Phần
I.
PHẦN
MỞ
ĐẦU
1.
Lý
do
chọn
đề
tài.
Giáo dục mầm non là giai đoạn đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, là bộ
phận quan trọng trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ thành những con người có ích,
thành những con người mới. Một trong ba mục tiêu của cải cách giáo dục của nước
ta là: Làm tốt việc chăm sóc giáo dục thế hệ trẻ ngay từ thời thơ ấu nhằm tạo ra cơ
sở quan trọng của con người Việt Nam mới, người lao động làm chủ tập thể, phát
triển toàn diện nhân cách. Giáo dục mầm non đã góp phần thực hiện mục tiêu trên.
Ngày nay, chúng ta không chỉ đào tạo những con người có trí thức có khoa học có
tình u thiên nhiên, yêu Tổ quốc, yêu lao động mà còn tạo nên những con người
biết yêu nghệ thuật, yêu cái đẹp, giầu mơ ước và sáng tạo. Những phẩm chất ấy
con người phải được hình thành từ lứa tuổi mầm non, lứa tuổi hứa hẹn bao điều tốt
đẹp
trong
tương
lai.
Trong những năm gần đây bậc học mầm non đang tiến hành đổi mới, chương trình
giáo dục trẻ mầm non, trong đó đặc biệt coi trọng việc tổ chức các hoạt động phù
hợp sự phát triển của từng cá nhân trẻ, khuyến khích trẻ hoạt động một cách chủ
động tích cực, hồn nhiên vui tươi. Đồng thời, tạo điều kiện cho giáo viên phát huy
khả năng sáng tạo trong việc lựa chọn và tổ chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục
trẻ một cách linh hoạt, thực hiện phương châm “Học mà chơi – Chơi mà học” đáp
ứng mục tiêu phát triển của trẻ một cách tồn diện về mọi mặt.
Trong q trình phát triển tồn diện nhân cách, ngơn ngữ có vai trị là một phương
tiện hình thành và phát triển nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh. Ngôn ngữ
giúp trẻ tìm hiểu, khám phá và nhận thức về mơi trường xung quanh, thơng qua cử
chỉ và lời nói của người lớn trẻ làm quen với các sự vật, hiện tượng có trong mơi
trường xung quanh, trẻ hiểu những đặc điểm, tính chất, cơng dụng của các sự vật
cùng với từ tương ứng với nó. Nhờ có ngơn ngữ trẻ nhận biết ngày càng nhiều các
sự vật, hiện tượng mà trẻ được tiếp xúc trong cuộc sống hàng ngày.
Ngoài ra ngơn ngữ cịn là phương tiện phát triển tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ. Ngôn
ngữ là phương tiện để giao tiếp quan trọng nhất đặc biệt là đối với trẻ nhỏ, đó là
phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh hình thành
những cảm xúc tích cực. Ngơn ngữ là cơng cụ giúp trẻ hồ nhập với cộng đồng và
trở thành một thành viên của cộng đồng. Nhờ có những lời chỉ dẫn của người lớn
mà trẻ dần dần hiểu được những quy định chung của cộng đồng mà mọi thành viên
trong cộng đồng phải thực hiện, mặt khác trẻ cũng có thể dùng ngơn ngữ để bày tỏ
những nhu cầu mong muốn của mình với các thành viên trong cộng đồng điều đó
giúp
trẻ
hồ
nhập
với
mọi
người.
Đặc biệt nhờ có ngơn ngữ, thơng qua các câu chuyện trẻ dễ dàng tiếp nhận những
chuẩn mực đạo đức của xã hội và hoà nhập vào xã hội tốt hơn. Trẻ từ 2 đến 3 tuổi
có số lượng từ tăng nhanh, đặc biệt là ở trẻ từ 22 tháng tuổi và 30 tháng tuổi vốn từ
của trẻ phần lớn là những danh từ và động từ, các loại khác như tính từ, đại từ,
trạng từ xuất hiện rất ít và được tăng dần theo độ tuổi của trẻ. Trẻ ở lứa tuổi này
không chỉ hiểu nghĩa các từ biểu thị các sự vật, hành động cụ thể mà có thể hiểu
nghĩa các từ biểu thị tính chất màu sắc, thời gian và các mối quan hệ. Tuy nhiên,
mức độ hiểu nghĩa của các từ này ở trẻ từ 2 đến 3 tuổi còn rất hạn chế và có nét đặc
trưng riêng, trẻ sử dụng các từ biểu thị thời gian chưa chính xác trẻ nhận thức về
cơng cụ ngữ pháp và sử dụng nó cịn rất hạn chế. Đối với trẻ mầm non nói chung
và trẻ từ 24 tháng tuổi đến 36 tháng tuổi nói riêng, chúng ta cần phải giúp trẻ phát
triển mở rộng các từ loại trong các từ, biết sử dụng nhiều loại câu, bằng cách
thường xuyên trò chuyện với trẻ về những sự vật, sự việc trẻ nhìn thấy trong sinh
hoạt hàng ngày, nói cho trẻ biết các từ biểu thị về các đặc điểm, tính chất, cơng
dụng của chúng. Cho trẻ xem tranh, kể cho trẻ nghe các câu chuyện đơn giản qua
tranh. Đặt các câu hỏi cho trẻ giúp trẻ biết kể chuyện theo tranh bằng ngôn ngữ của
trẻ. Chính vì vậy nên tơi xin trình bày một số kinh nghiệm “Phát triển ngôn ngữ
cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi thơng qua hoạt động kể chuyện”.
2.
Mục
đích
nghiên
cứu:
Phát triển ngơn ngữ cho trẻ nhà trẻ là phát triển khả năng nghe, hiểu ngơn ngữ, khả
năng trình bày có lơ gíc, có trình tự, chính xác và có hình ảnh nội dung.
3. Bản chất cần được làm rõ của việc nghiên cứu, đóng góp sau khi tiến hành
nghiên
cứu
đề
tài.
Để nâng cao khả năng phát triển ngôn ngữ qua kể chuyện cho trẻ từ 24 - 36 tháng
tuổi. Ngoài những phương pháp về giáo dục mầm non đã có, tơi đã khơng ngừng
học hỏi, tham khảo tài liệu, báo chí, tập san . Qua các chuyên đề đặc biệt là tâm
sinh lí của trẻ để từ đó thu hút trẻ vào hoạt động giúp cho cơ có những phương
pháp,
biện
pháp
chăm
sóc
cho
phù
hợp.
Giáo
dục
chuẩn
mực
ngữ
âm
tiếng
Việt.
Hình
thành
và
phát
triển
vốn
từ
cho
trẻ.
- Dạy trẻ nói đúng ngữ pháp và nói các kiểu câu theo mục đích phát ngơn.
Phát
triển
ngơn
ngữ
mạch
lạc.
Giáo
dục
văn
hố
giao
tiếp
ngơn
ngữ
3.1. Bản chất cần được làm rõ của việc nghiên cứu.
*Lựa chọn từ: Sau khi đã lựa chọn nội dung trẻ cần lựa chọn từ để diễn tả chính
xác nội dung mình cần thơng báo, chọn từ giúp cho lời nói của trẻ rõ ràng, chính
xác
và
mang
sắc
thái
biểu
cảm.
*
Sắp
xếp
cấu
trúc
lời
nói:
- Sự liên kết các câu nói lại với nhau tạo thành chuỗi lời nói nhằm diễn tả trọn vẹn
một ý, một nội dùng nào đó để giúp người nghe hiểu được. Đây là sự sản xuất tồn
bộ
nội
dung
thơng
báo
một
cách
có
lơgic.
- Để diễn tả một ý, một nội dung ngắn gọn nào đó thì việc sắp xếp cấu trúc lời nói
là đơn giản đối với trẻ nhưng nếu yêu cầu trẻ kể lại truyện hay tự sáng tác miêu tả
những hiện tượng sự kiện xảy ra trong đời sống thì trẻ gặp khó khăn cần phải luyện
tập
dần
dần.
*
Diễn
đạt
nội
dung
nói:
- Khi trẻ diễn đạt phải ngừng nghỉ ngắt giọng đúng, để giọng nói của trẻ không ê a
ậm ừ. Luyện cho trẻ tác phong khi nói thoải mái, tự nhiên, khi nói nhìn vào mặt
người nói. Trong trường mầm non tơi muốn đề cập tới việc luyện cho trẻ ngôn ngữ
mạch lạc thể hiện qua việc thực hiện hai nhiệm vụ dạy trẻ đối thoại giữa trị chơi và
độc thoại qua bộ mơn làm quen văn học thể loại truyện kể.
3.2.
Đóng
góp
sau
khi
nghiên
cứu
đề
tài.
- Đóng góp một số biện pháp giúp trẻ học tốt môn làm quen văn học.
- Giúp trẻ nhà trẻ phát triển ngôn ngữ qua môn làm quen văn học hoạt động kể
chuyện.
- Tuyên truyền cho các bậc phụ huynh tạo điều kiện cho trẻ học tập làm quen với
văn
học
đặc
biệt
về
thể
loại
kể
chuyện.
4.
Đối
tượng
nghiên
cứu:
- Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi thông qua hoạt
động
kể
chuyện.
5.
Phương
pháp
nghiên
cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: đọc các giáo trình, tài liệu có liên quan đến phát
triển
ngơn
ngữ
cho
trẻ
nhà
trẻ.
- Đọc sách báo, tạp chí, Internet và các phương tiện thơng tin đại chúng về các
hình
thức
phát
triển
ngơn
ngữ
cho
trẻ
nhà
trẻ.
- Phương pháp thực nghiệm: thực nghiệm các biện pháp phát triển ngôn ngữ cho
trẻ 24-36 tháng tuổi thông qua môn văn học hoạt động kể chuyện.
- Phương pháp quan sát: Quan sát việc sử dụng ngơn ngữ của trẻ ở trường, gia
đình, ngồi xã hội để có cơ sở đánh giá thực trạng một cách tồn diện và có những
biện pháp thực nghiệm một cách tích cực và hiệu quả.
- Phương pháp trao đổi, trị chuyện: được thực hiện trao đổi thơng qua phụ huynh,
các đồng nghiệp và thông qua trẻ để thu thập thêm thơng tin cũng như có những
biện
pháp
đề
xuất
khả
thi
hơn.
6. Giới hạn về không gian của đối tượng nghiên cứu.
- Nghiên cứu đối tượng lớp nhà trẻ B 24-36 tháng trong trường MN Cao Minh.
7.
Phạm
vi
và
kế
hoạch
nghiên
cứu.
- Đề tài được tiến hành khảo sát trên: 20 trẻ lớp nhà trẻ B trường MN Cao Minh.
- Thời gian nghiên cứu một năm học 2012-2013: từ tháng 9/2012 đến tháng
5/2013.
Phần
II.
NỘI
DUNG
I.Cơ
sở
lý
luận,
cơ
sở
thực
tiễn.
1.
Cơ
sở
lý
luận:
Theo điều 23 luật GDMN 2005 ban hành số 38/2005 QH11 ngày 14/6/2005 yêu
cầu về nội dung và phương pháp GDMN đã ghi: Phương pháp giáo dục mầm non
chủ yếu là thông qua việc tổ chức các hoạt động vui chơi để giúp trẻ em phát triển
tồn
diện,.
Theo chương trình Giáo dục mầm non (Ban hành kèm theo Thông tư số :
17/2009/TT-BGDĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo) cũng đã nêu rõ: Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển
về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân
cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp một; hình thành và phát triển ở trẻ emnhững
chức năng tâm sinh lí, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kĩ năng
sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng
tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các cấp học tiếp theo v cho vic hc tp sut
i.
- Dựa vào đặc điểm phát triển tâm sinh lý của trẻ.
*
Sinh
lý:
Trong sự phát triển về ngơn ngữ của trẻ thì đây là giai đoạn bắt đầu của ngôn ngữ
chủ động. Do vậy, trong q trình phát triển ngơn ngữ trẻ cịn mắc một số hạn chế
sau:
+ Phát âm chưa chính xác hay ngọng chữ n – l; x – s; dấu ngã - dấu sắc; dấu hỏi –
dấu
nặng.
+ Đồng thời do vài kinh nghiệm cịn ít ỏi nên trẻ cịn nhầm lẫn, khi tri giác chủ yếu
dựa
vào
những
đặc
điểm
bên
ngồi
để
nói.
+ Một số đặc điểm nữa là giai đoạn này tư duy trực quan cụ thể là chủ yếu, nghĩa là
lời nói ln ln gắn liền với mọi hành động đồ vật cụ thể thì trẻ mới hiểu được.
*
Tâm
lý:
+ Trẻ thích giao tiếp với người xung quanh và có nhu cầu bằng trực quan, cần giải
đáp thắc mắc mà trẻ gặp phải, trẻ thích được người lớn khen, động viên kịp thời,
thích đồ chơi sặc sỡ về màu sắc và có âm thanh và một đặc điểm nữa là trẻ rất hay
bắt
chước
người
lớn.
Trên đây là những cơ sở lý luận của đề tài và đã giúp tơi căn cứ vào đó để tìm ra
những biện pháp dạy trẻ sao cho thật phù hợp đối với bộ môn này.
2.
Cơ
sở
thực
tiễn:
2.1.
Đặc
điểm
nhà
trường:
Trường mầm non Cao Minh đã được công nhận trường chuẩn quốc gia. Trường có
gồm 10 nhóm lớp với 28 cán bộ giáo viên, nhân viên, trường nhiều năm đạt tập thể
lao động tiên tiến cấp Thị , chất lượng giảng dạy ngày một cao , được phụ huynh
học sinh tin tưởng số lượng học sinh ra lớp ngày một đông.
2.2.
Đặc
điểm
của
lớp :
Năm học 2012 -2013 tôi được phân cơng chủ nhiệm nhóm lớp nhà trẻ 24-36 tháng
tuổi B. Là lớp nhà trẻ 24-36 tháng tuổi với số cháu 20, trong đó 8 cháu nữ, 12 cháu
nam, với độ tuổi đồng đều , 100% trẻ ngoan ngoãn, mạnh dạn, hồn nhiên, đạt yêu
cầu về phát triển thể chất, phát triển nhận thức, phát triển ngơn ngữ, và tình cảm xã
hội, cảm thụ cái hay cái đẹp trong cuộc sống xung quanh trẻ. Đó là một thuận lợi
lớn để tơi rèn luyện phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ thơng qua hoạt động kể
chuyện.
2.3.
Đối
với
giáo
viên
:
Là một giáo viên có tinh thần trách nhiệm và đầy lịng nhiệt tình, u nghề mến trẻ
bản thân tơi xác định được mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc phát triển
ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ qua hoạt động kể chuyện về nghệ thuật sư phạm và tìm ra
các
giải
pháp
hữu
ích
nhất
.
2.4.
Đối
phụ
huynh:
Sự quan tâm của gia đình dành cho các cháu là khơng đồng đều, 100% phụ huynh
là nông thôn . Kiến thức dạy trẻ phát triển ngôn ngữ trong độ tuổi nhà trẻ của các
bậc
phụ
huynh
cịn
nhiều
hạn
chế.
Chính vì vậy trong trường mầm non tơi muốn đề cập tới việc luyện cho trẻ ngôn
ngữ thể hiện qua việc thực hiện hai nhiệm vụ dạy trẻ đối thoại giữa trò chơi, và độc
thoại qua hoạt động kể chuyện. Nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ được thể hiện ở mọi
lúc
mọi
nơi
trong
sinh
hoạt
hằng
ngày
của
bé.
II.
Nội
dung
vấn đề
nghiên
cứu
1. Vai trị của ngơn ngữ đối với việc phát triển tồn diện của trẻ
1.1 Vai trị của ngơn ngữ đối với việc phát triển trí tuệ
- Ngơn ngữ có vai trị rất lớn trong việc phát triển trí tuệ cho trẻ.
- Ngôn ngữ là phương tiện nhận thức thế giới xung quanh, là cơ sở của mọi sự suy
nghĩ,
là
cơng
cụ
của
tư
duy.
+ Trẻ có nhu cầu tìm hiểu thế giới xung quanh. Thơng qua ngơn ngữ, lời nói của
người lớn, trẻ làm quen với các sự vật, hiện tượng và hiểu những đặc điểm, tính
chất, cấu tạo, cơng dụng ... của chúng và trẻ học được từ tương ứng (từ và hình ảnh
trực quan đi vào nhận thức của trẻ cùng một lúc). Ngôn ngữ giúp trẻ mở rộng hiểu
biết về thế giới xung quanh, từ ngữ giúp cho việc củng cố những biểu tượng đã
được
hình
thành.
+ Sự phát triển của ngơn ngữ giúp cho hoạt động trí tuệ, các thao tác tư duy ngày
càng được hồn thiện, kích thích trẻ tích cực, sáng tạo hoạt động trí tuệ.
- Có nhiều phương tiện để nhận thức thế giới xung quanh nhưng ngôn ngữ là
phương tiện nhận thức hữu hiệu. Thông qua ngôn ngữ trẻ nhận thức thế giới xung
quanh chính xác, rõ ràng, sâu và rộng. Ngơn ngữ giúp trẻ tích cực, sáng tạo trong
hoạt động trí tuệ do vậy việc phát triển trí tuệ khơng thể tách dời với việc phát triển
ngơn
ngữ.
1.2. Vai trị của ngơn ngữ đối với việc giáo dục đạo đức.
- Ngơn ngữ có vai trị rất lớn trong việc hình thành và điều chỉnh những hành vi
của
trẻ.
- Thơng qua ngơn ngữ trẻ biết những gì nên, khơng nên…, qua đó rèn luyện những
phẩm chất đạo đức tốt ở trẻ, dần dần hình thành ở trẻ những khái niệm ban đầu về
đạo
đức
(
ngoan
hư,
tốt
xấu...).
- Ngơn ngữ có tác dụng to lớn trong việc hình thành những phẩm chất đạo đức tốt
đẹp ở trẻ. Ngơn ngữ đã góp phần khơng nhỏ vào việc trang bị cho trẻ những hiểu
biết về những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức, rèn luyện cho trẻ những tình cảm và
hành vi đạo đức phù hợp với xã hội mà trẻ đang sống.
1.3. Vai trị của ngơn ngữ đối với việc giáo dục thẩm mĩ
- Ngôn ngữ có vai trị quan trọng trong q trình tác động có mục đích, có hệ thống
nhằm phát triển ở trẻ năng lực cảm thụ cái đẹp và hiểu đúng đắn cái đẹp trong tự
nhiên, trong đời sống xã hội, trong nghệ thuật, giáo dục cho trẻ lòng yêu cái đẹp và
năng
lực
tạo
ra
cái
đẹp.
- Thông qua ngôn ngữ, trẻ nhận thức được cái đẹp ở thế giới xung quanh, qua đó
làm cho tâm hồn trẻ càng thêm bay bổng, trí tưởng tượng càng phong phú; đồng
thời trẻ càng yêu quý cái đẹp, trân trọng cái đẹp và có ý thức sáng tạo ra cái đẹp.
- Thông qua ngôn ngữ văn học, trẻ cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong ngôn ngữ
tiếng mẹ đẻ, cái đẹp trong hành vi, cái đẹp trong cuộc sống. Có thể khẳng định
rằng ngơn ngữ đã góp phần khơng nhỏ vào q trình giáo dục cho trẻ những tình
cảm
thẩm
mĩ
cao
đẹp.
1.4 .Vai trị của ngơn ngữ đối với việc phát triển thể lực
Để phát triển thể lực cho trẻ cần kết hợp nhiều phương pháp khác nhau, trong đó,
ngơn ngữ đóng góp một vai trị quan trọng đáng kể. Trong các hoạt động góp phần
phát triển thể lực như các trò chơi vận động, các giờ thể dục, trong chế độ ăn ...
giáo viên đều cần dùng đến ngôn ngữ để hướng dẫn trẻ thực hiện tốt những yêu
cầu
cần
đạt.
Hoạt động nói năng liên quan đến các cơ quan hơ hấp, thính giác, bộ máy phát
âm ... Q trình phát âm là quá trình rèn luyện bộ máy cấu âm, rèn luyện phổi, khí
quản
và
các
bộ
phận
khác
của
cơ
thể.
Để có thể lực tốt cần có một chế độ vệ sinh hợp lí, ngơn ngữ cũng tham gia vào
q trình chăm sóc vệ sinh để trẻ phát triển thể lực.
2.
Thuận
lợi
và
khó
khăn.
2.1. Thuận
lợi :
Được sự quan tâm giúp đỡ của ban giám hiệu về chuyên môn, xây dựng phương
pháp đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục mầm non, tạo mọi điều kiện
giúp tôi những nguyên vật liệu để làm đồ dùng dạy học và đồ chơi của các cháu.
2.2.
Khó
khăn
Do trình độ nhận thức khơng đồng đều, có một số cháu lúc đầu đến lớp vẫn chưa
phát triển được nhiều ngôn ngữ cần thiết mà độ tuổi cần đạt được, một số cháu mới
ê,
a
được
1
số
từ
ngữ
đơn
giản.
Kinh nghiệm sống của trẻ chưa có nhiều, nhận thức hạn chế dẫn đến tình trạng trẻ
dùng từ khơng chính xác, câu lủng củng. Trẻ nói, phát âm do ảnh hưởng ngơn ngữ
của
người
lớn
xung
quanh
trẻ
nói
tiếng
địa
phương.
Đa số phụ huynh làm nơng nghiệp ít giao tiếp, ảnh hưởng của tiếng địa phương và
ít trị chuyện với trẻ và nghe trẻ nói, thường chiều theo ý của trẻ đây cũng là một
trong những nguyên nhân của việc chậm phát triển ngơn ngữ.
Với những khó khăn như thế tôi phải dần dần khắc phục, sửa đổi và hướng dẫn trẻ
phát triển ngôn ngữ một cách đúng đắn nhất qua giao tiếp và tập cho trẻ làm quen
văn
học
thể
loại
chuyện
kể.
3.
Thực
trạng.
Thời gian đầu năm học trẻ mới bắt đầu đến trường chưa quen với môi trường mới
và phải xa bố mẹ, người thân trong gia đình nên trẻ đang cịn hay khóc và chưa
chịu học, chịu chơi. Vì thế, việc cho trẻ phát triển vốn từ đang còn hạn chế.
Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm học 2012 - 2013 tại lớp nhà trẻ B trường
mầm
non
Tốt
Khá
Cao
Trung
bình
Minh như
sau:
Yếu
Xếp
loại
Số
Số
Số
Số
%
%
%
%
Tổng lượng lượng lượng lượng
số
trẻ
20 4
206
304
206
30
*
Trẻ
xếp
loại
tốt
là
trẻ
đã
biết
:
Nghe
hiểu
+ Trả lời câu hỏi : Ai đây? Cái gì đây ? Làm gì ? Làm thế nào?
Ví
dụ:
Con
gà
gáy
thế
nào?
+ Hiểu nội dung truyện ngắn đơn giản: trả lời các câu hỏi về tên truyện, tên và
hành
động
của
các
nhân
vật
trong
truyện.
Nghe
nhắc
lại
các
âm
và
các
tiếng,
các
câu.
+
Phát
âm
rõ
tiếng.
Sử
dụng
ngơn
ngữ
để
giao
tiếp.
+ Trẻ phát âm rõ ràng: Trẻ nói được câu đơn , câu có 5-7 tiếng, có các từ thơng
dụng chỉ hoạt đông đặc điểm quen thuộc. Sử dụng lời nói và các mục đích khác
nhau.
Ví
dụ:
Con
gì
đây?
Cái
gì
đây?
+
Trẻ
nói
to
đủ
nghe,
lễ
phép.
+ Kể lại đoạn truyện được nghe nhiều lần có gợi ý.
+ Thể hiện nhu cầu mong muốn và hiểu biết bằng 1, 2 câu đơn giản và câu dài.
*
Trẻ
xếp
loại
khá
là
những
trẻ
biết:
Nghe
hiểu
+ Trả lời câu hỏi : Ai đây? Cái gì đây? Làm gì? Làm thế nào?
Ví
dụ:
Con
gà
gáy
thế
nào?
+ Hiểu nội dung truyện ngắn đơn giản: trả lời các câu hỏi về tên truyện, tên và
hành
động
của
các
nhân
vật
trong
truyện.
Nghe
nhắc
lại
các
âm
và
các
tiếng,
các
câu.
+
Phát
âm
rõ
tiếng.
Sử
dụng
ngôn
ngữ
để
giao
tiếp.
+ Trẻ phát âm rõ ràng: Trẻ nói được câu đơn , câu có 3 - 4 tiếng, có các từ thơng
dụng chỉ hoạt đông đặc điểm quen thuộc. Sử dụng lời nói và các mục đích khác
nhau.
Ví
dụ:
Con
gì
đây?
Cái
gì
đây?
+
Trẻ
nói
to
đủ
nghe,
lễ
phép.
+ Kể lại đoạn truyện được nghe nhiều lần có gợi ý.
*
Trẻ
xếp
loại
trung
bình
là
những
trẻ
biết:
- Ở những trẻ này trẻ chỉ biết trả lời câu hỏi : Ai đây? Cái gì đây? Thế nào?
+
Hiểu
nội
dung
truyện
ngắn
đơn
giản.
+
Biết
sử
dụng
lời
nói
vào
mục
đích
khác
nhau.
+ Trả lời các câu hỏi về tên truyện,tên và hành động của các nhân vật trong truyện.
+
Trẻ
phát
âm
cịn
chưa
rõ
+
Trẻ
chỉ
nói
được
câu
đơn,
câu
có
2-3
tiếng
*
Trẻ
xếp
loại
yếu
là
những
trẻ
biết:
Ở
trẻ
này
trẻ
chỉ
biết
nghe
hiểu.
- Chưa biết nghe nhắc lại các âm các tiếng trong câu.
Trẻ
phát
âm
chưa
rõ
tiếng.
Chưa
biết
kể
lại
câu
chuyện
cùng
cô.
Từ thực tế trên nên tôi mạnh dạn đưa ra “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ
cho trẻ từ 24 đến 36 tháng tuổi thông qua giờ kể chuyện”.
*
Kết
quả,
hiệu
quả
của
thực
trạng
trên.
- Vì chưa hiểu hết được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ cho
nên trong q trình chăm sóc giáo dục hầu như giáo viên chưa chú ý đến việc thay
đổi nội dung và cách thức trị chuyện, tạo các tình huống cho trẻ thể hiện những
tình cảm và yêu cầu của mình bằng các âm các từ. Khi nói chuyện với trẻ cơ hay
nói nhanh và khơng chú ý tới việc sửa sai lỗi về từ, âm, câu cho trẻ.
- Giáo viên chưa chú ý luyện câu, từ cho trẻ, nhiều trẻ nói thiếu, nói lặp cơ khơng
kịp
thời
điều
chỉnh
và
sửa
sai.
- Q trình tổ chức giờ học cô chưa chú ý đến hệ thống câu hỏi để giúp trẻ được tư
duy
và
phát
triển
ngơn
ngữ.
- Đối với trẻ thì hệ thống ngôn ngữ không được mở rộng do cô đưa hệ thống câu
hỏi
đóng,
trẻ
hay
nói
câu
thiếu
các
thành
phần.
- Khả năng lĩnh hội thơng tin của trẻ rất hạn chế nếu cô truyền đạt một câu dài hoặc
một
sự
việc
có
nội
dung
truyền
tải
nhiều.
Qua kết quả đó tơi miệt mài nghiên cứu tài liệu, các phương tiện thông tin đại
chúng đồng nghiệp và đưa một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ từ 24 đến
36
tháng
tuổi
thông
qua
giờ
kể
chuyện.
Với trẻ 24 đến 36 tháng tuổi rất thích nghe kể chuyện và rất hứng thú với hoạt
động này. Chính vì vậy mà tơi muốn thông qua giờ kể chuyện để phát triển ngôn
ngữ cho trẻ. Cụ thể các biện pháp thực hiện như sau:
3.1. Sưu tầm, làm thêm một số đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho giờ kể chuyện.
- Mục đích: Để phát triển ngơn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi thì việc sưu tầm, làm
thêm một số đồ dùng đồ chơi phục vụ cho giờ kể chuyện là khơng thể thiếu. Chính
vì vậy, tơi đã khơng ngừng sưu tầm, sáng tạo làm một số đồ dùng đồ chơi phục vụ
cho
hoạt
động
kể
chuyện.
Nội
dung
và
cách
thức
thực
hiện:
+ Tôi tận dụng các nguyên liệu vật liệu có sẵn ở địa phương như: sách báo, lịch cũ,
ống lon, chai nhựa, xốp, vải vụn, cành cây khô, quần áo cũ nhằm phát triẻn ngôn
ngữ
cho
trẻ.
+ Dựa vào từng chủ đề tôi triển khai kế hoạch làm đồ dùng đồ chơi một cách cụ
thể mỗi chủ đề có một bộ đồ chơi phục vụ cho quá trình giảng dạy và vui chơi tôi
cho các cháu vào hoạt đông chơi góc để trẻ tạo ra những đồ chơi làm bằng lá cây,
giấy vụn, hột hạt vẽ và tô màu những bức tranh, những hình ảnh trẻ sưu tầm gợi
mở
cho
trẻ
tưởng
tượng
kể
chuyện.
+ Từ những quần áo, vải vụn, ống giấy, tôi hướng dẫn trẻ làm ra những con rối
thật xinh xắn từ câu truyện cổ tích trẻ học được, sáng tạo ra những nhân vật trẻ
thích.
Ví dụ: Tơi đã làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo từ những quả bóng và những mảnh vải
vụn để thành những con rối rất đẹp phục vụ cho các câu chuyện mà tôi kể cho trẻ
như: Truyện “ Đôi bạn nhỏ” dùng (Rối gà, rối vịt); Truyện “ Thỏ con không vâng
lời” dùng ( Rối gấu, rối thỏ mẹ, thỏ con); Truyện “ Cá và chim” dùng ( Rối cá, rối
chim)....
+ Khi kể chuyện tôi dùng những tranh ảnh sáng tác màu sắc đẹp để gây hứng thu
cho trẻ nghe, xem để trẻ biết cách sử dụng và giữ gìn đồ chơi .
+ Tơi sử dụng các nguyên liệu mở như: thanh tre, bìa cứng, gỗ, hộp xốp, đất ... để
làm thành những con vật xinh xắn, trẻ cũng có thể sử dụng được để kể chuyện theo
ý
thích.
Ví dụ: Từ bìa cứng, xốp làm những con vật ngộ nghĩnh, đa dạng màu sắc để thu
hút trẻ. Như khi kể truyện “Gà và vịt” để gây hứng thú cho trẻ tôi chuẩn bị một sân
khấu rối, các con rối được làm bằng vải vụn được cải biên màu sắc rực rỡ.
3.2.
Sắp
xếp
mơi
trường.
- Mục đích: Việc sắp xếp mơi trường lớp học hợp lý sẽ làm tăng thêm hiệu quả của
hoạt động kể chuyện. Nhờ việc sắp xếp đồ dùng, đồ chơi hợp lý tạo cho trẻ không
gian hoạt động tích cực vì vậy sẽ giúp trẻ khắc sâu hơn về tác phẩm mà trẻ sẽ
được
học.
Nội
dung
và
cách
thức
thực
hiện.
+ Tôi luôn chú ý bố trí sắp xếp đồ dùng, đồ chơi hợp lý để tạo môi trường học tốt
và
thoải
mái
cho
trẻ
.
+ Khi thực hiện các hoạt động làm quen văn học thể loại truyện kể mà trọng tâm là
dạy kể chuyện sáng tạo thì tơi luôn trưng bày các đồ dùng kể chuyện, như khung
sân khấu, sắp đặt tranh và các con rối sao cho trẻ dễ sử dụng, kích thích trẻ hoạt
động
tích
cực
hơn.
Ví dụ: Giờ kể truyện “Đơi bạn nhỏ” tơi sắp xếp các đồ dùng trong lớp như:
● Treo
tranh
gà,
vịt
ở
các
góc.
● Sắp xếp mơ hình gà, vịt sao cho trẻ dễ nhìn, dễ thấy.
● Tôi dã sử dụng môi trường hoạt đông một cách linh hoạt và khoa học.
● Trước giờ hoạt đông kể chuyện: Tơi cho trẻ xem đồ vật thật.
Ví dụ: Trước khi tôi kể câu chuyện “Cây táo” tôi cho trẻ quan sát quả táo thật và
giới thiệu với trẻ về quả táo nhờ vậy trẻ sẽ khắc sâu hơn, lâu hơn hình ảnh quả táo.
● Trong giờ hoạt động kể chuyện: Tơi cho trẻ quan sát mơ hình câu chuyện tơi
đang
kể.
Ví dụ: Tơi cho trẻ quan sát mơ hình câu chuyện “Cháu chào ơng ạ”
Từ mơ hình này sẽ giúp trẻ nhận ra các nhân vật trong truyện các tình tiết diễn ra
trong câu chuyện. Trẻ sẽ nhớ tên truyện, tên các nhân vật trong truyện. Cũng từ mơ
hình này sẽ gúp trẻ nhớ lâu hơn nội dung câu chuyện. Do vậy, trẻ biết tập kể lại câu
chuyện
cùng
cơ
một
cách
rõ
ràng
lưu
lốt.
● Sau hoạt đơng kể chuyện: Tơi treo tranh, hình ảnh các nhân vật có trong câu
chuyện
trẻ
vừa
học
ở
xung
quanh
lớp.
Ví dụ: Trẻ vừa được nghe và tập kể lại câu truyện “ Con cáo” cùng cô.
Khi treo tranh, ảnh các con vật cáo gà, cún con, mèo con . Trẻ dễ dàng nhận ra tên
các các con vật mà trẻ vừa học. Trẻ biết gọi tên các con con vật có trong câu
chuyện đó nhờ vậy mà trẻ sẽ nhớ lâu hơn khắc sâu hơn câu chuyện trẻ vừa học.
3.3. Thay đổi hình thức giới thiệu bài gây hứng thú cho trẻ.
- Mục đích: Để tránh sự nhàm chán cho trẻ, tôi luôn thay đổi hình thức giới thiệu
bài
để
gây
được
hứng
thú
nhiều
hơn
cho
trẻ.
Nội
dung
và
cách
thức
thực
hiện:
+ Tùy thuộc và nội dung bài dạy mà tôi lựa chọn các cách gây hứng thú cho trẻ
một cách linh hoạt nhẹ nhàng. Tơi có thể dùng rối, tranh, ảnh, bài hát, câu đố, mơ
hình....
● Sử
dụng
mơ
hình:
Ví dụ: Trong chủ đề “Cây và những bông hoa đẹp” tên bài dạy là kể chuyện “ Cây
táo” Tôi sẽ sử dụng mơ hình vườn cây ăn quả để gây hứng thú và dẫn dắt trẻ vào
bài
.
Hình
ảnh
minh
họa:
● Sử
dụng
bài
hát:
Cịn khi ở chủ đề “Các con vật đáng yêu”, tên bài dạy kể chuyện “ Cá và chim” Tôi
sẽ cho trẻ hát bài “ Cá vàng bơi” để gây hứng thú cho trẻ.
● Sử
dụng
câu
đố
:
Sử dụng câu đố để gây hứng thú cho trẻ dẫn dắt trẻ vào câu truyện cũng là cách tơi
thường làm, để kích thích sự tị mị, suy nghĩ của trẻ.
Ví dụ: Ở chủ đề “ Các con vật đáng yêu”, tên bài dạy là “Vịt con lơng vàng” tơi
đọc
câu
đố
để
cho
trẻ
đốn
tên
con
vật.
(Con
gì
kêu
vít,
vít
Theo
mẹ
ra
bờ
ao
Chẳng
khác
mẹ
tí
nào
Cũng
lạch
bà
lạch
bạch)
Tổ chức hoạt động đa dạng dựa vào hoạt động trọng tâm .
Ví dụ: Khi trọng tâm là kể chuyện sáng tạo, tôi cho trẻ lựa chọn cho trẻ trang phục,
đồ dùng phù hợp với nội dung câu chuyện trẻ sẽ tập kể dựa theo hình thức khác
nhau.
● Sử
dụng
búp
bê,
rối:
Tôi đã sử dụng búp bê, rối để gây hứng thú cho trẻ và trẻ lớp tôi đã rất thích.
Ví dụ: Ở chủ đề “ Bé và những người thân yêu của bé”, tên bài dạy kể truyện “ Cả
nhà ăn dưa hấu” tôi đã sử dụng búp bê sách làn hoa quả đến thăm lớp.
● Sử
dụng
các
hình
ảnh
động
trên
máy
chiếu:
Ví dụ: Trong chủ đề “ Những con vật đáng yêu”, tên bài dạy kể truyện “ Cá và
chim” tôi gây hứng thú cho trẻ bằng cách cho trẻ đi thăm quan vườn bách thú với
những hình ảnh động của các con vật trên máy chiếu.
3.4.Trị
chuyện
để
có
giờ
kể
chuyện
hay.
* Mục đích: Để có giờ kể chuyện hay tơi ln giành thời gian tìm hiểu nghiên cứu
kỹ nội dung câu chuyện để tìm ra giọng kể phù hợp và đặt ra được hệ thống câu
hỏi
kích
thích
sự
hứng
thú
hoạt
động
của
trẻ.
*
Nội
dung
và
cách
thức
thực
hiện:
3.4.1.
Chuẩn
bị.
+
Nghiên
cứu
kỹ
nội
dung
,
tính
cách
nhân
vật.
+ Tìm
ngữ
diệu phù hợp để kể chuyện diễn
cảm
.
+
Tập
luyện
và
kể
thử.
● Nghiên
cứu
kỹ
nội
dung
,
tính
cách
nhân
vật.
- Trước khi kể cho trẻ nghe câu chuyện gì. Giáo viên phải nghiên cứu kỹ nội dung
câu chuyện và tính cách của từng nhân vật trong câu chuyện mà cô sẽ kể cho trẻ
nghe. Khi cơ đã hiểu được tính cách của từng nhân vật trong từng câu chuyện thì
khi cơ kể chuyện sẽ làm cho câu chuyện hấp dẫn hơn.
Ví dụ: Trong câu chuyện “ Thỏ con khơng vâng lời”, tính cách của thỏ con: Ham
chơi
không
vâng
lời
mẹ.
*Tìm ngữ diệu phù hợp để kể chuyện diễn cảm .
Khi đã tìm hiểu kỹ nội dung, tính cách của từng nhân vật trong câu chuyện thì giáo
viên cần phải tìm ngữ điệu cho từng nhân vật trong câu chuyện đó phù hợp để khi
kể
câu
chuyện
đó
được
diễn
cảm
hơn.
Ví
dụ:
Trong
câu
chuyện
“
Chú
vịt
xám”
+
Giọng
người
dẫn
chuyện:
Đầm
ấm,
nhẹ
nhàng
+
Giọng
của
vịt
mẹ:
Nhẹ
nhàng,
dịu
dàng
+
Giọng
của
vịt
con:
Sợ
hãi
+
Giọng
con
cáo:
Gian
ác
● Tập
luyện
và
kể
thử.
Khi đã tìm hiểu kỹ nội dung, tính cách, ngữ điệu của các nhân vật trong câu
chuyện mà cơ sẽ kể thì cơ cần tập luyện và kể thử nhiều lần trước khi kể chuyện
cho trẻ nghe. Thông qua việc kể thử, kể lại nhiều lần cơ sẽ diễn đạt và thể hiện tính
cách
của
các
nhân
vật
một
cách
rõ
nét
hơn.
3.4.2.
Khi
kể.
- Khi kể, kể lưu loát bằng giọng cao thấp quấn hút trẻ vào bài.
Ví dụ: Khi kể câu chuyện “ Dê con thích húc” giọng người dẫn chuyện thấp hơn
so
với
giọng
các
nhân
vật
trong
truyện.
+
Giọng
của
dê
con
:
Thách
thức
+ Giọng của bác gà trống tây: Nghiêm túc, trịnh trọng
+
Giọng
của
lợn
con:
Khó
chịu
+
Giọng
của
bác
cừu:
Mệt
mỏi
+
Giọng
của
chó
con:
Tinh
nghịch,
lém
lỉnh
- Cơ kể kết hợp giảng giải nội dung câu chuyện: Khi cô kể xong câu chuyện lần 1
để trẻ khắc sâu nội dung câu chuyện cô đặt câu hỏi đàm thoại kết hợp giảng giải
nội
dung
câu
chuyện.
Ví dụ: Trong câu chuyện “Em bé dũng cảm” cơ cần có hệ thống câu hỏi như sau:
+
Ai
đến
trường
tiêm
phịng
dịch
cho
các
bé?
+
Bạn
Huy
đã
nấp
vào
đâu?
+
Các
bạn
nhỏ
hỏi
cơ
giáo
như
thế
nào?
+
Cơ
giáo
nói
gì
với
các
bạn?
+
Ai
là
người
xung
phong
vào
tiêm
đầu
tiên?
+
Bạn
Minh
đã
nói
gì?
+
Bạn
nào
vào
tiêm
thứ
hai?
+
Bạn
An
thấy
thế
nào?
+
Bạn
Lan
Chi
tiêm
có
thấy
sợ
khơng?
+
Lúc
này
bạn
Huy
đã
làm
gi?
- Động viên trẻ làm động tác theo cơ, tập kể lại câu chuyện cùng cô.
Khi trẻ đã hiểu được nội dung câu chuyện. Cô khuyến khích trẻ làm động tác và
tập
kể
lại
câu
chuyện
cùng
cơ.
Ví
dụ:
Trong
câu
chuyện
“
Dê
con
thích
húc”.
+ Bắt chước động tác của dê: Trẻ đưa hai ngón tay trỏ lên đầu, người hơi cúi( Động
tác
húc)
+ Bắt chước giọng điệu: Khi kể đến bác gà trống tây. Cơ nói giọng trịnh trọng để
trẻ
bắt
chước
theo.
3.5. Khai thác kiến thức của các môn học khác hỗ trợ cho hoạt động kể chuyện.
- Mục đích: Để giờ kể chuyện được hấp dẫn và góp phần phát triển ngơn ngữ cho
trẻ thì việc kết hợp các lĩnh vực phát triển cũng được xác định là một yếu tố không
thể
thiếu
trong
hoạt
động
học.
Nội
dung
và
cách
thức
thực
hiện:
+ Lĩnh vực phát triển thẩm mỹ: Âm nhạc hoạt động bổ trợ đề tài: Câu chuyện :
“Đôi
bạn
nhỏ”
cho
trẻ
hát
bài
hát
“Đàn
vịt
con”.
+ Lĩnh vực phát triển thể chất ( Làm động tác minh họa của các nhân vật trong câu
chuyện ) .Ví dụ: Trong câu chuyện “ Con cáo” cô cho trẻ làm động tác “ Cáo vồ
mồi”
và
cho
trẻ
làm
theo.
+ Lĩnh vực phát triển nhận thức: Hoạt động nhận biết: Trong câu chuyện “ Cây
táo”, “ Quả thị” trẻ nhận biết màu sắc: Biết quả táo khi chín có màu đỏ, khi chưa
chín có màu xanh. Quả thị khi chưa chín có màu xanh, khi chín có màu vàng. Trẻ
nhận
ra
quả
thị
và
quả
táo
có
dạng
hình
trịn.
3.6.
Tổ
chức
ơn
luyện
ở
mọi
lúc
mọi
nơi.
- Mục đích: Góp phần củng cố các kiến thức đã học, đồng thời rèn kỹ năng phát
triển
ngơn
ngữ
cho
trẻ
Nội
dung
và
cách
thức
thực
hiện:
+ Giờ đón trẻ: Cơ cho trẻ quan sát tranh, ảnh một số câu chuyện trong chủ đề.
Ví dụ: Trong chủ đề “ Cây và những bông hoa đẹp” Cơ cho trẻ quan sát hình ảnh
quả táo, quả thị để cho trẻ làm quen trước khi tìm hiểu câu chuyện.
+ Giờ ngủ: Cô kể cho trẻ nghe câu chuyện hay, nhẹ nhàng để trẻ dễ dàng đi vào
giấc
ngủ.
Ví dụ: Câu chuyện “ Thỏ ngoan” “ Khỉ con biết vâng lời’ “ Chú gấu con ngoan”
+
Hoạt
động
góc:
Góc sách - truyện: Cơ cho trẻ xem tranh chuyện trong chủ đề.
Góc phân vai: Cơ cho trẻ tập đóng vai trong câu chuyện.
Ví dụ: Đóng vai mẹ con trong câu chuyện “ Chú gấu con ngoan”.
Góc hoạt động với đồ vật: Cơ cho trẻ xếp nhà, xếp đường đi cho thỏ.
+ Hoạt động ngoài trời: Cho trẻ quan sát cây thị, cây táo để trẻ nhận biết tên gọi
đặc
điểm
của
cây,
quả.
+ Giờ trả trẻ: Cô cho trẻ xem ti vi các câu chuyện có trong chủ đề.
3.7. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền với phụ huynh.
- Mục đích: Giúp phụ huynh hiểu rõ kiến thức phát triển ngơn ngữ thơng qua giờ
kể chuyện, từ đó tạo sự thống nhất giữa nhà trường, giáo viên và phụ huynh trong
việc
rèn
trẻ.
Nội
dung
và
cách
thức
thực
hiện:
+ Làm bản tin về chương trình dạy theo chủ đề trong tuần để phụ huynh biết và
phối kết hợp với giáo viên rèn thêm cho trẻ ở nhà.
+ Vận động phụ huynh hỗ trợ vật liệu, nguyên liệu như: giấy, sách, những lọ nhựa,
quần
áo
cũ,
vải
vụn
...
+ Tôi trao đổi và vận động phụ huynh cố gắng dành thời gian để tâm sự với trẻ và
lắng nghe trẻ nói, khi trị chuyện với trẻ phải nói rõ ràng mạch lạc, tốc độ vừa phải
để trẻ nghe cho rõ, cha mẹ người thân phải cố gắng phát âm đúng cho trẻ bắt
chước.
+ Khuyến khích phụ huynh cung cấp kinh nghiệm sống cho trẻ. Tránh khơng nói
tiếng địa phương, cần tránh cho trẻ nghe những hình thái ngơn ngữ khơng chính
xác.
Tun truyền dưới hình thức: bảng tuyên truyền đẹp, thay đổi nội dung và hình
thức phù hợp với chủ đề. Ví dụ: Chủ đề: Thế giới thực vật, tết và mùa xuân, bảng
tun truyền có những hình ảnh về tết và mùa xuân, câu thơ, câu truyện, bài hát,
đồng dao ... có tổ chức giao lưu giữa lớp với phụ huynh.
Tuyên truyền bằng truyền thanh, đài phát thanh có nội dung theo chủ đề, những
câu truyện hấp dẫn vào giờ đón, trả trẻ để các cháu và phụ huynh được nghe.
Tuyên truyền góc chơi đặc biệt góc học tập, thường thay đổi tranh ảnh để lơi cuốn
trẻ, giáo viên tích cực giao lưu với phụ huynh vào giờ đón và trả trẻ trao đổi về trẻ
trong khi kể chuyện đọc truyện trò truyện giúp cho trẻ phát triển ngôn ngữ mạch
lạc
.
4.
Kết
quả
nghiên
cứu
4.1.
Kết
quả
nghiên
cứu
- Áp dụng những kinh nghiệm giảng dạy như trên đối với môn kể chuyện. Qua các
giờ học tôi thấy các cháu rất hứng thú, rất thích nghe kể chuyện. Thơng qua đó mà
việc
phát
triển
ngơn
ngữ
đạt
hiệu
quả
cao.
- Trong khi nghe kể chuyện, kể lại chuyện và trả lời các câu hỏi của cô. Vốn từ của
trẻ được tăng lên rất nhiều đồng thời trẻ biết sử dụng các loại câu phong phú và đa
dạng.
Sau một năm áp dụng phương pháp mới này kết quả giảng dạy của tôi đã được
nâng lên rõ rệt, cụ thể như sau:
Trung
Tốt
Khá
Yếu
bình
Xếp Số % Số % Số % Số %
loại lượng lượng lượng lượng
Tổn
20 9
458
403
150
0
- Trước đây khi tôi chưa sử dụng phương pháp này thì số trẻ số trẻ đạt như sau:
+
Số
trẻ
xếp
loại
tốt
là
4
chiếm
20%
+
Số
trẻ
xếp
loại
khá
là
6
chiếm
30%
+
Số
trẻ
xếp
loại
trung
bình
là
4
chiếm
20%
+
Số
trẻ
xếp
loại
yếu
là
6
chiếm
30%
- Sau khi áp dụng “phương pháp cho trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động
kể chuyện” số trẻ tôt và khá đã tăng lên, số trẻ trung bình, yếu đã giảm xuống một
cách
rõ
rệt
cụ
thể
như
sau.
+ Số trẻ xếp loại tốt là 9 chiếm 45% : Đã tăng lên 25% so với trước
+ Số trẻ xếp loại khá là 8 chiếm 40%: Đã tăng lên 10% so với trước
+ Số trẻ xếp loại trung bình là 3 chiếm 15% : Đã giảm xuống 5% so với trước
+
Khơng
cịn
trẻ
yếu,
kém.
- Trẻ đạt loại tốt là những trẻ đã biết nghe hiểu lời nói, nghe nhắc lại các âm và các
tiếng trong câu sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp thành thạo. Trẻ nói được câu đơn
câu có 5 - 7 tiếng. Sử dụng lời nói với các mục đích khác nhau. Nói to, đủ nghe, lễ
phép.
- Trẻ xếp loại khá là những trẻ biết nghe hiểu lời nói, nghe nhắc lại các âm và các
tiếng trong câu sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp thành thạo. Trẻ nói được câu có 4-5
tiếng.
- Trẻ xếp loại trung bình là những trẻ biết nghe hiểu lời nói. Nghe nhắc lại các âm
các tiếng và các câu. Trẻ phát âm cịn ngọng . Khi sử dụng ngơn ngữ để giao tiếp.
Trẻ
chỉ
nói
được
câu
đơn
câu
có
2-3
tiếng.
4.
2. Bài
học
kinh
nghiệm.
Muốn giúp trẻ từ 24 tháng đến 36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ thông qua giờ kể
chuyện tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:
1. Nắm vững đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của trẻ để có biện pháp giáo dục phù
hợp. Vận dụng cấc biện pháp giáo dục mọi lúc, mọi nơi. Chú ý đến trẻ cá biệt, luôn
tạo
ra
niềm
tin,
sự
hứng
thú
cho
trẻ.
2. Cần phát huy tính tích cực, thu hút sự chú ý và tạo hứng thú cho trẻ bằng các thủ
thuật
như
trò
chơi,
câu
đố,
thơ,
hát,
hò,
vè....
3. Đầu tư thời gian để nghiên cứu kĩ đề tài để có các phương pháp dạy học cụ thể,
phù
hợp
và
đạt
hiệu
quả
tốt
nhất.
4. Trước khi thực hiện một đề tài phải chuẩn bị chu đáo đồ dùng trực quan cũng
như gợi mở kiến thức cho trẻ. Thông qua các hoạt động ở mọi lúc, mọi nơi nhằm
phát
triển
ngôn
ngữ
cho
trẻ.
Phần
III.
KẾT
LUẬN
,
KIẾN
NGHỊ
1.
Kết
luận.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 -36 tháng tuổi thông qua bộ môn làm quen văn
học thể loại truyện kể là sự tổng hợp toàn bộ nội dung rèn luyện ngơn ngữ . Nói
mạch lạc chứng tỏ ngơn ngữ của trẻ đạt yêu cầu cao về mặt biểu hiện âm thanh, từ
diễn đạt, câu đúng ngữ pháp cũng như sự mạnh dạn tin tưởng trong giao tiếp.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở trường mầm non và đặc biệt là ở lứa tuổi nhà trẻ là
vấn đề rất quan trọng và cần thiết. Mức độ phát triển ngôn ngữ của trẻ còn tuỳ
thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Tôi nhận thấy việc rèn luyện và phát triển ngôn
ngữ cho trẻ là cả q trình liên tục và có hệ thống địi hỏi giáo viên phải kiên trì,
bền bỉ, khắc phục khó khăn để tìm ra phương tiện, điều kiện cần thiết cho sự phát
triển toàn diện của các cháu, hơn nữa cô giáo là người gương mẫu để trẻ noi theo.
Điều này đã góp phần bồi dưỡng thế hệ măng non của đất nước, thực hiện mục tiêu
của
ngành.
Qua quá trình nghiên cứu và áp dụng đề tài trong q trình giảng dạy tơi đã rút ra
một
số
kết
luận
sau:
- Để đạt được hiệu quả tốt nhất cho việc phát triển ngôn ngữ của trẻ thông qua hoạt
động kể chuyện, tôi đã sử dụng linh hoạt các biện pháp sau trong quá trình giảng
dạy:
Một
là,
sưu
tầm
làm
đồ
dùng
đồ
chơi
Hai
là,
sắp
xếp
tạo
mơi
trường
Ba là, thay đổi hình thức giới thiệu bài gây hứng thú cho trẻ
Bốn
là,
trị
chuyện
để
có
giời
kể
chuyện
hay
Năm là, khai thác kiến thức của các môn học khác hỗ trợ cho hoạt đông kể chuyện
Sáu
là,
tổ
chức
ôn
luyện
ở
mọi
lúc
mọi
nơi
Bảy là, thực hiện tốt công tác tuyên truyền với phụ huynh
- Trẻ độ tuổi 24 -36 tháng khi nghe kể chuyện rất mau quên, không ghi nhớ lâu,
nên tơi phải tìm hiểu và đưa ra một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Để trẻ
ghi nhớ lâu hơn về câu chuyện và hiểu nội dung câu chuyện.
- Để phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong giờ kể chuyện giáo viên cần đầu tư về thời
gian nghiên cứu để lựa chọ nội dung truyện kể hay, chuẩn bị được nhiều đồ dùng
trực quan đẹp, hấp dẫn trẻ. Cô cần xác định được giọng kể phù hợp để gây hứng
thú cho trẻ nhiều, dạy trẻ kể đi kể lại nhiều lần giúp trẻ thực sự in dấu trong lịng
trẻ để đảm bảo cho trẻ được phát triển ngơn ngữ một cách toàn diện hơn.
2.
Kiến
nghị.
Để thực hiện tốt đề tài này, tôi và những người làm công tác giáo dục trực tiếp
giảng dạy ở những nơi có hồn cảnh khó khăn, phụ huynh chưa quan tâm nhiều
đến tình hình học tập của các cháu. Để trẻ 24-36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ
thông qua hoạt động kể chuyện ngày càng tốt hơn, hứng thú hơn, tôi rất mong các
cấp lãnh đạo quan tâm nhiều hơn nữa trong việc bổ sung thêm thiết bị, đồ dùng để
phục
vụ
cho
hoạt
động
kể
chuyện.
Trong q trình thực hiện đề tài này chắc chán khơng thể tránh khỏi những thiếu
sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của bạn đọc, các thầy cơ giáo, các nhà
quản lý giáo dục để đề tài này của tơi được hồn thiện hơn và rút kinh nghiệm cho
những lần sau và quá trình giảng dạy của bản thân sau này.
Tài
liệu
tham
khảo
1,
Sách
tâm
lý
trẻ
tuổi
mầm
non
2, Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới cho trẻ 24-36
tháng
tuổi
3,
Các
chuyên
san
về
giáo
dục
mầm
non
4,
Một
số
chuyên
đề
về
giáo
dục
mầm
non
5,
Các
chuyên
san
,
Báo
Giaó
Dục
và
Thời
đại
6,
Mạng
Internet