với Bộ Nội
thương cấp ngay cho tỉnh các hàng hóa như: giấy dầu, bát ăn
cơm, nồi, chăn màn, chiếu và giấy học sinh, đặc biệt là tỉnh có
đề nghị nếu cho phép tỉnh mua thịt lợn hơi với giá bình quân
90 đồng/kg thì khả năng mua trên 1.000 tấn để cấp cho bộ đội,
cán bộ trên địa bàn.
Những vấn đề trên tơi đã có điện báo cáo anh Năm Công, anh
Đồng Sỹ Nguyên và anh Truyến.
Sau khi nghe các đồng chí Lạng Sơn báo cáo, nếu anh đồng ý
với những ý kiến trên của chúng tôi, đề nghị anh cho ra ngay văn
bản của Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và đơn đốc Văn phịng Hội
đồng Bộ trưởng ra quyết định sớm để địa phương và các ngành
triển khai.


Thân ái

Tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia III,

Phông Thủ tướng Võ Văn Kiệt, hồ sơ số 25.

671


BÁO CÁO
VỀ TÌNH HÌNH LŨ LỤT TẠI CÁC TỈNH
LẠNG SƠN, CAO BẰNG VÀ BẮC THÁI
Ngày 06 tháng 8 năm 1986

Kính gửi: - Ban Bí thư Trung ương Đảng,


- Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng,

Tơi đi thăm và nghiên cứu tình hình thực tế lũ lụt tại ba tỉnh:
Lạng Sơn, Cao Bằng và Bắc Thái từ ngày 02 đến ngày 05/8/1986;
nghe Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân báo cáo cũng như phản ánh của
các ngành trong tỉnh về diễn biến của lũ lụt, về tổn thất của địa
phương, về hướng khắc phục của tỉnh và xem xét thực tế các
điểm thiệt hại. Tôi đã tham gia ý kiến với hai tỉnh để khắc phục
hậu quả sau lũ lụt cũng như quyết định giải quyết những nhu
cầu bức bách để hai tỉnh sớm ổn định đời sống và ổn định sản
xuất đã tham gia với từng tỉnh về các định hướng phát triển kinh
tế lâu dài và các biện pháp kết hợp kinh tế với quốc phòng trên
địa bàn từng tỉnh.
Để Ban Bí thư và Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng trong việc
chỉ đạo cụ thể, tôi phản ánh một số nét cơ bản về đợt đi công tác
thực tế ở ba tỉnh lũ lụt trên.
1. Tỉnh Lạng Sơn

11 huyện đều bị ảnh hưởng của lũ lụt, 76 xã, phường, thị trấn
bị ngập úng, điển hình là thị xã Lạng Sơn ngập 30 giờ, thị trấn
672


Phần II: Dấu ấn Võ Văn Kiệt trong lĩnh vực văn hóa - xã hội
Thất Khê, Tràng Định ngập 72 giờ, lượng mưa trong ngày 21 đến
ngày 23/7 tới 360 ly. Mực nước chưa từng có, vượt mực nước lụt
năm 1914 đến 1,5 m nước.
- Số người chết 24 người, ngồi ra số bộ đội trơi dạt, vắng mặt
40 người chưa xác định được.
- Số người bị thương 4 người.
- Nhà cửa hư hỏng hoàn toàn 1.152 cái (sập đổ, nước cuốn trôi
nhà ở, trụ sở các cơ quan), kho tàng hư hỏng hoàn toàn 9.722 m2,
tường rào bị đổ gần 1.000 m, sách giáo khoa trôi,...
Về nông nghiệp:
+ Diện tích lúa bị ngập úng: 6.810 ha.
Trong đó: + Lúa xuân chưa kịp thu hoạch: 1.710 ha.
+ Lúa mùa đã cấy: 5.100 ha (mất trắng 2.929 ha).
- Ngô chưa thu hoạch: 149,6 ha.
- Hoa màu đỗ các loại: 283,0 ha.
Nước cuốn trơi 170 tấn thóc giống, 14 con trâu bị.
Về lâm nghiệp: Xí nghiệp chế biến lâm sản gỗ bị trôi 350 m3,
số vùi lấp ở bãi 1 và bãi 2 đang thống kê.
Về thủy lợi: Các hồ chứa lớn đều vượt mức lũ thiết kế.
- Hồ Tà Keo nước vượt qua tràn 3 m; vượt qua đập đất 0,2 m.
- Hồ Nà Cáy: Nước vượt qua tràn 1,9 m cao hơn mức lũ thiết
kế 0,7 m phá hủy 1 tràn bêtông cốt thép.
- Đập xây Gia Cát trên sông Kỳ Cùng bị trôi đứt 20 m.
- Đập Lẳu Xá Cao Lộc nước tràn làm đổ đập 15.000 m3, đất đắp.

- Kênh mương bị sạt lở 5 km so với tồn bộ có 100 km.
- Các trạm bơm và thủy điện đều bị ngâm nước.
Về giao thông: Nhiều đoạn bị lở, có nơi mất hẳn đoạn đường
dài 40 m sâu tới 4 m có nơi nứt sâu vào đường nhựa tới 1 m và
dài tới 200 m, đất sụt lở hàng 10.000 m3, cầu Kỳ Cùng bị trôi để
lại mố cầu.
673


Dấu ấn Võ Văn Kiệt thời kỳ đổi mới
Về vật tư hàng hóa: Thống kê chưa đầy đủ số thiệt hại đã lên
tới 74 triệu đồng.
Nhìn chung lũ lụt đã gây thiệt hại nặng nề về người và của
cho nhân dân tỉnh Lạng Sơn: hàng nghìn hộ chưa có nhà ở, giá
cả tăng: gạo trên 20 đồng/kg, thịt lợn trên 200 đồng/kg. Sản
xuất công nghiệp hầu hết phải ngừng hoạt động tới nay vì chưa
kịp phục hồi lại thiết bị máy móc và chưa chuẩn bị kịp nguyên
liệu. Dự trữ lương thực hết, đang phụ thuộc lớn vào vận chuyển
của Trung ương lên. Đã có nhiều đồn đại biểu của Đảng và
Nhà nước lên thăm tỉnh và bàn biện pháp khắc phục hậu quả
của lũ lụt.
Lãnh đạo của tỉnh đã cùng quân và dân trong tỉnh có nhiều
cố gắng cứu người, cứu của trong lúc lũ lụt và đang từng bước chỉ
đạo khắc phục hậu quả.
- Bộ Giao thông vận tải đã cấp 2 triệu đồng, 20 tấn nhựa
đường, 30 tấn xăng, 30 tấn dầu để sửa chữa cầu đường, đã triển
khai bắc cầu cáp tại vị trí cầu Kỳ Cùng cho nhân dân đi lại.
- Bộ Nông nghiệp đã giải quyết cho mua 100 tấn giống lúa và
150 tấn phân đạm.
- Bộ Nội thương đã cấp lệnh phân phối 100.000 m giấy dầu,

10 tấn đinh, 4.000 đôi pin đèn.
- Bộ Y tế đã cấp 30 kg thuốc khử trùng nước uống, 49 cơ số
thuốc chữa bệnh.
- Ủy ban nhân dân Hà Nội đã chi viện: 3 tấn dầu hỏa, 5 tấn
muối, 5 tấn gạo, 5 cơ số thuốc chữa bệnh.
- Nơng trường Hữu Lũng đã qun góp giúp nhân dân Lạng
Sơn 2 tấn thóc.
Tỉnh yêu cầu Trung ương giải quyết tiếp các nhu cầu vật chất
cho tỉnh để khắc phục hậu quả lũ lụt; tất cả nhu cầu tỉnh đề xuất
674


Phần II: Dấu ấn Võ Văn Kiệt trong lĩnh vực văn hóa - xã hội
cịn phụ thuộc vào khả năng cân đối chung của Nhà nước. Tôi đã
chỉ thị cho các đơn vị hữu quan nghiên cứu giải quyết tiếp theo;
xét sự cần thiết bức bách về vật tư phục vụ sản xuất, tôi đã quyết
định bổ sung ngay cho Lạng Sơn.
- Xe ôtô vận tải 4 - 6 tấn:

15 cái.

- Xăng ôtô:

200 tấn.

- Điêzen:

100 tấn.

- Cáp nhôm:


5 tấn.

- Than mỏ:

100 tấn.

- Tôn lợp:

20 tấn.

Các vật tư khác được ưu tiên lấy trong chỉ tiêu kế hoạch đã ghi.
2. Tỉnh Cao Bằng
Nếu lấy năm lũ lụt cao nhất trước đây so sánh thì năm 1950
là 19,7 m; năm 1971 là 17,9 m; lũ kỳ này 18,3 m. Như vậy, lũ chỉ
cao hơn năm 1971 có 0,4 m và có thấp hơn năm 1950 tới 1,4 m.
Tuy vậy, vấn đề thiệt hại ở Cao Bằng chủ yếu do nước lên quá
nhanh và lên vào ban đêm.
Tỉnh xác định số thiệt hại (không kể phần diện tích cây trồng
bị ngập lụt) tới 12.396.975 đồng.
Trong đó:
- Khu vực quốc doanh:

7.845.975 đồng.

- Khu vực tập thể:

1.065.000 đồng.

Về nơng nghiệp:

Diện tích cây trồng bị ngập: 2.302,4 ha.
Trong đó:

Lúa:

1.747,4 ha.



Ngơ:

76 ha.



Đỗ các loại: 387 ha.



Hoa màu:

40 ha.
675


Dấu ấn Võ Văn Kiệt thời kỳ đổi mới
Giao thông vận tải:
Đường sạt lở:

30.000 m3.


Sập 4 cầu chiều dài toàn bộ: 190 m.
- Đường địa phương
+ Đất sụt lở:

70.000 m3.

+ Sập 7 cầu tổng chiều dài:

97 m.

- Đường dây bị đổ:

400 m.

- Số hộ bị ngập:

1.450 hộ.

- Số hộ bị mất trắng:

31 hộ.

- Người bị chết:

5 người.

- Lợn trôi:

21 con của nhân dân và nông



- Trâu chết:

trường trên 100 con.
2 con.

Ở Cao Bằng do thực tế năm 1950 mực nước tới 19,7 m nên
quy hoạch nhà cửa kho tàng chủ yếu được bố trí ở địa hình cao
nên mức tổn thất so với Lạng Sơn không lớn.
Tỉnh đã kịp thời thông báo cho cán bộ, nhân dân và huy động
kịp thời phương tiện để chống lũ lụt nên hạn chế nhiều thiệt hại
về người và của.
Sau lũ lụt, tỉnh đã triển khai lực lượng lo cứu trợ các gia đình
thiệt hại nặng và gia đình thương binh, liệt sĩ, tăng cường cán bộ
các ngành xuống cơ sở để xử lý các hậu quả và ổn định tổ chức,
chỉ đạo sản xuất. Đang tập trung lực lượng để khai thông việc
thông tin liên lạc và giao thông.
Chỉ đạo hợp tác xã thu hoạch vụ đông xuân và chăm sóc cây
trồng vụ mùa.
Về Cao Bằng, Ủy ban Kế hoạch Nhà nước sẽ bổ sung nhu cầu
cho tỉnh trong điều chỉnh tới, trước mắt để giúp tỉnh sớm ổn định
676


Phần II: Dấu ấn Võ Văn Kiệt trong lĩnh vực văn hóa - xã hội
sản xuất, tơi đã quyết định giải quyết ngay cho tỉnh một số vật
tư thiết yếu:
1. Xe tải 4 - 6 tấn:


1 cái.

2. Máy ủi 75 cv:

1 cái.

3. Xe uoat tải 1,5 tấn:

1 cái.

4. Tôn lợp:

30 tấn.

5. Cáp nhôm:

15 tấn (số này đã ghi chỉ tiêu thanh
toán quyền sử dụng ngoại tệ nay
cho thanh toán bằng tiếng Việt).

3. Tỉnh Bắc Thái
- Lũ gây ngập lụt lớn, ngập 8.400 ha lúa trong đó bị mất
trắng 3.000 ha, người chết 24 người, các tuyến đê chính đều được
giữ vững, lãnh đạo tỉnh đã tập trung lực lượng với mức cao bảo
vệ được cống số 1 đê Phổ Yên, Bắc Thái không bị vỡ bảo đảm bảo
vệ được tài sản của Nhà nước và nhân dân.
Ở xã Nam Cường, huyện Chợ Đồn nước chảy mạnh, cây
que đất trôi về lấp mất đường hầm xuyên qua núi đá dẫn nước
xuống hồ Ba Bể, làm nước dâng lên cao ngập một vùng rộng lớn
100 km2, hiện nay 50 - 60 nóc nhà đang chìm dưới nước. Tỉnh

ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh đang triển khai công tác khắc phục
hậu quả lũ lụt.
Tôi cùng Thường vụ Tỉnh ủy và Thường trực Ủy ban nhân
dân tỉnh dành nhiều thì giờ thảo luận về lương thực thực phẩm công tác lâm nghiệp và định canh, định cư.
- Về vấn đề lương thực hằng năm tỉnh xin Trung ương 6 vạn
tấn chủ yếu cung cấp cho nhu cầu của Trung ương trên lãnh thổ,
riêng nhu cầu của tỉnh 2 vạn tấn đã tự cân đối được với bình quân
lương thực đầu người trên địa bàn 250 kg/năm. Mấy năm vừa qua,
677


Dấu ấn Võ Văn Kiệt thời kỳ đổi mới
tốc độ sản lượng lương thực tăng bình quân hằng năm là 6%, xét
điều kiện cụ thể và tiềm năng của Bắc Thái dự kiến tới năm 1990
phấn đấu bình quân đầu người trên địa bàn trên 350 kg/năm.
Thâm canh tăng năng suất và tăng vụ là chủ yếu, giải quyết
lương thực nói chung là cả loại hoa màu có chất bột. Các cây có
chất bột ở trung du miền núi khá phong phú.
Đẩy mạnh sản xuất cây công nghiệp, các lâm sản phát huy
thế mạnh tạo ra nhiều nông lâm sản xuất khẩu để cân đối thêm
lương thực.
Cải tiến cơ cấu lương thực bữa ăn ở Bắc Thái cần được tiến
hành sớm và có ý nghĩa rất lớn để cân đối lương thực. Với những
phương hướng trên đầu tư và cung ứng vật tư thỏa đáng đẩy
mạnh sản xuất thì tỉnh Bắc Thái có khả năng tự cân đối được
lương thực tại chỗ trên địa bàn tỉnh. Cụ thể cần đủ đạm, lân, kali
và thuốc trừ sâu theo tỷ lệ. Đi sâu vào khai thác từng cánh đồng,
từng đồi nương sản xuất có hiệu quả.
- Vấn đề thực phẩm hằng năm Bắc Thái vẫn xin Trung ương
cấp 1.500 tấn thịt hơi, sau khi tính tốn Bắc Thái đủ điều kiện

đẩy mạnh chăn nuôi tự lo được thực phẩm trên địa bàn, Nhà
nước tạo điều kiện hỗ trợ cho tỉnh cân đối đủ thức ăn gia súc để
gia công cho cán bộ, công nhân viên chăn nuôi và cung ứng cho
lực lượng vũ trang tự chăn ni.
Ngồi ra thu mua thịt hàng hóa với người chăn ni lấy giá
thóc làm chuẩn để tính tốn thu mua có thể khoảng 6 kg thóc/1 kg
thịt hơi là phù hợp. Những phí lưu thơng về vận tải trước đây
Trung ương phải chuyển thịt cho Bắc Thái thì Trung ương giao
số đó cho tỉnh để thúc đẩy chăn nuôi.
Trong năm 1986 này, đề nghị Trung ương hỗ trợ cho tỉnh
6.000 tấn thức ăn để chăn nuôi giải quyết thịt tại chỗ làm đà và
tạo cơ sở để đẩy mạnh trong năm 1987.
678


Phần II: Dấu ấn Võ Văn Kiệt trong lĩnh vực văn hóa - xã hội
Mía đường khẳng định tự sản xuất trong tỉnh khơng xin
Trung ương mỗi huyện bố trí từ 250 - 300 ha để tự cân đối, tỉnh
tập trung xây dựng vùng mía đường hàng hóa của tỉnh ở Võ
Nhai - Đồng Hỷ.
- Về vấn đề lâm nghiệp và định canh, định cư.
Diện tích rừng 404 nghìn ha, trên 650 nghìn ha diện tích tự
nhiên, rừng gỗ 124 nghìn ha, rừng vầu 16 nghìn ha, rừng nứa 14
nghìn ha, rừng cọ 4.700 ha, rừng đang kinh doanh 220 nghìn ha
trữ lượng 1 triệu m3.
Đất trống đồi trọc phải trồng cây cịn rất lớn khoảng 250 nghìn
ha trong những năm trước mắt tới năm 1990 chủ trương của tỉnh
là ngăn chặn phá rừng, bảo vệ tái sinh rừng, một phần trồng
rừng - trồng cây đặc sản, khai thác hợp lý hằng năm khoảng
2 vạn 5 m3 gỗ.

Để giải quyết vấn đề này phải sử dụng tốt kinh tế quốc doanh,
tập thể và đặc biệt là kinh tế gia đình vào bảo vệ, chăm sóc và
trồng rừng bằng cách giao đất giao rừng. Đặc biệt trước mắt là
gắn công tác định canh, định cư với công tác lâm nghiệp, chuyển
đồng bào làm nghề rừng.
Bắc Thái hiện còn 11.000 người du canh, du cư ở trên 6 huyện
66 xã và 77 điểm. Năm 1987 tỉnh chủ trương hoàn thành dứt
điểm để ổn định đồng bào.
Đây là hai mục tiêu quan trọng nhất của Bắc Thái, cụ thể sẽ
được xây dựng trong kế hoạch 5 năm 1986 - 1990, có những việc
sẽ triển khai ngay trong kế hoạch năm 1987.
Tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia III,
Phông Thủ tướng Võ Văn Kiệt, hồ sơ số 25.

679


PHÁT BIỂU
TẠI HỘI NGHỊ VÙNG CAO VÀ DÂN TỘC MÔNG
CÁC TỈNH PHÍA BẮC
Ngày 28 tháng 12 năm 1991
(Trích)

Hội nghị đã nghe báo cáo của Văn phòng Miền núi và Dân
tộc, của Bộ Lâm nghiệp và của Ủy ban Kế hoạch Nhà nước; Hội
nghị cũng đã nghe phát biểu ý kiến của đồng chí Nơng Đức Mạnh
và ý kiến của các đồng chí đại diện các tỉnh phía Bắc có vùng cao
và dân tộc Mông.
Tôi muốn nhấn mạnh thêm về ý nghĩa của hội nghị này:
Tiếp theo các cuộc hội nghị về các chính sách đối với dân tộc

Khmer, các dân tộc Tây Nguyên và dân tộc Chăm, cuộc hội
nghị này tập trung bàn về các chính sách đối với các dân tộc
vùng cao và dân tộc Mông là nhằm tiếp tục thể hiện quan
điểm, đường lối của Đảng trong vấn đề dân tộc, một nội dung
rất quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên
Tổ quốc ta.
Với ý nghĩa ấy, tôi nghĩ rằng các vấn đề được nêu lên trong
Hội nghị này cần được bàn kỹ và khi đã kết luận, cần được tổ
chức thực hiện một cách chặt chẽ và đạt kết quả thiết thực.
Tôi xin phát biểu một số ý kiến sau đây nhằm nhấn mạnh
thêm các nội dung đã thảo luận.
680


Phần II: Dấu ấn Võ Văn Kiệt trong lĩnh vực văn hóa - xã hội
1. Về cách đặt vấn đề vùng cao phía Bắc và dân tộc
Mơng trong tình hình hiện nay
Vùng núi cao phía Bắc (tính từ Nghệ An trở ra đến Lạng Sơn)
có số dân trên 2 triệu người, gồm 30 dân tộc anh em, trong đó
đơng nhất là dân tộc Mơng có khoảng 53 vạn người, dân tộc Dao
có khoảng 15 vạn người. Đây là một vùng có vị trí rất quan trọng
của nước ta, trong cơng cuộc phát triển kinh tế - xã hội cũng như
về quốc phòng và an ninh.
Khác với trước đây, lần này, chúng ta bàn về các chính sách
đối với vùng cao và dân tộc Mơng trong tình hình có hai điểm cần
đặc biệt chú trọng sau đây:
Thứ nhất, trải qua quá trình đổi mới theo đường lối Đại hội
VI và được cụ thể hóa bằng các nghị quyết hội nghị trung ương,
nền kinh tế - xã hội nước ta đã đạt được những tiến bộ bước đầu
rất quan trọng, mà nổi bật là cả ba mặt chính trị, kinh tế, xã hội

vẫn giữ được ổn định về cơ bản. Cơ chế thị trường đang được vận
dụng ngày càng phù hợp với điều kiện nước ta và đang được triển
khai trên toàn bộ các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội ở tất
cả các vùng, các dân tộc, với những mức độ khác nhau. Phát triển
kinh tế - xã hội ở vùng cao phía Bắc, trong các dân tộc vùng cao
cũng phải đặt trong bối cảnh cơ chế mới: đó là phát huy mọi khả
năng, thế mạnh của các dân tộc vùng cao khắc phục tính tự túc,
tự cấp, phát triển mạnh mẽ nền kinh tế hàng hóa, mở rộng giao
lưu hàng hóa giữa các vùng trong cả nước.
Thứ hai, các tỉnh miền núi phía Bắc có biên giới dài với các
tỉnh Trung Quốc, có quan hệ lâu đời về kinh tế, xã hội với nhân
dân bên kia biên giới. Đồng bào dân tộc Mơng có nhiều quan hệ
về dịng họ, về hơn nhân với phía Trung Quốc.
681


Dấu ấn Võ Văn Kiệt thời kỳ đổi mới
Ngày nay, quan hệ Trung Quốc - Việt Nam đã được bình
thường hóa; q trình bình thường hóa này sẽ mở ra những điều
kiện thuận lợi mới đồng thời cũng thúc đẩy, chúng ta phải đặc
biệt quan tâm phát triển kinh tế - văn hóa các tỉnh miền núi phía
Bắc với một tốc độ nhanh hơn.
Điều có ý nghĩa lớn là việc khôi phục quan hệ giữa nhân dân
biên giới sẽ tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất hàng hóa của các
tỉnh phía Bắc, từ đó góp phần nâng cao đời sống nhân dân các
dân tộc vùng cao.
Để có căn cứ xác định nhiệm vụ trong các năm tới, mỗi tỉnh
đều phải đánh giá cụ thể sự phát triển trong mấy năm qua, có
những thay đổi gì trong tỉnh, trong các dân tộc, thậm chí có vùng
chưa có thay đổi gì cả cũng cần đánh giá cho rõ, nói cho rõ mức

độ khác nhau. Tôi muốn nhấn mạnh rằng mỗi tỉnh đều phải theo
dõi, nắm chắc tình hình hơn nữa, tồn diện, khách quan hơn. Tôi
nghĩ rằng mấy năm gần đây, cùng với sự phát triển của cả nước,
các vùng dân tộc của nước ta cũng đã có mức phát triển, có thể ít,
nhiều khác nhau, khơng phải một chiều tốt cả, nhưng chắc cũng
khơng phải là khơng có gì thay đổi.
2. Một số điểm về phát triển sản xuất
a) Trước hết là về phương hướng, cơ cấu sản xuất của các tỉnh
vùng cao phía Bắc
Cần khẳng định rằng các tỉnh vùng cao phía Bắc có tiềm
năng lớn về lâm nghiệp, nơng nghiệp và một số khoáng sản quý.
Về kế hoạch 1991 - 1995 các tỉnh đã làm việc với Ủy ban Kế
hoạch Nhà nước; rồi đây, Chính phủ sẽ giao kế hoạch năm 1992
cho các tỉnh, thể hiện mức phát triển của năm 1992 theo các định
hướng của chiến lược kinh tế - xã hội đến năm 2000 của nước ta
682


Phần II: Dấu ấn Võ Văn Kiệt trong lĩnh vực văn hóa - xã hội
và kế hoạch 5 năm 1991 - 1995 (nay chỉ còn 3 năm 1992 - 1995).
Điều tôi muốn nhấn mạnh là:
Một là, phải nhằm đạt được một bước phát triển có ý nghĩa,
rút ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hóa, xã
hội giữa các dân tộc, cụ thể là phải giải quyết dứt điểm vấn đề du
canh, du cư, di dịch cư tự do, thực hiện xong định canh, định cư;
xóa nạn đói giáp hạt; bảo đảm nước sinh hoạt; đẩy lùi và tiến tới
xóa bỏ một số dịch bệnh. Những mục tiêu đó phải được xác định
rất cụ thể ở từng vùng, từng dân tộc, dứt điểm từng việc trong
từng thời gian. Việc gì dứt điểm được trước thì tập trung sức làm
trước, không thể để kéo dài, năm nào cũng nhắc lại những vấn đề

cũ mà khơng có bước tiến triển nào.
Hai là, trong việc xác định cơ cấu sản xuất, khơng nên máy
móc, cứng nhắc, ví dụ như lâm - nông - công nghiệp hay nông lâm - công nghiệp, v.v. phải vận dụng rất cụ thể, thiết thực cho
từng vùng, thậm chí từng xã cụ thể.
Tơi hoan nghênh kinh nghiệm của Hịa Bình: đồng chí Chủ
tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hịa Bình cho biết có xã đã căn cứ vào
đặc điểm xã mình, thay cây độc canh (lúa) sang đa canh, làm
nhiều cây, con phù hợp, chuyển ruộng lúa 1 vụ sang trồng mía,
đỗ, khoai... do đó đã cải thiện rõ rệt đời sống nhân dân (70% số
hộ thuộc loại trung bình, thu nhập 5 - 6 triệu đồng một năm) lấy
tiền bán các loại sản phẩm này để mua lương thực và còn lãi khá
lớn. Thế mà, có lúc, huyện đã định kỷ luật xã này vì khơng chấp
hành đúng cơ cấu do tỉnh và huyện đã xác định! Theo tôi, nên
giải quyết ngược lại: tuyên dương sáng tạo của xã này.
Có thể khẳng định: cơ cấu sản xuất là do yêu cầu của thị
trường quyết định, vì cái mà chúng ta khuyến khích là phát triển
kinh tế hàng hóa, khơng nên chủ quan áp đặt! Ngày nay, cả nước
683


Dấu ấn Võ Văn Kiệt thời kỳ đổi mới
ta đã đạt được một bước tiến rõ rệt về lương thực, vấn đề lương
thực có thể được giải quyết bằng việc trao đổi hàng hóa, vì vậy,
khơng nên đặt vấn đề tự giải quyết lương thực theo lối cũ, tự túc,
tự cấp.
b) Để giải quyết các vấn đề kinh tế, nhiệm vụ số một hiện nay
là phải thực hiện có hiệu quả công tác định canh, định cư. Trong
tổng số 1,2 triệu người trong vùng cao còn du canh, du cư, phải
có kế hoạch để từng năm định canh, định cư một số, đặc biệt là
người Mơng, nếu khơng thì rừng vẫn tiếp tục bị phá, đồng bào

vẫn tiếp tục sống khổ, bệnh tật, không được học hành.
Đây là một vấn đề lớn, chúng ta đã làm từ nhiều năm nay
song kết quả vẫn chưa được như ý muốn. Dựa trên thực tế các
năm qua, lần này, chúng ta nhấn mạnh cách làm chủ yếu là lấy
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của huyện làm chương trình
đầu tư và chỉ đạo. Ủy ban Kế hoạch Nhà nước cùng Bộ Tài chính
bố trí một số vốn cho các huyện có đơng đồng bào Mơng để thực
hiện cho được chương trình này.
Tơi xin nhấn mạnh: lâu nay, đồng bào du canh, du cư chủ
yếu là do hai vấn đề: lương thực và nước; có ăn, có nước là định
cư được, mà định cư được thì có sản xuất hàng hóa, có thu nhập,
từ đó giải quyết các nhu cầu khác. Phải tập trung sức giải quyết
cho được hai vấn đề đó (về nhà ở, cũng có khó khăn, nhưng điều
này cũng dễ giải quyết, vì đã sẵn vật liệu làm nhà, mà nhà ở
cũng chỉ mới ở mức khiêm tốn thơi). Từng tỉnh nếu có điều kiện
thì tự điều hịa trong địa phương, nếu thiếu thì Trung ương phải
bổ sung đủ lương thực cho đồng bào. Việc giải quyết nước cũng
cần tập trung, làm dứt điểm. Hai việc này có thể dùng các nguồn
vốn như vốn trồng rừng, vốn định canh, định cư và các vốn khác
mà làm. Cần làm dứt điểm sớm hơn, không nên kéo dài đến tận
684


Phần II: Dấu ấn Võ Văn Kiệt trong lĩnh vực văn hóa - xã hội
năm 2000. Tơi đồng ý ở Trung ương nên có bộ phận phụ trách các
chương trình cho vùng cao, để điều hòa, phối hợp các ngành, vì
vấn đề này cần có sự chỉ đạo rất tồn diện.
Về vấn đề một số đồng bào còn trồng cây anh túc, lâu nay,
Đảng và Nhà nước đã có chủ trương, nhưng vẫn chưa đủ dứt
khoát; nay phải dứt khoát tất cả các vùng đều thôi không trồng

nữa, chuyển sang cây khác, như: chè, dâu tằm, mía, đậu tương,
các cây làm thuốc và cây ăn quả. Đất trồng cây anh túc được thì
trồng các cây khác đều tốt, có giá trị cao. Điều quyết định là phải
làm cho thu nhập của đồng bào, trong một số năm đầu, ít nhất
cũng bằng hoặc xấp xỉ thu nhập khi trồng cây anh túc. Muốn vậy,
phải thực hiện nhiều chính sách như: cấp lương thực, ứng vốn
trước không lấy lãi (coi như cho mượn vốn) hoặc mua sản phẩm
với giá cao có bù lỗ, v.v. để đồng bào có thêm điều kiện sản xuất.
Tơi muốn nhấn mạnh thêm rằng tồn bộ vấn đề cây anh túc
và vấn đề cai nghiện hút phải được đặt thành một chương trình
lớn, vì khơng chỉ thực hiện ở miền núi mà cịn cả ở miền xi hiện
nay đang có tình trạng người nghiện hút tăng lên.
c) Về lâm nghiệp: Bộ Lâm nghiệp có trách nhiệm chỉ đạo chặt
chẽ các ủy ban nhân dân tỉnh làm xong trong năm 1992 việc giao
đất, giao rừng cho từng hộ gia đình đồng bào dân tộc và các đơn vị
kinh tế cơ sở, các cơ quan, trường học, đơn vị quân đội. Phải thực
hiện đầy đủ các chính sách khuyến khích việc khoanh nuôi, bảo
vệ, thu hái lâm sản (kể cả gỗ và các loại thú quý hiếm).
d) Về giao thông vận tải và bưu điện, đây cũng là một loại
việc hết sức bức xúc đối với vùng cao, bởi vì nếu khơng có giao
thơng thì khơng thể có sản xuất hàng hóa, khơng thể cải thiện
được đời sống đồng bào. Lần này, phải chú trọng hơn nữa, phải
làm dứt điểm một số đường trục, phát triển tất cả các loại
685


Dấu ấn Võ Văn Kiệt thời kỳ đổi mới
phương tiện vận tải có phân cấp rõ cho từng loại đường và tính
bước đi phù hợp.
3. Một số vấn đề về văn hóa, xã hội và đời sống

Điều mọi người chúng ta day dứt là so với đồng bào miền
xuôi, vùng thấp thì đời sống văn hóa, tinh thần của đồng bào
vùng cao, đồng bào Mơng cịn q thấp kém, kể cả việc ăn, ở đến
các phúc lợi văn hóa, phúc lợi xã hội; tình hình mê tín dị đoan,
nghiện hút cũng đang có khuynh hướng phát triển.
Cần nhấn mạnh rằng trong cơ chế mới, chúng ta hồn tồn
khơng coi nhẹ các vấn đề xã hội, các vấn đề liên quan đến cuộc
sống vật chất và văn hóa tinh thần; ngược lại, ln ln gắn chặt
kinh tế với văn hóa, xã hội. Riêng đối với đồng bào vùng cao, đồng
bào Mông, thì đây lại là một vấn đề xã hội, hơn nữa, vấn đề chính
trị rất lớn (gần đây, có các hiện tượng xưng vua, đón vua, đi theo
đạo Thiên Chúa... rất đáng quan tâm).
Tôi xin nhấn mạnh thêm một số điểm:
Một là, giải quyết nước sinh hoạt trong mùa khô cho đồng bào
vùng cao. Miền núi vùng cao còn 25 vạn người chưa có nước sạch
và chưa đủ nước, dân phải đi xa để lấy nước về. Cần phải tích cực
giải quyết bằng nhiều hình thức, như làm đường dẫn nước về hồ
chứa, làm giếng lấy nước ngầm và xây bể gia đình để chứa nước.
Phải phân cơng rõ trách nhiệm giữa Bộ Thủy lợi và Bộ Xây dựng
về việc này; năm 1992 - 1995 giải quyết cho xong.
Hai là, bảo đảm cho nhân dân vùng cao các mặt hàng tiêu
dùng ở mức cao hơn và thực hiện chính sách hỗ trợ giá cả: muối
iốt, dầu hỏa, vải mặc, giấy viết. Riêng về muối iốt, các Bộ Thương
mại và Du lịch, Tài chính, Y tế và Ủy ban Kế hoạch Nhà nước cần
bàn, xác định rõ trách nhiệm của mỗi cơ quan, nhằm giải quyết
686


Phần II: Dấu ấn Võ Văn Kiệt trong lĩnh vực văn hóa - xã hội
cho được vấn đề này theo hướng: Bộ Thương mại và Du lịch bảo

đảm hàng đủ cho các huyện; Ủy ban nhân dân tỉnh chịu trách
nhiệm vận chuyển từ tỉnh về huyện; Bộ Tài chính tính tốn cấp
bù kinh phí cho đến huyện và các huyện vận động các xã đến
huyện về để phân phối đến người dân. Đồng thời cũng chú ý
đóng gói muối iốt vào các túi nhỏ để thuận tiện cho việc sử dụng
của dân.
Gắn với việc bảo đảm các mặt hàng thiết yếu là việc tổ chức
các chợ, kể cả chợ ở các vùng nội địa và chợ cửa khẩu biên giới.
Bộ Thương mại và Du lịch cần nghiên cứu đề án tổ chức và quản
lý cụ thể hơn để cùng các tỉnh thực hiện. Chú ý quán triệt đầy đủ
các chủ trương, biện pháp về trao đổi hàng hóa tiểu ngạch qua
biên giới giữa cư dân hai bên.
Ba là, giải quyết dứt điểm một số bệnh tật, như bướu cổ, sốt
rét, bệnh đường ruột. Ngoài các biện pháp về giải quyết nước sinh
hoạt, cung cấp muối iốt như nói ở trên, Bộ Y tế và các tỉnh cần
lập đề án giải quyết dứt điểm một số bệnh, ở một số vùng, ngay
từ năm 1992, bệnh nào dứt trước, bệnh nào dứt sau và ở đâu (xã
nào, bản nào), cần làm cho được. Phân định rõ việc nào Trung
ương chịu trách nhiệm, việc nào các tỉnh chịu trách nhiệm.
Đồng thời đặc biệt quan tâm vấn đề hướng dẫn sinh đẻ có kế
hoạch, đặc biệt là chăm sóc sức khỏe các bà mẹ, trẻ em.
Bốn là, thực hiện các chủ trương về phát triển giáo dục, văn
hóa, nghệ thuật như các đề án đã trình bày. Chú ý các vấn đề như
xóa nạn mù chữ, củng cố các trường nội trú, có kế hoạch đào tạo
lâu dài cán bộ người dân tộc (Bộ Giáo dục và Đào tạo phải có đề
án và nghiên cứu các chính sách phù hợp); chính sách đối với cán
bộ các vùng khác đến công tác ở vùng dân tộc; chính sách đối với
các loại cán bộ đương chức và nghỉ hưu.
687



×