“ MỘT SỐ BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG TIẾNG VIỆT CHO TRẺ 24 – 36
THÁNG TUỔI”.
PHẦN 1 : MỞ ĐẦU
Lý do lựa chọn biện pháp
Hiện nay, ngôn ngữ được sử dụng trong hệ thống giáo dục quốc dân của
nước ta là Tiếng Việt. Vì vậy, việc tăng cường Tiếng Việt cho trẻ mầm non vùng
dân tộc thiểu số có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nhằm nâng cao khả năng sử dụng
Tiếng Việt của trẻ, đảm bảo cho trẻ có kỹ năng cơ bản trong việc sử dụng Tiếng
Việt, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
Việc sử dụng “song ngữ” trong quá trình dạy tiếng Việt cho trẻ là rất cần
thiết và mang lại hiệu quả rất lớn trong việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ dân tộc.
Ở những điểm trường dân cư sống không tập chung, việc bất đồng ngôn ngữ giữa
cô và trẻ, làm ảnh hưởng đến việc chăm sóc giáo dục trẻ.
Trẻ ở độ tuổi mầm non là tuổi học nói, những nhu cầu của trẻ thơng qua lời
nói để đến với người lớn, chính vì thế cung cấp Tiếng việt cho trẻ, nhất là trẻ người
dân tộc thiểu số là rất quan trọng. Phần đa trẻ dân tộc thiểu số thường hay dùng
tiếng mẹ đẻ để giao tiếp, nên khi đến lớp các cô giáo là người kinh, trẻ khơng biết
tiếng kinh nên trong qúa trình cơ giáo giảng dạy bằng Tiếng Việt thì trẻ rất khó tiếp
thu bài giảng cũng như những chỉ dẫn, khẩu lệnh của cô trẻ không hiểu để thực
hiện, trẻ trở nên nhút nhát, thụ động, thậm chí tự ti, mặc cảm, dẫn đấn khả năng
tiếp thu bài rất chậm. Bởi thế nên việc “tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc
thiểu số” là vấn đề quan trọng cần được ưu tiên hàng đầu.
- Bản thân tôi là giáo viên trực tiếp giảng dạy các cháu 24 – 36 tháng tuổi
trường MNCL xã Vĩnh Hà với số lượng trẻ phần đa là trẻ dân tộc Vân Kiều, các
cháu lên lớp đều nói bằng tiếng mẹ đẻ, khơng hiểu được tiếng Việt, vì trình độ dân
trí thấp nên bố mẹ các cháu chưa thực sự quan tâm đến việc việc học tập của con
em mình, cịn các cháu thì khơng hiểu tiếng việt nên các hoạt động trên lớp của
giáo viên thu hút được trẻ, trẻ chưa hiểu lời của cơ nói.
- Đứng trước thực trạng đó tơi rất băn khoăn, lo lắng khi các cháu dân tộc là
người dân tộc thiểu số đến lớp chưa biết nghe, nói và chưa hiểu tiếng kinh? Đó là
câu hỏi, là nổi lo lắng, băn khoăn mà hàng đêm tôi trăn trở, phần nữa là lương tâm
trách nhiệm của người giáo viên tôi không thể hàng ngày đến lớp hết giờ ra về mặc
cho các cháu với một hành trang trống rỗng khi bước lên độ tuổi Mẫu giáo. Vậy
nên bản thân tôi tự thấy mình cần tìm cách nghiên cứu, chọn lọc một số phương
pháp, biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc Vân Kiều trong lớp của tơi
biết nghe, nói và hiểu tiếng việt. Để các cháu mạnh dạn, hòa đồng với bạn, thích
thú đến lớp, vốn tiếng việt được tăng lên, biết giao tiếp bằng tiếng việt nên tôi chọn
đề tài “Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi”.
PHẦN 2 : NỘI DUNG
1. Đánh gía thực trạng
a. Thuận lợi
- Bản thân là giáo viên có trình độ chun mơn trên chuẩn, đã được tham gia
học lớp Bru – Vân Kiều. Với năng lực chuyên môn vững vàng, nhiệt tình u nghề
mến trẻ. Có khả năng tiếp thu những kinh nghiệm và với một số vốn nhỏ Tiếng Bru
– Vân Kiều của mình nên tơi đã vận dụng vào giảng dạy một cách linh hoạt, có
nhiều ý tưởng, ln mong muốn có những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục trong nhà trường đó là một thuận lợi lớn trong việc thực hiện đề tài.
- Bản thân cũng được đứng lớp với giáo viên là người Vân Kiều nên rất thuận
tiện trong việc giao tiếp.
- Lớp học rộng rãi, thống mát đảm bảo cho cơng tác chăm sóc giáo dục trẻ,
trang trí lớp đẹp theo hướng mở, phù hợp với độ tuổi của trẻ.
- Bản thân đã ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy.
- Trẻ trong lớp có cùng độ tuổi, sĩ số học sinh đảm bảo phù hợp với điều kiện
của lớp và nhà trường, tuy là độ tuổi nhà trẻ nhưng tỉ lệ chuyên cần của trẻ luôn đạt
ở mức cao.
- Trường được xây dựng ở gần khu dân cư thuận tiện cho việc đi học của học sinh.
Có đầy đủ đồ dùng, trang thiết bị cho trẻ hoạt động trong lớp và ngồi trời.
b. Khó khăn
- 77% học sinh trong lớp là dân tộc Vân Kiều nên việc giao tiếp giữa cơ và trẻ,
giữa trẻ với trẻ cịn bất đồng về ngơn ngữ.
- Vì là lớp độ tuổi nhà trẻ nên trẻ mới bắt đầu ra lớp và cũng là lúc trẻ bắt đầu
làm quen với ngôn ngữ tiếng Việt.
- Nhiều phụ huynh chưa thành thạo Tiếng Việt và chưa chú trọng vào việc dạy
Tiếng Việt cho trẻ tại gia đình.
- Đồ dùng phục vụ cho hoạt động dạy ngơn ngữ tiếng Việt cho trẻ chưa phong
phú đa dạng, chưa có sự đầu tư và chưa có sự sáng tạo.
- Đối với trẻ mới ra lớp ngơn ngữ nói tiếng việt của trẻ còn hạn chế trẻ chậm
chạp, nhút nhát, chưa tự tin.
* Bảng1: Khảo sát ngôn ngữ tiếng việt của trẻ trước khi áp dụng đề tài
Nội dung
Kết
quả
khảo sát
Trẻ nói thành thạo tiếng Việt
0/13 =
0%
Trẻ hứng thú tham gia vào hoạt động học và 3/13 = 23%
trị chuyện cùng cơ.
Trẻ nghe và hiểu một số yêu cầu của cô: Đứng
4/13 =
lên, ngồi xuống, đi ra ngoài, vào lớp, đi vệ 31%
sinh,...
Trẻ biết một số từ đơn giản trong giao tiếp
4/13 =
diễn đạt những yêu cầu, mong muốn của 31 %
bản thân như chào hỏi, mời cô và các bạn
ăn cơm, bày tỏ nhu cầu muốn đi vệ sinh,
uống nước, chơi cùng các bạn....
Đọc các đoạn thơ, bài thơ ngắn có câu 3 – 4
0/13 =
tiếng, kể lại truyện được nghe nhiều lần có 0%
gợi ý.
Trẻ tự tin thể hiện, chao đổi trị chuyện
0/23 =
cùng cơ hay người lạ
0%
2. Biện pháp thực hiện
Biện pháp 1 : “Tạo hứng thú cho trẻ đi học chuyên cần”.
- Các cháu nhà trẻ lần đầu tiên đến lớp rất bỡ ngỡ, phải rời xa vòng tay ba
mẹ để đến tiếp xúc với môi trường mới “trường Mầm Non”. Rất lạ lẫm nên những
ngày đầu trẻ rất khó để thích nghi, rồi ngơn ngữ tiếng việt của các cháu thì hạn chế,
các cháu chưa hiểu Tiếng Việt. Bố mẹ đưa đến lớp các cháu cịn khóc nhè địi về,
cơ dỗ cháu khơng hiểu tiếng kinh, nên khơng nín. Chính vì lẽ đó, bằng tình u
thương, nhiệt tình, một chút kinh nghiệm sẵn có của mình tơi ơm trẻ vào lịng, xoa
đầu và ân cần, thì thầm với trẻ vài tiếng dân tộc bảo (ngoan cơ thương/……nín
đi/ ngững tập, chơi đồ chơi cùng cơ nhé/….: con hãy Nín đi /ngững tập, chiều
bố mẹ đón về/pĩ pơ cởi, đi tiểu/ clum, im lặng/ choi ta bồ, ăn cơm/ cha đơi, uống
nước/ ngoại đỡ…” để từ đó trẻ có thể nói những câu đơn giản cùng cơ cả cơ và trị
đều hiểu trẻ khơng cịn cảm thấy lạ lẫm khi tiếp xúc gần cô.
(hình ảnh minh họa mẹ đưa cháu đến lớp)
- Tơi thường xuyên tạo và thay đổi nhiều hoạt động, chơi xong cái này tôi sẽ
bày cho trẻ chơi cái khác và tôi không quên xen kẽ các cháu người kinh, các cháu
mạnh dạn để chơi cùng cháu nhút nhát. Đến cuối buổi học thời điểm bố mẹ các
cháu sắp đến đón cháu về tơi lấý những món đồ chơi mới ra và tơi nói: Nhưng giờ
đã đến giờ bố mẹ các con đón về rồi vậy sáng mai các con nhớ bảo bố mẹ đưa đến
lớp sớm để cùng chơi với cơ nhé…
Hình ảnh cơ đang chơi cùng trẻ
- Cứ thế và kết quả thật đáng ghi nhận là các cháu sau 2 tuần đến lớp đã
khơng khóc nữa, qua trị chuyện với phụ huynh tơi được biết trẻ về nhà khơng cịn
sợ phải đến lớp như trước nữa mà cháu thích thú khi bố, mẹ chuẩn bị chở đi học,
khơng cịn địi q bánh trước khi vào lớp, đến lớp cháu biết chào cô đi cất đồ dùng
cá nhân đúng chỗ và vào chơi cùng các bạn một cách hịa đồng.
Hình ảnh cháu đến lớp khơng khóc và rất vui vẻ để cơ đón vào lớp.
Biện pháp 2 : “Tăng cường tiếng việt cho trẻ qua các môn học”
- Đầu năm học tôi lên kế hoạch năm, tháng và đặc biệt là cụ thể vào kế
hoạch tuần những nội dung tăng cường tiếng việt cho trẻ qua các môn học cụ thể
tơi có kế hoạch hàng ngày từ thứ 2 đến thứ 6 mỗi ngày tôi tăng cường cho trẻ 2 - 4
từ mới đồng thời trẻ được ôn luyện lại vốn từ cũ một cách thường xuyên.
- Khi tổ chức hoạt động tôi đã mời các cháu người đồng bào tham gia vào
các hoạt động. Tuy kết quả chưa được như mong đợi, nhưng so với trước đây trẻ đã
nghe và hiêu cơ giáo nói và làm theo u cầu của cơ giáo nhưng vẫn cịn bỡ ngỡ,
chưa thật tự tin, mạnh dạn. Tôi luôn băn khoăn làm sao các cháu thực sự hứng thú,
nghe hiểu và nói được Tiếng Việt để các cháu tiếp thu bài một cách tốt hơn.
Ví dụ: Xây dựng kế hoạch tuần có nội dung tăng cường tiếng việt cụ thể
Chủ đề nhánh: Tơi là ai?
Ví dụ : Tăng cường tiếng việt cho trẻ qua mơn học nhận biết tập nói
- Trẻ tuổi nhà trẻ 24 – 36 tháng có thể là trẻ ít nói, chậm nói hoăc chưa biết
nói. Mà mơi trường giao tiếp của trẻ ở nhà là sử dụng tiếng mẹ đẻ, nên việc dạy
cho trẻ tập nói Tiếng Việt gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, ngồi việc giáo viên có
một kỹ năng sư phạm tốt cần cho trẻ được trải nghiệm, học hỏi thơng qua các hình
ảnh, mơ hình trực quan… tùy vào từng đề tài tơi chuẩn bị tranh ảnh động đẹp mắt,
đa dạng để thu hút trẻ tập trung chú ý kết hợp cho trẻ gọi tên hình ảnh trong tranh.
Tơi ưu tiên những cháu dân tộc được gọi tên trước, cho các cháu đọc theo cô, tôi
tăng cường và cho trẻ nói theo tơi từ đó.
Ví dụ: Khi dạy trẻ nhận biết “con gà” tôi chuẩn bị con gà mô phỏng (hay
tranh), khi nhìn thấy con gà thì trẻ Vân Kiều nhìn thấy thì sẽ nói là con Tri, vào
thời điểm ấy tôi sẽ nhấn mạnh con Truôi hay là con gà, và cho trẻ đọc từ “con gà”
cùng cô nhiều lần.
Hình ảnh cơ đang dạy tiết nhận biết tập nói : con gà
Ví dụ: Tăng cường tiếng việt cho trẻ qua môn học làm quen văn học:
- Đối với trẻ nhà trẻ 24- 36 tháng tuổi môn văn học là môi trường, là cơ hội
cho trẻ tiếp xúc với nhiều nhân vật trong thơ, chuyện…qua tên các nhân vật trẻ
được gọi tên, được đọc, được thể hiện lời thoại ngắn…và được phát triển ngơn
ngữ, với đặc điểm tình hình trẻ lớp tôi phần đông là học sinh người dân tộc Vân
Kiều nên mỗi lúc lên kế hoạch tôi đã chú ý tới việc lựa chọn những bài thơ, câu
chuyện ngắn phù hợp với nhà trẻ, nội dung dễ hiểu, nhân vật gần gũi với trẻ vì vốn
từ cũng như thời gian tập trung chú ý của các cháu không được như những trẻ
người kinh, khi lên tiết tôi luôn tạo tình huống bất ngờ để thu hút trẻ trẻ tập trung
chú ý, khơi gợi ở trẻ tính tị mị dể tạo tâm thế cho trẻ trước khi vào học. Trước lúc
vào giờ học tơi trị chuyện dẫn dắt trẻ bằng những câu hỏi gần gũi, thân thiện vào
bài một cách nhẹ nhàng không gây áp lực cho trẻ, trong q trình đọc, kể tơi
thường dừng lại trực tiếp ở những câu, từ khó để giải thích cho trẻ hiểu ngay trong
q trình tơi đọc một cách kịp thời, kết hợp tranh, ảnh, đồ dùng trực quan để giải
thích là một cách làm tơi thấy rất hiệu quả, ngồi ra tôi không quên phối hợp các
động tác minh họa đơn giản phù hợp, và tôi cho trẻ thực hiện động tác minh họa
cùng với cơ nhằm lơi cuốn, khích lệ trẻ chăm chú lắng nghe, để lĩnh hội từng câu,
từng lời của cô mà không bị mệt mỏi, uể oải, có thể nói đó là chất xúc tác, tiếp sức
cho các cháu một cách hiệu quả.
Ví dụ (có hình ảnh minh họa): Khi tôi kể câu chuyện “đôi bạn nhỏ” tơi cho
trẻ xem mơ hình mơ phỏng câu chuyện, tơi hỏi trẻ có những con vật gì, sau đó tơi
sẽ giới thiệu vào nội dung câu chuyện. Đến đoạn lời thoại “Chiếp ! chiếp! chiếp”
tơi cho trẻ nói và làm điệu bộ hoảng sợ trẻ rất thích. Khi đã lơi cuốn được sự chú ý
của trẻ tôi tiến hành các công việc tiếp theo và không quên gọi những cháu dân tộc
đọc từ, đọc câu với nhiều hình thức như là tôi đố trẻ, nhờ trẻ, gợi ý cho trẻ, cho trẻ
nói tiếp…và tất nhiên là sử dụng những câu từ gần gũi, cụ thể để giảng nội dung
câu chuyện một cách ngắn gọn để trẻ có thể tiếp thu một cách nhẹ nhàng. Tôi tăng
cường cho trẻ một số từ như : bạn/dâu; kiếm ăn/pỡ chi cha; tìm giun/ch ra lui;
mò ốc/ chũa clo
Hình ảnh cơ đang kể câu chuyện “đơi bạn nhỏ”
* Biện pháp 3 “Tăng cường tiếng việt cho trẻ qua hoạt động vui chơi”
- Vui chơi là trẻ được tái tại lại những hành động, việc làm lời nói của người
lớn ở mơi trường xã hội bên ngồi vào trong các góc chơi của trẻ, ở đây thành phần
trẻ được thể hiện, giao tiếp rất đa dạng và phong phú nên chính ở mơi trường này
ngơn ngữ của trẻ được cung cấp nhiều hơn, trẻ được thoải mái thể hiện mình qua
vai chơi. Tận dụng thời gian này tơi đã thực hiện ý đồ tăng cường tiếng việt cho trẻ
dân tộc bằng cách: tôi làm nhiều đồ chơi ở các góc, tạo mơi trường mới lạ, đẹp mắt
thu hút sự hứng thú của trẻ, cho trẻ được tự chọn góc chơi, vai chơi…
hình ảnh trẻ đang chơi ở góc phân vai. Khi trẻ chơi, cô đến bên cạnh và
hỏi trẻ, nếu trẻ khơng hiểu câu hỏi bằng Tiếng Việt thì tơi sẽ giải thích lại câu
hỏi bằng Tiếng Vân Kiều (con chơi gì/ngoại lõi trẩu, cho em ăn/jon rơ mon cha;
nấu ăn/tả cha; ru em ngủ/a riên em bế
- Khi các cháu chơi thì tơi hướng dẫn các cháu giao tiếp với các bạn bằng
Tiếng Viêt. Hoạt động vui chơi của trẻ là hoạt động diễn ra thường xuyên trong q
trình trẻ đến lớp nên đây chính là thời điểm tốt nhất để trẻ được tiếp thu, tăng
cường vốn từ tiếng việt với phương châm “Mưa dầm thấm lâu” song hành với việc
trẻ chơi tôi kết hợp tăng cường tiếng việt cho trẻ, với trẻ đây là lúc trẻ thoải mái thể
hiện bản thân, thể hiện vốn có của mình, với cô đây là thời điểm thuận lợi để nắm
bắt tình hình, thực tế sử dụng ngơn ngữ của các cháu nên việc cung cấp ngôn ngữ ở
hoạt động vui chơi rất hiệu quả.
Biện pháp 4 : “Tăng cường tiếng việt cho ở mọi lúc, mọi nơi”
- Hoạt động mọi lúc, mọi nơi là hoạt động theo ý thích của trẻ là lúc thích
hợp để giáo viên quan sát trẻ một cách chính xác nhất, qua thời gian này giáo viên
theo dõi và nhận biết được mức độ ngôn ngữ của từng trẻ.
Ví dụ : Vào đầu năm học khi đến lớp các cháu Vân Kiều khi cô gọi đi vệ
sinh (bưng ghế/ a cả ghế, uống nước/ngọai đỡ, ăn cơm/ cha đơi, đi ngủ/ bễ,
vào lớp/chu…) thì cháu khơng hiểu, nhưng cơ vừa dắt cháu đi vừa nói Tiếng Việt
kết hợp tiếng mẹ đẻ với cháu thì sau một thời gian ngắn các cháu đã hiểu được lời
nói và thực hiện theo u cầu của cơ.
+ Trong giờ đón trẻ tơi ln vui vẻ, trị chuyện thân thiện với trẻ sửa sang
quần áo, chải tóc cho trẻ và khơng quên kèm theo những câu hỏi giao lưu
như: sáng nay ai chở con đi học?/ tơ ruwp nay nao đưng pở a riêng?; áo này ai
mua?/ ạo nay nao chơng?; áo con có màu gì?/ a jo mây mau trâu?; nhà con có
ni nhưng con gì?/dơng may a băn tơ răn trâu?; con gà ăn gì?/ tri cha trâu?
Ví dụ : qua các cuộc trị chuyện như thế tôi đã biết được khả năng phát âm
của từng trẻ, qua đó tơi đã dành nhiều thời gian giúp trẻ phát âm đúng, cung cấp
thêm vốn từ cho trẻ, tạo cơ hội cho trẻ tiếp xúc và mạnh dạn tự tin hơn bằng cách:
+ Dẫn trẻ đi dạo chơi, tham quan, đến các góc trị chuyện và phát âm các từ
chỉ sự vật, hiện tượng xung quanh như cỏ cây, hoa lá, thời tiết nóng lạnh,
+ Những buổi đầu của một chủ đề mới tôi tạo môi trường lớp học khác lạ
cho trẻ vừa đến lớp là đã nhận ra sự thay đổi của lớp học, tôi hỏi trẻ hơm nay con
thấy lớp mình có gì khác hơm trước trẻ phát hiện và tôi đã tạo ra một sự kiện để trị
chuyện với trẻ và mục đích làm cho trẻ mạnh dạn, hay nói, tự tin và tăng vốn từ lại
được phát huy, cứ như thế trẻ dân tộc lớp tôi, phát âm chuẩn hơn và mạnh dạn hơn
trong giao tiếp với cô, với bạn, bạn biết chỉ cho bạn chưa biết, hoặc mạnh dạn đến
hỏi cơ, từ đó trẻ khơng cịn rụt rè như trước nữa.
+ Ngồi ra trong giờ hoạt động ngồi trời, giờ trả trẻ tơi tăng cường cho trẻ
đọc đồng dao, ca dao để giúp trẻ phát âm thành thạo hơn, lưu loát hơn, tạo ra một
khơng khí thân thiện giữa cơ và trẻ, sự tin u, gần gũi đó chính là điều kích thích
cho trẻ thể hiện mình một cách tự tin bên cạnh đó tơi ln theo sát trẻ để kịp thời
sửa sai uốn nắn mỗi khi trẻ hỏi hoặc trả lời không có trọng tâm hay trẻ dùng tiếng
mẹ đẻ.
* Biện pháp 5 : “Kết hợp với phụ huynh để tăng cường tiếng việt cho
trẻ”
- Đây là nội dung tôi luôn chú trọng bởi dù ít dù nhiều phụ huynh nào cũng
muốn con em mình học hành tiến bộ. Đối với những trẻ nhỏ ở nhà chưa biết hát
biết múa bằng tiếng Việt nhưng sau một thời gian đến lớp trẻ biết hát, đọc thơ và
kể lại chuyện cho bố mẹ nghe về những bài học ở lớp bằng tiếng phổ thông. Từ đó
giáo viên ln nhận được sự phối kết hợp nhiệt tình của phụ huynh. Tơi thường
xun trao đổi với phụ huynh về tình hình học tập của trẻ, đặc biệt trao đổi về khả
năng nói tiếng Việt của trẻ, và yêu cầu phụ huynh dạy trẻ thêm tiếng Việt ở nhà:
Ví dụ: Hơm nay ở lớp cơ dạy cho trẻ nhận biết “con gà” thì tơi hướng dẫn phụ
huynh anh/chị về nhà hãy hỏi trẻ hôm nay cô dạy gì? Con gà có những đặc điểm
gì? Con gà thích ăn gì?....hay có thể hỏi trẻ những câu hỏi thơng thường : cơ của
con tên gì? Lớp con có những bạn tên gì? Đến lớp cơ cho con chơi đồ chơi gì?...
- Qua các cuộc họp phụ huynh giáo viên thông báo kết quả học của mỗi cháu
cho phụ huynh nắm và đặc biệt không quên cho phụ huynh biết khả năng tiếp thu
kiến thức bài học bằng ngôn ngữ Tiếng việt của mỗi cháu ra sao và từ đó thống
nhất với phụ huynh xây dựng nội quy của trường mầm non là “Tất cả mọi người
khi đến trường, lớp đều phải nói bằng Tiếng việt” và nhà trường rất mong phụ
huynh hợp tác trong việc cung cấp Tiếng việt cho trẻ thường xun ở nhà.
Ví dụ: Hơm nay cơ dạy bài thơ “dậy sớm”, khi phụ huynh đón trẻ cơ trao đổi
về nội dung bài học và gợi ý cho phụ huynh về nhà kiểm tra trẻ, khuyến khích trẻ
đọc thơ cho mẹ nghe
- Từ những lời nói ấy đã thúc đẩy phụ huynh quan tâm đến con em mình hơn,
chăm lo cung cấp vốn tiếng việt ở nhà cho trẻ nhiều hơn. Và trẻ lớp tơi cũng đã có
nhiều tiến bộ.
- Hiện nay thì cơng nghệ thơng tin đang phát triển, mạng xã hội đã được sử
dụng nhiều nên tôi đã Lập nhóm zalo, facebook trao đổi với phụ huynh các bài
học trên lớp để phụ huynh về nhà hướng dẫn thêm cho trẻ. Và có những vấn đề cấp
thiết thì tơi sẽ thơng tin nhanh lên nhóm để phụ huynh kịp thời nắm bắt.
PHẦN 3
Hiệu quả của việc áp dụng biện pháp trong thực tế tổ chức các hoạt động
tăng cường Tiếng Việt cho trẻ.
* Đối với giáo viên
- Qua q trình nghiên cứu nắm bắt đặc điểm ngơn ngữ của trẻ 24 – 36 tháng
tuổi tại vùng dân tộc thiểu số và có những định hướng và biện pháp tốt giúp tăng
cường Tiếng Việt cho trẻ.
- Đưa ra được nhiều hình thức giảng dạy linh hoạt nhằm mở rộng tiếng
Việt cho trẻ. Bản thân có thêm những kinh nghiệm trong giảng dạy với đối tượng
là trẻ dân tộc thiểu số, luôn được ban giám hiệu nhà trường và đồng nghiệp đánh
giá cao trong việc sáng tạo linh hoạt việc sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng
dạy.
* Đối với trẻ
- Qua các biện pháp trên tôi nhận thấy các cháu có nhiều chuyển biến rõ nét.
Trẻ đã hiểu được Tiếng Việt, đã hiểu những câu hỏi, yêu cầu của cô, gọi tên một số
đồ vật, sự vật gần gũi xung quanh trẻ bằng Tiếng Việt, đã chơi hòa đồng được với
bạn, đã giao tiếp được với bạn bằng Tiếng Việt.
* Đối với phụ huynh
- Đã hiểu được tầm quan trọng của Tiếng Việt đối với trẻ
- Phụ huynh về nhà đã giao tiếp với trẻ bằng Tiếng Việt nhiều hơn
- Phối hợp trao đổi thông tin cùng với giáo viên qua nhóm zalo, facebook để
hướng trẻ những bài học trên lớp mà trẻ chưa nắm rõ…
Bảng 2 : sau một thời gian áp dụng đề tài tôi thấy
Nội dung
Kết
khảo sát
quả
Trẻ nói thành thạo tiếng Việt
11/13 = 84%
Trẻ hứng thú tham gia vào hoạt
động học và trị chuyện cùng cơ.
11/13 = 84%
Trẻ nghe và hiểu một số yêu cầu
của cô: Đứng lên, ngồi xuống, đi ra
ngoài, vào lớp, đi vệ sinh,...
12/13 = 92%
Trẻ biết một số từ đơn giản trong
giao tiếp diễn đạt những yêu cầu, %
mong muốn của bản thân như
chào hỏi, mời cô và các bạn ăn
cơm, bày tỏ nhu cầu muốn đi vệ
sinh, uống nước, chơi cùng các
bạn....
12/13 = 92
Đọc các đoạn thơ, bài thơ ngắn
có câu 3 – 4 tiếng, kể lại truyện
được nghe nhiều lần có gợi ý.
12/13 = 92%
Trẻ tự tin thể hiện, chao đổi trị
chuyện cùng cơ hay người lạ
12/13 = 92%
PHẦN 4 : KẾT LUẬN
1. Ý nghĩa của biện pháp
- Tăng cường Tiếng Việt cho trẻ là một việc làm cần thiết và cần được ưu
tiên hàng đầu. Và tôi nhận thấy cần phải sáng tạo sáng tạo kết hợp với việc sử dụng
hợp lý nhuần nhuyễn các biện pháp trong quá trình giảng dạy và cung cấp vốn
tiếng Việt cho trẻ đã mang lại kết quả tương đối khả quan. Trẻ được học ngôn ngữ
thứ hai một cách nhẹ nhàng đặc biệt là những giờ học lại rất gần gũi với trẻ. Giúp
trẻ nắm bắt kiến thức một cách tốt hơn, trẻ hăng hái tham gia vào các hoạt động
học và vui chơi, trẻ tự tin hơn khi trao đổi trò chuyện cùng cô bằng tiếng Việt
- Cần tạo cho trẻ có nhiều cơ hội được học tiếng Việt với nhiều hình thức và
tình huống khác nhau góp phần phát triển ngơn ngữ thứ hai, hình thành sự tự tin,
tính sáng tạo, nhân cách cho trẻ.
- Qua các biện pháp này giúp giáo viên biết lựa chọn những biện pháp để
tăng cường tiếng Việt cho trẻ một cách hiệu quả nhất.
2. Kiến nghị, đề xuất
* Đối với PGD & ĐT
- Tơi mong rằng Phịng GD& ĐT thường xuyên tổ chức các buổi chuyên đề,
các lớp tập huấn về tăng cường tiếng việt cho trẻ dân tộc Vân Kiều để bồi dưỡng
về chuyên môn cho giáo viên để chất lượng tăng cường tiếng việt cuối năm đạt kết
quả tốt hơn.
* Đối với nhà trường
- Đầu tư cho lớp thêm về tài liệu giảng dạy, và những tài liệu có liên
quan đến lĩnh vực phát triển ngơn ngữ theo đối tượng vùng miền.
- Đầu tư thêm trang thiết bị dạy học
* Đối với phụ huynh
- Ngồi ra cịn cần có sự quan tâm của các bậc phụ huynh đến việc chăm
sóc, giáo dục trẻ và nhận thức về tầm quan trọng của việc tăng cường tiếng việt
cho trẻ.
Trên đây là một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ 24 – 36 tháng
tuổi tại trường MNCL xã Vĩnh Hà mà tôi đã áp dụng, rất mong được sự giúp đỡ
góp ý của ban giám khảo và chị em đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tac giả
Nguyễn Thị Thùy Linh