Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

(TIỂU LUẬN) quy luật cạnh tranh và liên hệ đến cạnh tranh của ngành sản xuất gạo ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.43 KB, 24 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

BÀI TẬP LỚN MƠN HỌC
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊNIN
ĐỀ TÀI

Quy luật cạnh tranh và liên hệ đến cạnh tranh của ngành sản xuất gạo ở
nước ta
LỚP: L01 NHÓM: 08
HK221
GVHD: THS. NGUYỄN TRUNG HIẾU
SINH VIÊN THỰC HIỆN
STT

MSSV

1
2
3
4
5

2013056
2115182
2110777
2014505
2112105

HỌ
Tạ Thanh


Nguyễn Thanh
Đỗ Gia
Nguyễn Phạm Phú
Trần Võ Lê

TÊN

%
ĐIỂM
BTL

Hào
Tuấn
Bảo
Thành
Quang

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM HỌC 2022 -2023

BÁO CÁO KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM

ĐIỂM
BTL

GHI
CHÚ


STT


Mã số
SV

1

2013056

2

2115182

3

2110777

4

2014505

5

2112105

Họ và tên

Tạ Thanh Hào

%
Điểm
BTL


Nhiệm vụ được
phân công

Điểm
BTL

Ký tên

Chương 1

Khái quát và
thực trạng của
ngành lúa nước
Những mặt tích
cực,
nguyên
Đỗ Gia Bảo
nhân
Những mặt tiêu
Phạm Nguyễn Phú
cực,
nguyên
Thành
nhân
Phương hương
Trần Võ Lê Quang
và giải pháp
Nguyễn Thanh
Tuấn


Họ và tên nhóm trưởng:..Tạ Thanh
Hào...............................................................................
Số ĐT: .0366263212..............................................Email:

Nhận xét của GV:
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
..........................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
..........................
GIẢNG VIÊN
(Ký và ghi rõ họ, tên)

NHÓM TRƯỞNG
(Ký và ghi rõ họ, tên)

Nguyễn Trung Hiếu

Tạ Thanh Hào


Mục lục
Mở đầu..................................................................................................................4
1.
Tính cấp thiết của đề tài..........................................................................4
2.
Đối tượng nghiên cứu..............................................................................4
3.

Phạm vi nghiên cứu.................................................................................4
4.
Mục tiêu nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu...............................4
5.
Kết cấu......................................................................................................5
Nội dung...............................................................................................................6
Chương 1: Quy luật cạnh tranh.........................................................................6
1.1. Các khái niệm cơ bản...................................................................................6
1.2. Nội dung của quy luật cạnh tranh..............................................................7
1.3. Ý nghĩa của quy luật cạnh tranh.................................................................8
Chương 2: Liên hệ đến cạnh tranh của một ngành sản xuất gạo ở Việt Nam
hiện nay................................................................................................................9
2.1 Khái quát về ngành sản xuất gạo.................................................................9
2.2 Thực trạng cạnh tranh của ngành sản xuất lúa gạo ở nước ta...............10
2.2.1. Những mặt tích cực trong cạnh tranh của ngành/lĩnh vực sản xuất X
và nguyên nhân..................................................................................................11
2.2.1.1 Tích cực..................................................................................................11
2.2.1.2 Nguyên nhân..........................................................................................13
2.2.2. Những mặt tiêu cực trong cạnh tranh của ngành/lĩnh vực sản xuất lúa
và nguyên nhân..................................................................................................14
2.2.2.1. Những mặt tiêu cực..............................................................................14
2.2.2.2. Nguyên nhân.........................................................................................16
2.3. Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cạnh tranh của
ngành/lĩnh vực sản xuất lúa gạo ở nước ta trong thời gian tới.....................18
2.3.1.Phương hướng nhằm nâng cao hiệu quả cạnh tranh của ngành/lĩnh
vực sản xuất lúa gạo ở nước ta trong thời gian tới.........................................18
2.3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả cạnh tranh của
ngành/lĩnh vực sản xuất lúa gạo ở nước ta trong thời gian tới.....................19
2.3.2 Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả cạnh tranh của
ngành sản xuất lúa gạo......................................................................................21

KẾT LUẬN........................................................................................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................24


Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
- Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, cạnh tranh trở thành yêu cầu tất
yếu đối với tất cả các ngành kinh tế và quốc gia. Cạnh tranh được coi là yếu tố cần
thiết để phân bổ lại nguồn lực xã hội, thúc đẩy nền kinh tế phát triển thơng qua việc
điều tiết cung trên thị trường, kích thích hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, ứng dụng
công nghệ.
- Nghiên cứu năng lực cạnh tranh cấp ngành là chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu kinh
tế và hoạch định chính sách quan tâm. Việc nghiên cứu năng lực cạnh tranh không chỉ
giúp các doanh nghiệp, ban ngành và quốc gia hiểu được xu hướng hoạt động của thị
trường mà còn giúp họ đưa ra chiến lược phát triển trong ngắn hạn, trung hạn và dài
hạn. Đối với doanh nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh giúp họ tạo được vị thế trên
thị trường, chiếm lĩnh được thị trường. Đối với các ngành, nâng cao năng lực cạnh
tranh sẽ thúc đẩy sự phát triển của ngành từ đó góp phần nâng cao vị thế của quốc gia.
- Trong những năm gần đây, các nghiên cứu trong chủ đề nâng cao năng lực cạnh
tranh tại Việt Nam khá nhiều nhưng các nghiên cứu chuyên sâu về nâng cao năng lực
cạnh tranh của ngành lúa gạo của Việt Nam trên thị trường quốc tế khá hạn chế. Hầu
hết các nghiên cứu mới chỉ tập trung vào các yếu tố và giải pháp liên quan tới chính
sách của Nhà nước, nâng cao năng lực lao động, đổi mới công nghệ,... Tuy nhiên,
những nghiên cứu tập trung vào yếu tố năng lực marketing còn hạn chế, trong để nâng
cao năng lực cạnh tranh, ngành lúa gạo Việt Nam cũng như các doanh nghiệp xuất
khẩu rất cần yếu tố này. Chính vì những lý do trên nghiên cứu sinh đã quyết định lựa
chọn đề tài: ―Năng lực cạnh tranh của ngành lúa gạo Việt Nam làm đề tài nghiên cứu.
2. Đối tượng nghiên cứu
- Năng lực cạnh tranh của ngành lúa gạo Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu

- Cạnh tranh trong ngành sản xuất lúa gạo ở Việt Nam, giai đoạn 2011-2021
4. Mục tiêu nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Mục tiêu
- Một là Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về năng lực canh tranh nói chung và
năng lực canh tranh của ngành lúa gạo nói riêng
- Hai là Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành lúa gạo Việt Nam trên thị
trường quốc tế trong giai đoạn 2011- 2021
- Ba là Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành lúa gạo
Việt Nam trong giai đoạn 2021-2030.


Phương pháp nghiên cứu: Phép biện chứng duy vật, Trừu tượng hóa khoa học,
Logic kết hợp với lịch sử, Thống kê, So sánh, Phân tích tổng hợp, Quy nạp diễn
dịch,...
5. Kết cấu
Đề tài gồm các phần: Mở đầu, Nội dung, Kết luận, Tài liệu tham khảo. Nội dung được
kết cấu thành 2 chương:
- Chương 1: Quy luật cạnh tranh
- Chương 2: Liên hệ đến cạnh tranh ngành sản xuất lúa gạo ở nước ta.


Nội dung
Chương 1: Quy luật cạnh tranh
1.1. Các khái niệm cơ bản
Quy luật cạnh tranh là quy luật kinh tế điều tiết một cách khách quan mối quan hệ
ganh đua kinh tế giữa các chủ thể trong sản xuất và trao đổi hàng hóa. Quy luật cạnh
tranh yêu cầu, khi đã tham gia thị trường, các chủ thể sản xuất kinh doanh, bên cạnh sự
hợp tác, luôn phải chấp nhận cạnh tranh.
Cạnh tranh là sự ganh đua giữa những chủ thể kinh tế với nhau nhằm có được những
ưu thể về sản xuất cũng như tiêu thụ mà thông qua đó thu được lợi ích tối đa.

Kinh tế thị trường càng phát triển thì cạnh tranh trên thị trường càng trở nên thường
xuyên, quyết liệt hơn.
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh có thể diễn ra giữa các chủ thể trong nội bộ
ngành, cũng có thể diễn ra giữa các chủ thể thuộc các ngành khác nhau.
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh trong cùng
một ngành hàng hóa. Đây là một trong những phương thức để thực hiện lợi ích của
doanh nghiệp trong cùng một ngành sản xuất.
Biện pháp cạnh tranh là các doanh nghiệp ra sức cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ,
hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động để hạ thấp giá trị cá biệt của hàng hóa,
làm cho giá trị hàng hóa của doanh nghiệp sản xuất ra thấp hơn giá trị xã hội của hàng
hóa đó.
Kết quả của cạnh tranh trong nội bộ ngành là hình thành giá trị thị trường của từng loại
hàng hoá. Cùng một loại hàng hóa được sản xuất ra trong các doanh nghiệp sản xuất
khác nhau, do điều kiện sản xuất (điều kiện trang bị kỹ thuật, trình độ tổ chức sản xuất,
trình độ tay nghề của người lao động ...) khác nhau, cho nên hàng hố sản xuất ra có
giá trị cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường các hàng hoá được trao đổi theo giá trị
thị thị trường chấp nhận.


Theo C.Mác, "Một mặt phải coi giá trị thị trường là giá trị trung bình của những hàng
hố được sản xuất ra trong một khu vực sản xuất nào đó. Mặt khác, lại phải coi giá trị
thị trường là giá trị cá biệt của những hàng hoá được sản xuất ra trong những điều kiện
trung bình của khu vực đó và chiếm một khối lượng lớn trong tổng số những sản phẩm
của khu vực này".

- Cạnh tranh giữa các ngành

Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh giữa các
ngành khác nhau.


Cạnh tranh giữa các ngành, vì vậy, cũng trở thành phương thức để thực hiện lợi ích
của các chủ thể thuộc các ngành sản xuất khác nhau trong điều kiện kinh tế thị trường.

Cạnh tranh giữa các ngành là phương thức để các chủ thể sản xuất kinh doanh ở các
ngành sản xuất khác nhau tìm kiếm lợi ích của mình. Mục đích của cạnh tranh giữa các
ngành là nhằm tìm nơi đầu tư có lợi nhất.

Biện pháp cạnh tranh giữa các ngành là các doanh nghiệp tự do di chuyển nguồn lực
của mình từ ngành này sang ngành khác, vào các ngành sản xuất kinh doanh khác
nhau.

1.2. Nội dung của quy luật cạnh tranh
Trong nền sản xuất hàng hóa, sự cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa
người sản xuất và người tiêu dùng là một tất yếu khách quan, là yêu cầu thường xuyên
đối với những người sản xuất hàng hóa.
Quy luật cạnh tranh xuất phát từ bản chất của nền sản xuất hàng hóa, của quy luật giá
trị.


Quy luật cạnh tranh tạm dịch sang tiếng Anh là Competition law.
Cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ thể trong nền sản xuất hàng hóa
nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng
hóa để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.
Cạnh tranh có thể diễn ra giữa người sản xuất với người tiêu dùng.
1.3. Ý nghĩa của quy luật cạnh tranh
- Đối với một doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ
Cạnh tranh là một điều bất khả kháng trong nền kinh tế thị trường. Các doanh nghiệp,
các nhà kinh doanh dịch vụ khi tham gia thị trường buộc phải chấp nhận sự cạnh tranh.
Cạnh tranh có thể coi là cuộc chạy đua khốc liệt mà các doanh nghiệp khơng thể lẩn

tránh và phải tìm mọi cách để vươn lên, chiếm ưu thế.
Cạnh tranh khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng các công nghệ mới, hiện đại , tạo
sức ép buộc các doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của mình để
giảm giá thành, nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, tạo ra các sản phẩm mới khác
biệt có sức cạnh tranh cao.
Cạnh tranh khốc liệt sẽ làm cho doanh nghiệp thể hiện được khả năng “ bản lĩnh” của
mình trong quá trình kinh doanh. Nó sẽ làm cho doanh nghiệp càng vững mạnh và
phát triển hơn nếu nó chịu được áp lực cạnh tranh trên thị trường.
Chính sự tồn tại khách quan và sự ảnh hưởng của cạnh tranh đối với nền kinh tế nói
chung và đến từng doanh nghiệp nói riêng nên việc nâng cao khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp là một đòi hỏi tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường.
Như vậy cạnh tranh buộc các nhà dịch vụ phải ln tìm cách nâng cao chất lượng dịch
vụ, đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu của khách hàng, của thị trường. Canh tranh gây
nên sức ép đối với các doanh nghiệp qua đó làm cho các doanh nghiệp hoạt động có
hiệu quả hơn.
- Đối với người tiêu dùng
Nhờ có cạnh tranh, người tiêu dùng nhận được các dịch vụ ngày càng đa dạng, phong
phú hơn. Chất lượng của dịch vụ được nâng cao trong khi đó chi phí bỏ ra ngày càng
thấp hơn. Cạnh tranh cũng làm quyền lợi của người tiêu dùng được tôn trọng và quan
tâm tới nhiều hơn.


Trên thị trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp càng diễn ra gay gắt thì người được
lợi nhất là khách hàng. Khi có cạnh tranh thì người tiêu dùng khơng phải chịu một sức
ép nào mà còn được hưởng những thành quả do cạnh tranh mang lại như: chất lượng
sản phẩm tốt hơn, giá bán thấp hơn, chất lượng phục vụ cao hơn…
Đồng thời khách hàng cũng tác động trở lại đối với cạnh tranh bằng những yêu cầu về
chất lượng hàng hoá, về giá cả, về chất lượng phục vụ… Khi đòi hỏi của người tiêu
dùng càng cao làm cho cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt hơn để
giành được nhiều khách hàng hơn.

- Đối với nền kinh tế – xã hội.
Cạnh tranh là động lực phát triển kinh tế nâng cao năng suất lao động xã hội. Một nền
kinh tế mạnh là nền kinh tế mà các tế bào của nó là các doanh nghiệp phát triển có khả
năng cạnh tranh cao. Tuy nhiên ở đây cạnh tranh phải là cạnh tranh hoàn hảo, cạnh
tranh lành mạnh, các doanh nghiệp cạnh tranh nhau để cùng phát triển, cùng đi lên thì
mới làm cho nền kinh tế phát triển bền vững. Còn cạnh tranh độc quyền sẽ ảnh hưởng
khơng tốt đến nền kinh tế, nó tạo ra mơi trường kinh doanh khơng bình đẳng dẫn đến
mâu thuẫn về quyền lợi và lợi ích kinh tế trong xã hội, làm cho nền kinh tế khơng ổn
định.
Vì vậy, Chính phủ cần ban hành lệnh chống độc quyền trong cạnh tranh, trong kinh
doanh để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Cạnh tranh hoàn hảo sẽ đào thải các
doanh nghiệp làm ăn khơng hiệu quả. Do đó buộc các doanh nghiệp phải lựa chọn
phương án kinh doanh có chi phí thấp nhất, mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Như
vậy cạnh tranh tạo ra sự đổi mới mang lại sự tăng trưởng kinh tế.
Kết luận: Mặc dù quy luật cạnh tranh có vai trị vơ cùng quan trọng đối với nền kinh tế
thị trường hiện nay, nhưng nó khơng chỉ tồn là những ưu điểm, mà nó cịn có cả
những khuyết tật cố hữu mang đặc trưng của cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường bắt
buộc các doanh nghiệp phải thực sự tham gia vào cạnh tranh để tồn tại và phát triển.
Chính điều này địi hỏi cần phải có sự quản lý của nhà nước, đảm bảo cho các doanh
nghiệp có thể tự do cạnh tranh một cách lành mạnh có hiệu quả.


Chương 2: Liên hệ đến cạnh tranh của một ngành sản xuất gạo ở
Việt Nam hiện nay
2.1 Khái quát về ngành sản xuất gạo
Sản xuất kinh doanh lúa gạo đóng vai trò quan trọng trong nền phát triển kinh tế nông
nghiệp và nông thôn Việt Nam.
Sản xuất lúa gạo là nguồn thu nhập và cung cấp lương thực chính của các hộ nơng dân
nên chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp nông dân và nông thôn gắn liền với phát
triển ngành hàng lúa gạo.

Trong gần ba thập kỷ qua nhờ đổi mới cơ chế quản lý, Việt Nam đã đạt được những
thành tựu lớn trong sản xuất lúa gạo, khơng những góp phần đảm bảo an ninh lương
thực trong nước mà hàng năm còn tham gia xuất khẩu với kim ngạch đáng kể và đóng
góp khơng nhỏ cho ngân sách quốc gia.
Ngành sản xuất lúa gạo là ngành đóng vai trị quan trọng trong về kinh tế, chính trị - xã
hội, và môi trường ở Việt Nam. Lúa gạo chiếm 88,6% tổng sản lượng lương thực có
hạt và chiếm khoảng 7,3% tổng giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam
(MARD, 2017). Năm 2017, Việt Nam xuất khẩu khoảng 5,9 triệu tấn gạo, đạt 2,66 tỷ
USD, tăng 22,4% về khối lượng, và 23,3% về giá trị so với năm 2016. Giai đoạn 20132017, xuất khẩu gạo Việt Nam tăng trưởng âm -2,77%/năm về lượng và -2,32%/năm
về giá trị do ảnh hưởng của chính sách xả kho dự trữ của Thái Lan (bắt đầu từ tháng
4/2015) và nhu cầu nhập khẩu một số thị trường truyền thống giảm.
2.2 Thực trạng cạnh tranh của ngành sản xuất lúa gạo ở nước ta

Những năm gần đây, sản xuất lúa gạo gặp nhiều khó khăn vì dịch bệnh, thiên tai, điều
kiện tự nhiên…Nhưng vẫn đảm bảo năng suất và chất lượng.
Diện tích lúa năm 2020 ước tính đạt 7,28 triệu ha, giảm 192 nghìn ha so với năm trước
do chuyển đổi cơ cấu sản xuất và mục đích sử dụng đất; năng suất lúa ước tính đạt
58,7 tạ/ha, tăng 0,5 tạ/ha, do diện tích gieo trồng giảm nên sản lượng lúa ước tính đạt
42,69 triệu tấn, giảm 806,6 nghìn tấn. Như vậy, sản lượng lúa năm 2020 tuy giảm so
với năm 2019 chủ yếu do giảm diện tích gieo trồng bởi tác động của hạn hán, xâm
nhập mặn và chuyển đổi mục đích sử dụng đất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, chuyển
đổi mùa vụ nhưng đánh dấu một năm sản xuất lúa thắng lợi với năng suất cao hơn năm
trước ở tất cả các mùa vụ. Sản lượng lúa giảm nhưng đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu thụ
trong nước, chế biến và xuất khẩu. Sản xuất lúa tiếp tục xu hướng tăng tỷ lệ sử dụng


giống lúa chất lượng cao lên trên 74% (cao hơn so với mức 50% của năm 2015) nhằm
nâng cao giá trị “Thương hiệu gạo Việt”. Tỷ trọng gạo chất lượng cao chiếm trên 85%
gạo xuất khẩu đã góp phần nâng giá gạo xuất khẩu bình quân từ 440 USD/tấn năm
2019 lên 496 USD/tấn năm 2020.

Sang năm 2021, diện tích lúa cả năm tuy đạt 7,24 triệu ha, giảm 38,3 nghìn ha so với
năm trước do chuyển đổi cơ cấu sản xuất và mục đích sử dụng đất nhưng năng suất lúa
ở mức cao đạt 60,6 tạ/ha, tăng 1,8 tạ/ha. Sản lượng lúa năm 2021 tăng 1,1 triệu tấn so
với năm 2020, tiếp tục đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, đảm bảo an ninh lương
thực, phục vụ chế biến và xuất khẩu. Xuất khẩu gạo năm 2021 đạt 6,2 triệu tấn tương
đương 3,3 tỷ USD, tăng 5% so với năm 2020, trong đó tỷ trọng gạo chất lượng cao
chiếm trên 89%, giá gạo xuất khẩu tăng từ 496 USD/tấn năm 2020 lên 503 USD/tấn
năm 2021.
Có được những thành cơng trong sản xuất lúa gạo, bên cạnh sự chỉ đạo sát sao và ứng
phó kịp thời trước những diễn biến phức tạp của thời tiết nhằm điều tiết mùa vụ hợp
lý. Thời gian qua, ngành lúa gạo cũng đã có chuyển đổi mạnh mẽ theo hướng thực
hiện quy trình sản xuất lúa tiên tiến được ứng dụng hiệu quả ở nhiều địa phương. Theo
đó, hiện nay hầu hết các hộ trồng lúa đã ứng dụng chương trình “một phải, năm giảm”
– tức là: Phải sử dụng giống lúa có chứng nhận và thực hiện năm giảm: Giảm lượng
giống gieo sạ, giảm phân bón, giảm nước tưới qua kỹ thuật ngập – khô xen kẽ, giảm số
lần sử dụng thuốc trừ sâu, giảm thất thoát sau thu hoạch. Ðây được xem là chiến lược
chính để cải thiện tính bền vững của ngành sản xuất lúa gạo ở Việt Nam; Chương trình
“ba giảm, ba tăng” – giảm lượng giống, giảm thuốc bảo vệ thực vật và giảm phân bón
nhưng vẫn tăng năng suất, tăng hiệu quả kinh tế và tăng chất lượng sản phẩm.
Cùng với đó, ngành Nông nghiệp luôn đôn đốc các địa phương huy động mọi nguồn
lực về lao động, máy móc để làm đất, gieo trồng đảm bảo thời vụ; đẩy mạnh đầu tư,
thâm canh cây trồng, kiểm tra, quản lý chặt chẽ nguồn nước từ các cơng trình thủy lợi,
sử dụng nguồn nước tưới đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả và có kế hoạch tích nước để
phục vụ sản xuất. Ngồi ra, Bộ Nơng nghiệp và Phát triển Nông thôn cũng đang chỉ
đạo các địa phương triển khai các đề án quản lý dịch hại tổng hợp (IPM), đề án liên
quan tới các biện pháp sinh học sử dụng trong sản xuất nông nghiệp để bảo đảm hướng
tới nền nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ. Đây là những hướng đi đúng đắn giúp
cho ngành sản xuất lúa gạo Việt Nam ngày càng phát triển đạt được những thắng lợi
vừa qua.
Trong bối cảnh nông nghiệp đang được đẩy mạnh, tính cạnh tranh trong nước tăng nên

cơ cấu lại ngành lúa gạo theo hướng nâng cao hiệu quả và phát triển bền vững là
hướng đi cần thiết. Với mục tiêu: Đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước, bảo
đảm an ninh lương thực quốc gia; nâng cao chất lượng, giá trị dinh dưỡng, bảo đảm vệ


sinh an tồn thực phẩm; hình thành và nâng cao hiệu quả chuỗi giá trị lúa gạo; nâng
cao thu nhập của nơng dân và lợi ích cho người tiêu dùng; xuất khẩu gạo đạt chất
lượng và giá trị cao. 
Ngoài ra ngành còn cạnh tranh với các nước sản xuất lúa gạo lớn khác như Phi-líp-pin,
Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan…
2.2.1. Những mặt tích cực trong cạnh tranh của ngành/lĩnh vực sản xuất X và
nguyên nhân
2.2.1.1 Tích cực
Trong quý I/2022, gạo là một trong 8 mặt hàng nông, lâm, thủy sản đạt giá trị xuất
khẩu cao hơn so với cùng kỳ, khối lượng gạo xuất khẩu 3 tháng đầu năm nay đạt gần
1,48 triệu tấn, tương đương 715 triệu USD, tăng 24% về khối lượng và tăng 10,5% về
giá trị so với cùng kỳ năm ngoái.
Trên thị trường thế giới, giá gạo Việt Nam vẫn duy trì vị trí dẫn đầu trong các nước
xuất khẩu gạo. Điển hình, đầu tuần tháng 4/2022 giá gạo 5% tấm xuất khẩu đã tăng
12-15 USD/tấn so với đầu năm và khoảng 10 USD/tấn so với đầu tháng 3, lên mức
415 USD/tấn - cao nhất trong hơn 3 tháng qua. Nhờ nhu cầu tăng và lợi thế về sản
lượng, chất lượng, các doanh nghiệp như Lộc Trời, Tân Long cũng đang đẩy mạnh
xuất khẩu sang thị trường phân khúc cao, giá gạo ổn định.
Là doanh nghiệp chuyên xuyên khẩu gạo chất lượng cao sang thị trường khó tính như
Mỹ, châu Âu (EU), Nhật Bản, Hàn Quốc... lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam chiếm
khoảng 15% tổng lượng gạo xuất khẩu toàn thế giới. Hạt gạo Việt đã có mặt trên 150
nước và vùng lãnh thổ.


Đơn cử, sau 1 năm thực thi Hiệp định Thương mại tự do Châu Âu (EU) – Việt Nam

(EVFTA), XK gạo nói riêng của Việt Nam đang dần khẳng định chỗ đứng tại thị
trường EU bởi chất lượng gạo của Việt Nam trong nhiều năm qua đã không ngừng
được cải thiện. Các loại gạo thơm, gạo chất lượng cao như ST24, ST25, Jasmine…
được người dân khu vực này ưa chuộng. Dự báo XK gạo của Việt Nam trong năm
2022 sang thị trường EU sẽ đạt tối thiểu 60.000 tấn, đặc biệt là tại các thị trường
truyền thống như Đức, Italy, Ba Lan…
2.2.1.2 Nguyên nhân
Nắm bắt thực tế và xu thế chuyển đổi cơ cấu giống ở vùng sản xuất lúa gạo lớn nhất cả
nước, chú trọng đến nhóm giống có chất lượng cao nhiều hơn. Dựa trên thị trường thế
giới, giữ giá gạo Việt Nam duy trì để dẫn đầu trong các nước xuất khẩu gạo, triển khai
sản xuất lúa gạo bền vững theo tiêu chuẩn quốc tế (SRP). Ðây là bộ tiêu chuẩn đầu tiên
trên thế giới về sản xuất lúa gạo bền vững có tiêu chí nhấn mạnh các yếu tố kinh tế, xã
hội và môi trường. Hiện nay, toàn bộ vùng nguyên liệu sản xuất lúa gạo của đơn vị với
gần 12.000 ha đều sản xuất theo tiêu chuẩn SRP. Để làm được điều này, các doanh
nghiệp xuất khẩu gạo phải không ngừng nỗ lực đầu tư công nghệ trong khâu chế biến,
sản xuất lúa gạo


Giá gạo Việt Nam trong nhiều năm gần đây luôn đạt giá trị cao và hiện đang cao hơn
giá gạo Thái Lan bởi Việt Nam đã chú trọng đến cơ cấu giống, các giống đặc sản, lúa
thơm được đưa vào canh tác đã giúp khẳng định thương hiệu gạo Việt ở nhiều thị
trường "khó tính". Điều này lý giải vì sao giá gạo Việt Nam cao hơn một số nước xuất
khẩu truyền thống, nhưng người tiêu dùng thế giới vẫn chọn ký hợp đồng nhập khẩu
gạo Việt.
Bộ Nông nghiệp Mỹ đưa ra dự báo thương mại gạo toàn cầu năm 2022 đạt 48,8 triệu
tấn, tăng khoảng 100.000 tấn so với năm trước. Từ nhu cầu lương thực của thế giới và
năng lực cung ứng của Việt Nam, mặc dù dịch Covid-19 diễn biến phức tạp và xung
đột Nga - Ukraina đang căng thẳng, nhưng các thương nhân vẫn tin tưởng xuất khẩu
gạo năm 2022 vẫn đạt khoảng 6,4 triệu tấn.
Ngành lúa gạo cũng hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng và giá trị cho hạt gạo

Việt. Từ đó, hình thành và nâng cao chuỗi giá trị ngành hàng, giúp thích ứng với sự
thay đổi khí hậu và nâng cao thu nhập cho người nông dân cũng như nhu cầu được đáp
ứng lúa gạo chất lượng cao của người tiêu dùng.
2.2.2. Những mặt tiêu cực trong cạnh tranh của ngành/lĩnh vực sản xuất lúa và
nguyên nhân.
2.2.2.1. Những mặt tiêu cực

Lượng hàng tồn quá lớn khiến các thương lái không thể thu mua thêm gạo cho bà con.
Ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch HĐQT Tập đồn Intimex, cho biết: Nếu tính cả số lượng
đơn hàng bị hủy từ tháng 7/2021 dồn qua thì tháng 8/2021, Intimex phải xuất theo hợp
đồng đã ký gần 120.000 tấn gạo. Tuy nhiên, bên giao hàng cho biết, khả năng vận
chuyển hàng đi được tối đa chỉ 30.000-35.000 tấn.
Tương tự, đại diện Tổng Công ty Lương thực miền Bắc (Vinafood 1) cho biết, doanh
nghiệp này đang có lượng hàng lưu kho lên đến 85%, mặc dù Vinafood 1 đã làm việc
với địa phương tạo điều kiện cho doanh nghiệp thu mua lúa cho bà con nông dân
nhưng vẫn gặp nhiều vướng mắc.
Còn với những doanh nghiệp chủ động thu mua lúa như Công ty CP XNK An Giang
(Angimex) thì lại đang gặp vướng trong vấn đề tài chính. Mặc dù lượng hàng tồn kho
vẫn đang quá lớn do chưa thể xuất khẩu nhưng doanh nghiệp này vẫn đề nghị Sở


NN&PTNT An Giang hỗ trợ để Angimex có thể mua 30.000 tấn lúa cho nông dân.
Tuy nhiên, muốn làm được việc này, Angimex cần được hỗ trợ tăng hạn mức vay và
giảm lãi suất ngân hàng.
Gạo Việt Nam xuất khẩu trên 20 năm nhưng chưa đạt thương hiệu quốc tế
Những khó khăn nội tại của ngành Lúa gạo Việt Nam càng được đặt ra một cách cấp
thiết, nhất là khi Việt Nam chưa có thương hiệu gạo xuất khẩu quốc gia, trong khi phải
cạnh tranh gay gắt với các nhà xuất khẩu lớn là Thái Lan, Ấn Độ và một số nước mới
nổi như Campuchia, Myanmar và Pakistan với những loại gạo đạt chất lượng vượt
trội… liên tiếp gây áp lực đối với tình hình xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam

Đa số các sản phẩm nông sản Việt Nam kém cạnh tranh về chất lượng, mẫu mã,
thương hiệu cũng bị mờ nhạt, như gạo Việt Nam đã xuất khẩu trên 20 năm nhưng chưa
đạt thương quốc tế trong khi Campuchia 3 lần được xếp hạng gạo ngon nhất thế giới.
"Trong bối cảnh cơ chế thị trường ngày càng hội nhập sâu với các nước trong khu vực
và trên thế giới thì đa số các sản phẩm nơng sản Việt Nam kém cạnh tranh về chất
lượng mẫu mã, thương hiệu cũng bị mờ nhạt, như gạo Việt Nam đã xuất khẩu trên 20
năm nhưng chúng ta chưa đạt thương quốc tế, trong khi đó Campuchia đi sau ta nhưng
gạo thơm Phka Ramdoul (gạo lài Campuchia) đã 3 lần được xếp hạng gạo ngon nhất
thế giới vì họ thực hiện nghiêm ngặt quy trình sử dụng phân bón hữu cơ" trích ơng
“Ơng Nguyễn Đình Hạc Thúy chủ tịch Hiệp hội phân bón Việt Nam”
Việc lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật hiện nay đang trở nên đáng báo động khi số
lượng và liều lượng thuốc sử dụng trong một vụ sản xuất ngày càng gia tăng. Thậm
chí, nhiều người dân cịn có tâm lý phun phịng khi sâu bệnh chưa đến ngưỡng phịng
trừ hay trên những diện tích chuẩn bị cho thu hoạch. Điều này khơng chỉ gây lãng phí
thuốc bảo vệ thực vật, tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái mà còn ảnh hưởng
trực tiếp đến sức khỏe con người.
Gần 1.000 m2 lúa mùa mới được cấy chưa đầy nửa tháng, song đây là lần thứ 4, chị Lò
Thị Hiêng, xã Thanh Xương, huyện Điện Biên sử dụng thuốc bảo vệ thực vật. Lần đầu
tiên gia đình chị phun thuốc diệt cỏ trước khi cấy. Tiếp đến là 2 lần phun thuốc ốc
bươu vàng không thấy hiệu quả và lần thứ 4 chị đã trộn thuốc diệt ốc bươu vàng cùng
với phân kali bón cho lúa. Đó là chưa kể những lần sử dụng thuốc trừ sâu ở giai đoạn
lúa đẻ nhánh, đứng cái làm đòng và phơi bơng.
Khu vực cánh đồng lịng chảo Điện Biên là nơi người nông dân thường xuyên dùng
thuốc bảo vệ thực vật trong mỗi mùa vụ. Thuốc bảo vệ thực vật được phun ở nhiều


thời điểm khác nhau: Phun trừ cỏ trước khi cấy lúa; phun phòng chống sâu bệnh hại
khi lúa mới cấy khoảng 15 - 20 ngày, phun thuốc khi lúa trổ đòng, khi lúa phơi màu và
phun thuốc bảo vệ khi bơng lúa uốn câu. Thậm chí, ở những diện tích lúa đã cho thu
hoạch, người dân còn phun trừ rầy nâu để tránh thiệt hại kinh tế. Trung bình, mỗi vụ

sản xuất lúa, người nông dân phải phun từ 5 đến 7 lần thuốc bảo vệ thực vật. Đó là đối
với tình trạng cây trồng bình thường, cịn nếu sâu bệnh phát triển nhiều thì số lần phun
thuốc bảo vệ thực vật càng tăng lên. Đồng nghĩa với việc này là tăng chi phí đầu tư sản
xuất, ơ nhiễm mơi trường, mất cân bằng hệ sinh thái.
Theo thống kê của Chi cục Bảo vệ thực vật tỉnh, năm 2019, nông dân toàn tỉnh sử
dụng 103 tấn thuốc bảo vệ thực vật, năm 2020 là 104 tấn thuốc bảo vệ thực vật. Việc
sử dụng thuốc bảo vệ thực vật cũng còn nhiều bất cập khi chưa tuân thủ nguyên tắc 4
đúng là: Đúng thuốc; đúng nồng độ, liều lượng; đúng lúc và đúng kỹ thuật.
Đến thăm trang trại tổng hợp của gia đình ơng Kiều Văn Giỏi, thơn 1, xã Thọ Thanh
(Thường Xuân) - một trong những trang trại đang hướng đến sản xuất nơng sản an
tồn thực phẩm của địa phương. Với quy mô hơn 1 ha, ông Giỏi tự ni giun quế để
làm phân bón cho cây ăn quả, rau màu và cung cấp nguồn đạm tươi cho gia cầm trong
trang trại. Qua trao đổi, ông cho biết: Sau khi tham khảo nhiều trang trại VietGap và
trang trại đạt chuẩn theo Thông tư 27 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trên
địa bàn tỉnh, nhận thấy hầu hết đều sử dụng phân bón hữu cơ cho cây trồng. Sau 6
tháng nuôi giun quế, hiện nay lượng phân hữu cơ không những cung cấp đủ cho nhu
cầu của trang trại mà còn cung cấp khoảng 20 tấn phân giun quế và 1,5 tấn giun thịt
cho thị trường, lợi nhuận trung bình từ 40 đến 65 triệu đồng/tháng. Song, theo ơng
Giỏi, việc sản xuất phân hữu cơ đã khó thì việc tiêu thụ cịn khó hơn, bởi đa phần
người dân đã quen với việc sử dụng phân bón vơ cơ cho cây trồng, chỉ những trang
trại, hộ gia đình và tổ chức hướng đến sản xuất thực phẩm an tồn mới có xu hướng
tiêu thụ và sử dụng phân bón hữu cơ.
Chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh của hàng hóa lúa gạo và doanh nghiệp sản
xuất thấp là điều kiện để sản phẩm lúa gạo ngoại và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngồi (FDI) chiếm lĩnh thị trường Việt Nam với tốc độ nhanh. Bên cạnh đó,
thị phần của hàng nơng sản thực phẩm lúa gạo Việt Nam chất lượng trung bình đang
giảm nhanh trên thị trường tiêu thụ. Giá cả hàng hóa biến động thất thường, tạo nên
mặt bằng giá mua bán bất hợp lý và các vụ việc vi phạm cạnh tranh, hạn chế cạnh
tranh, phản cạnh tranh,... ngày càng tinh vi, phức tạp cũng là những góc khuất của thị
trường hiện nay. Về mặt luật pháp, một số quy định của cơ quan nhà nước các cấp ở

địa phương vẫn cản trở hoạt động kinh doanh, cạnh tranh hợp pháp của doanh
nghiệp.


Phần lớn xuất khẩu là nhà đầu tư nước ngoài làm. Các nhà đầu tư nước ngoài trở thành
khối xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam chiếm tới 70% thành tích xuất khẩu. Tức là 18
nghìn nhà đầu tư nước ngồi họ làm ra 70% xuất khẩu, cịn lại 90 triệu dân Việt Nam
chỉ có 30% trong xuất khẩu. Ngồi nhân tố xuất khẩu, nghịch lý ở chỗ chúng ta đang
trói doanh nghiệp trong nước để doanh nghiệp nước ngồi vào chiếm lĩnh thị trường
Việt Nam.
Việc quy định chỉ một số lượng nhất định các doanh nghiệp được mua lúa gạo với giá
sàn chung tại một thời kỳ là tạo nên một nhóm doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền
trong kinh doanh lúa gạo. Việc này dẫn đến nhiều khả năng lạm dụng vị thế thống
lĩnh, độc quyền của nhóm doanh nghiệp và hiệp hội kinh doanh lúa gạo, gây hạn chế
đáng kể sự cạnh tranh của các doanh nghiệp khác trong việc tiêu thụ lúa gạo cho sản
xuất nông nghiệp. Nội dung này bị cấm tại Điều 6 và Điều 13 của Luật Cạnh tranh.
Đây cũng không phải là quy định để bảo đảm an ninh lương thực hoặc giữ đầu mối
xuất khẩu lúa gạo.
2.2.2.2. Nguyên nhân
- Năm 2020, hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu gạo nói riêng gặp khơng ít
khó khăn, thách thức, chủ yếu do tác động hết sức phức tạp của dịch Covid-19.
Hiện nay các cảng đều đang thiếu công nhân do thực hiện các quy định phịng, chống
dịch bệnh (khơng tập trung đơng, giãn cách 2 m…) khiến khơng có người bốc xếp
hàng từ xe lên băng chuyền để đưa vào container. Chưa kể đến việc các đơn hàng xuất
đi châu Phi không có tàu lớn vào cảng do lo ngại dịch bệnh; xà lan đi từ địa phương
lên khó, bị giữ lại, không vào bốc hàng được…
Việc áp dụng phương án "3 tại chỗ" để phòng chống dịch COVID-19 trong thời gian
dài đang khiến lượng gạo tồn kho cao vì chưa xuất khẩu, hàng hóa ùn ứ… nên các
thương lái, doanh nghiệp kinh doanh gạo chưa thể tiếp tục thu mua lúa cho nông dân.
Gạo Việt Nam xuất khẩu trên 20 năm nhưng chưa đạt thương hiệu quốc tế

Tại Việt Nam hơn 20 năm qua, phân bón đổ xuống đồng ruộng trên 165 triệu tấn các
loại nhưng chủ yếu là phân bón hóa học. Việc sản xuất nơng nghiệp hàng hóa do nơng
dân đua nhau sử dụng phân bón hóa học đã làm cho đất bị suy thối, chai hóa trầm
trọng cho nên sản xuất nông nghiệp các loại cây, củ, quả thời nay sẽ không tự làm ra
nông nghiệp hữu cơ hàng hóa được. Vì vậy, nếu khơng có phân bón hữu cơ đi trước thì
khơng thể có một nền nơng nghiệp hữu cơ hàng hóa bên vững, đột phá.


Việc lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật hiện nay đang trở nên đáng báo động khi số
lượng và liều lượng thuốc sử dụng trong một vụ sản xuất ngày càng gia tăng. Thậm
chí, nhiều người dân cịn có tâm lý phun phòng khi sâu bệnh chưa đến ngưỡng phòng
trừ hay trên những diện tích chuẩn bị cho thu hoạch. Điều này khơng chỉ gây lãng phí
thuốc bảo vệ thực vật, tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái mà còn ảnh hưởng
trực tiếp đến sức khỏe con người.
Tuy nhiên hiện nay ngành phân bón hữu cơ đang gặp nhiều khó khăn, hạn chế như số
lượng cơ sở sản xuất và số lượng phân bón vơ cơ đang chiếm tỷ trọng lớn hơn nhiều so
với phân bón hữu cơ, chưa có nghiên cứu bài bản hệ thống về hiệu suất sử dụng phân
bón, thất thốt dinh dưỡng và các biện pháp khắc phục…
Thói quen sử dụng phân bón hóa học trong q trình canh tác chính là một trong
những ngun nhân làm thối hóa đất, khiến năng suất, sản lượng cây trồng kém, gây
ô nhiễm môi trường đất, nước, khơng khí và ảnh hưởng tới chất lượng của sản phẩm
nơng nghiệp. Sử dụng phân bón hữu cơ để cải hóa đất đai, nâng cao chất lượng cây
trồng và hướng đến nền nông nghiệp sạch là giải pháp hữu hiệu trong giai đoạn hiện
nay. Song vì nhiều nguyên nhân khiến việc sản xuất và tiêu thụ phân bón hữu cơ của
cá nhân, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh ta còn gặp nhiều khó khăn.
Theo các tài liệu nghiên cứu, khi sử dụng phân bón hóa học, khoảng 50% lượng phân
bón được cây trồng sử dụng để tạo sinh khối, 50% cịn lại sẽ bị rửa trơi, thẩm thấu
xuống nguồn nước hoặc bay hơi, gây ô nhiễm môi trường. Trong khi đó, hàng năm
ngành nơng nghiệp tỉnh ta thải ra hàng trăm nghìn tấn rơm rạ, bã cây ngơ, mía, các loại
phân gia súc, gia cầm... nhưng người dân từ lâu đã bỏ thói quen sử dụng nguồn nguyên

liệu này để làm phân hữu cơ bón cho cây trồng. Bà Nguyễn Thị Lanh, thơn 2, xã Thiệu
Thành (Thiệu Hóa), cho biết: Cách đây khoảng 1 thập kỷ, người dân đã ít sử dụng phụ
phẩm nông nghiệp để chế biến thành phân hữu cơ bón cho cây trồng, mà chủ yếu là sử
dụng phân bón hóa học, bởi sự tiện lợi đối với sản xuất.
Chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh của hàng hóa lúa gạo… cạnh tranh hợp
pháp của doanh nghiệp
Một số hãng bán lẻ lớn đã bán thực phẩm nhập khẩu với giá rẻ hơn cả giá đã bao gồm
thuế nhập khẩu là dấu hiệu hành vi bị cấm: bán hàng dưới giá thành toàn bộ.
Một số hãng bán lẻ, siêu thị lớn chỉ bán hàng nông sản thực phẩm ngoại nhập hoặc
hàng của các doanh nghiệp FDI là dấu hiệu hành vi bị cấm: phân biệt đối xử với các
doanh nghiệp trong điều kiện giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh
tranh.


Nhiều cơng ty đa quốc gia, doanh nghiệp FDI có thương hiệu lớn đang tiến hành tập
trung kinh tế mua bán, sáp nhập, liên doanh, hợp nhất trên thị trường kinh doanh và
chế biến nơng sản thực phẩm. Nó gây nên sự hạn chế cạnh tranh, có biểu hiện vi phạm
tập trung kinh tế bị cấm, quy định trong Luật Cạnh tranh.
2.3. Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cạnh tranh của
ngành/lĩnh vực sản xuất lúa gạo ở nước ta trong thời gian tới
2.3.1.Phương hướng nhằm nâng cao hiệu quả cạnh tranh của ngành/lĩnh vực sản
xuất lúa gạo ở nước ta trong thời gian tới
Lúa gạo đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Hiện nay, gạo là loại lượng thực chính của phần lớn người dân Việt Nam. Sản xuất lúa
gạo là sinh kế của hàng triệu nông dân nhỏ lẻ. Chính sách đổi mới năm 1986 đã đánh
dấu bước chuyển mình của sản xuất lúa gạo tại Việt Nam. Điều đó được thể hiện qua
việc Việt Nam đã đảm bảo được an ninh lương thực quốc gia và vươn lên thành
nước xuất khẩu gạo lớn thứ 3 thế giới. Châu Á và châu Phi là 2 thị trường xuất khẩu
gạo chính của Việt Nam, trong đó, Philippines là thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất.
Sản lượng, kim ngạch và giá gạo xuất khẩu có xu hướng gia tăng. Việt Nam được

đánh giá là nước có lợi thế so sánh rất cao về gạo. Tuy nhiên gần đây, lợi thế này đang
có xu hướng giảm dần và hiện ở mức thấp hơn so với những nước xuất khẩu gạo chủ
lực khác là Ấn Độ, Thái Lan và Pakistan. Để tăng cường khả năng cạnh tranh của gạo
Việt Nam trên thị trường thế giới đòi hỏi Việt Nam phải triển khai đồng bộ nhiều giải
pháp.

2.3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả cạnh tranh của
ngành/lĩnh vực sản xuất lúa gạo ở nước ta trong thời gian tới
1.Đối với nhà nước
Trước hết, về Quy hoạch lại sản xuất lúa gạo.
Nhà nước cần có các biện pháp quy hoạch lại sản xuất lúa gạo nhằm nâng cao sản
lượng gạo của cả nước đảm bảo đến năm 2030, các vùng sản xuất lúa gạo xuất khẩu ổn
định, hiệu quả và bền vững, đưa gạo Việt Nam trở thành thương hiệu hàng đầu thế giới
về chất lượng, an tồn thực phẩm.
Thơng qua hệ thống khuyến nông để chuyển tải các tiến bộ kỹ thuật mới đến nông dân
và hướng dẫn nông dân phát triển sản xuất theo qui hoạch, sử dụng các công nghệ
canh tác mới, giống mới, đảm bảo nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của
nơng sản hàng hóa.


Thực hiện đào tạo nâng cao trình độ cho người nông dân, việc này cần chú trọng ngay
từ các thế hệ nông dân trẻ. Trước tiên là giáo dục nhận thức cho họ, sau đó là đào tạo
về kỹ thuật, nâng cao khả năng tiếp nhận công nghệ,… Để hướng tới xây dựng một
nền nông nghiệp hiện đại cần phải có nơng dân có trình độ. Bên cạnh đó, đào tạo các
cán bộ nghiên cứu, cán bộ khuyến nông để giúp nông dân áp dụng công nghệ và kĩ
thuật vào sản xuất.
Thứ hai, có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thu mua gạo tạm trữ xuất khẩu và chính
sách trợ giá cho nông dân.
Trong cơ chế thị trường, giá cả biến động theo qui luật cung cầu, đa số các mặt hàng
nơng sản là loại hàng hóa thường sản xuất theo thời vụ, tiêu thụ cả năm, nên có nơi, có

lúc vào vụ thu hoạch tiêu thụ khơng kịp giá bị rớt, nhất là khi được mùa lớn. Để hạn
chế tình trạng này, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thu mua gạo tạm
trữ xuất khẩu và có chính sách trợ giá cho nơng dân.
Thứ ba, hợp tác với các quốc gia xuất khẩu gạo lớn để chiếm lĩnh thị trường.
Vấn đề của Việt Nam là không có đủ gạo có chất lượng cao để xuất khẩu, trong khi
gạo chất lượng thấp và gạo 25% tấm rất nhiều nhưng lại rất khó xuất khẩu, do nhu cầu
thị trường đối với loại gạo này thấp và phải cạnh tranh với gạo của Ấn Độ và Pakistan
có giá thấp hơn nên gạo chất lượng thấp và gạo 25% tấm của Việt Nam rơi vào tình
trạng ế ẩm. Đã đến lúc Việt Nam và các quốc gia xuất khẩu gạo chủ đạo trong khu vực
phải hợp tác thành một khối, nhằm cạnh tranh và giành lại lợi thế trên thị trường gạo
quốc tế.
2.Đối với doanh nghiệp

Trước hết, cần ứng dụng khoa học công nghệ vào chế biến gạo xuất khẩu.
Một yếu tố quan trọng gây hạn chế chất lượng gạo là cơng nghệ sau thu hoạch. Hồn
thiện cơng nghệ sau thu hoạch: cần quan tâm đầu tư nâng cấp công nghệ thu hoạch,
bảo quản sau thu hoạch (dùng máy sấy thay cho phơi thóc bằng ánh sáng mặt trời).
Tăng cường đầu tư cho công nghiệp xay xát, chế biến gạo, áp dụng các công nghệ tiên
tiến trong tạm trữ như sử dụng khí cacbon dioxit, nitơ, cơng nghệ bảo quản mát. Hệ
thống cơ sở vật chất phục vụ cho việc cung cấp cây giống, khuyến nông, mua, bảo
quản, tồn trữ, vận chuyển, bốc xếp… phải thực hiện quản lý theo tiêu chuẩn ISO, đặc
biệt là ở những vùng trọng điểm lúa gạo xuất khẩu.
Thứ hai, cần có giải pháp về phát triển thị trường.
Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt giữa các nước về xuất khẩu gạo như hiện nay và
những năm tới, các doanh nghiệp Việt Nam nhất thiết phải có hệ thống các giải pháp


hữu hiệu về thị trường ngoài nước. Để tăng sức cạnh tranh của hạt gạo Việt Nam trên
thị trường thế giới cần phải có nhiều giải pháp đồng bộ, khơng chỉ là tăng năng suất và
chất lượng sản xuất trong nước để giảm chi phí, mà cịn phải mở rộng và ổn định thị

trường theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa, đảm bảo chữ tín với khách hàng, tăng
cường tiếp thị, đầu tư nghiên cứu và dự báo thị trường… Các giải pháp cụ thể như:
Nghiên cứu thị trường, Lựa chọn các thị trường mục tiêu.
Thứ ba, cần có giải pháp về xúc tiến thương mại.
Các doanh nghiệp trực tiếp thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại bao gồm:
nghiên cứu thị trường; tuyên truyền, giới thiệu sản phẩm,... bằng cách thực hiện các
chiến dịch quảng cáo, tham gia hội chợ, triển lãm, lập văn phòng đại diện ở nước
ngoài,…
Bên cạnh sự hỗ trợ của Nhà nước trong vấn đề thị trường, các doanh nghiệp phải chủ
động tìm bạn hàng và phương thức kinh doanh thích hợp để xâm nhập, duy trì và mở
rộng chỗ đứng trên thị trường gạo thế giới. Các doanh nghiệp cần đa dạng hóa khách
hàng và tận dụng cả những hợp đồng có khối lượng khơng lớn; đồng thời cũng có thể
thiết lập quan hệ với các tập đoàn xuyên quốc gia là những tổ chức kinh tế vững mạnh
có tầm hoạt động rộng, sự am hiểu về thị trường và khả năng về vốn lớn để đảm bảo
thị trường xuất khẩu ổn định.

2.3.2 Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả cạnh tranh của ngành sản
xuất lúa gạo
Để nâng cao hiệu quả cạnh tranh của ngành sản xuất lúa gạo trong nước, nâng cao
năng suất sản xuất thì nước ta đang áp dụng các chương trình như: “một phải, năm
giảm”, chương trình “ba giảm, ba tăng”.
Ngồi ra, ta cịn cần phải để ý tới các vấn đề khác để có thể nâng cao hiệu quả cạnh
tranh.
Thực hiện, hoàn thiện và đổi mới cơ chế, chính sách: Chính phủ ban hành Nghị định
khuyến khích tập trung, tích tụ đất đai cho sản xuất nơng nghiệp, theo đó tạo điều kiện
tích tụ đất lúa, tăng quy mô sản xuất lúa nông hộ và thu hút doanh nghiệp đầu tư sản
xuất lúa quy mơ lớn.
Nhà nước có chính sách đặc thù như ưu tiên tích tụ đất lúa, đầu tư xây dựng kết cấu hạ
tầng, hiện đại hóa sản xuất, phát triển chuỗi giá trị, nâng cao hiệu quả ngành lúa gạo và
thu nhập nông dân; chuyển đổi hỗ trợ cho các địa phương theo diện tích trồng lúa sang



hỗ trợ cho các vùng sản xuất lúa trọng điểm và vùng lúa có luân canh với rau màu
hoặc thủy sản.
Bổ sung chính sách hỗ trợ nguồn vốn vay cho doanh nghiệp đủ lớn và kéo dài thời hạn
vay để doanh nghiệp có điều kiện liên kết tiêu thụ lúa cho nông dân và dự trữ lúa, gạo
với sự tham gia hỗ trợ của ngành ngân hàng trong cho vay theo chuỗi giá trị.
Hồn thiện chính sách bảo hiểm nơng nghiệp, đối với cây lúa mở rộng chính sách hỗ
trợ bảo hiểm cho các địa bàn sản xuất lúa tập trung, phát triển loại hình sản phẩm bảo
hiểm theo chỉ số năng suất có ứng dụng cơng nghệ viễn thám giúp giảm thiểu chi phí,
thời gian và tăng tính minh bạch, chính xác.
Chính sách ưu tiên các doanh nghiệp có liên kết sản xuất - tiêu thụ, ứng dụng công
nghệ cao, xuất khẩu gạo có thương hiệu, chế biến sâu.
Tăng cường nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ: Xây dựng và triển khai
chương trình nghiên cứu lúa gạo quốc gia giai đoạn 2021-2030 với các trọng tâm sau:
Chọn tạo, phát triển giống lúa, nghiên cứu và phát triển hệ thống các quy trình thực
hành sản xuất tốt, thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu, nghiên cứu cơ giới hóa và
nâng cao chuỗi giá trị lúa gạo, nghiên cứu sử dụng hiệu quả và bảo vệ tài nguyên tự
nhiên, nghiên cứu về thể chế và chính sách, thị trường và thương mại lúa gạo.
Ứng dụng khoa học công nghệ: Đổi mới hoạt động khuyến nông và chuyển giao công
nghệ theo chuỗi giá tri lúa gạo. Phát triển các dịch vụ tư vấn khuyến nông ứng dụng
công nghệ thông tin để cung cấp thông tin về kỹ thuật, thị trường, dự báo khí hậu, thời
tiết cho nơng dân.
Tăng đầu tư cho nghiên cứu và ứng dụng khoa học cơng nghệ: Tăng kinh phí cho
nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và khuyến nông từ ngân sách nhà nước,
nguồn đóng góp từ doanh nghiệp và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực lúa gạo.
Đầu tư cơ sở hạ tầng: Phát triển hệ thống thủy lợi, Phát triển kết nối hệ thống giao
thông ở các vùng sản xuất lúa, Hỗ trợ xây dựng hệ thống điện phục vụ sản xuất cho
các vùng sản xuất lúa tập trung, Hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng kho lúa khô, Xây dựng
hạ tầng kỹ thuật phát triển hệ thống thông tin về thị trường, Đầu tư hạ tầng cho các

vùng sản xuất lúa mang tính di sản văn hóa, đặc thù kết hợp phục vụ du lịch…
Ta còn cần phải chú ý đến vấn đề xuất khẩu, giảm thiểu tối đa các hao hụt khi xuất
khẩu gạo qua các nơi tiêu thụ.
Thị trường Trung Quốc là một trong số nơi tiêu thụ lớn nhất của nước ta, việc xuất
khẩu gạo sang thị trường này, nhất là xuất qua biên giới theo đường tiểu ngạch, mặc
dù có những tác dụng nhất định trong việc góp phần tiêu thụ lúa gạo hàng hóa cho


người sản xuất và phát triển thương mại khu vực biên giới song cũng tiềm ẩn nhiều rủi
ro đối với thương nhân xuất khẩu gạo tương tự như đối với nhiều mặt hàng nông sản
của ta đã gặp phải thời gian qua như vấn đề bảo quản, ảnh hưởng bất lợi về chất lượng,
tình trạng quá tải, ách tắc trong, vận chuyển, nguy cơ bị ép giá và những rủi ro trong
thanh tốn, giao hàng… nên ta cần tìm con đường khác hoặc rút ngắn thời gian vận
chuyển để đảm bảo chất lượng và tiết kiệm chi phí.
Thị trường xuất khẩu gạo lớn tiếp theo của Việt Nam phải kể đến Châu Phi. Khó khăn
lớn nhất trong hoạt động xuất khẩu gạo sang thị trường châu Phi chính là khâu thanh
toán. Các nhà nhập khẩu châu Phi thường đề nghị mua gạo trả chậm, hình thức CIF
(giao hàng tại cảng đến) và khơng mở L/C (do chi phí cao). Một trở ngại nữa là doanh
nghiệp hai bên thường thiếu thông tin về thị trường, đối tác của nhau. Vì vậy, để tránh
rủi ro, các doanh nghiệp Việt Nam thường xuất khẩu qua các công ty trung gian quốc
tế. Điều này làm cho giá gạo xuất khẩu Việt Nam bị đội lên, làm giảm tính cạnh tranh
và đơi khi thương hiệu gạo Việt Nam không được người tiêu dùng biết đến. Ta cần tìm
một bên trung gian khác hoặc tìm hiểu thơng tin về thị trường Châu Phi để có thể trực
tiếp thực hiện việc xuất khẩu để tiết kiệm chi phí và nâng cao giá trị thương hiệu.

KẾT LUẬN
Song song với tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, tham gia vào tổ chức thương mại
WTO, ngành lúa gạo Việt Nam đang đứng trước những khó khăn và thách thức lớn về
chất lượng gạo và ổn định thị trường tiêu thụ. Điều kiện mới đặt ra những yêu cầu tất
yếu mà mọi khâu: “ sản xuất - chế biến - tiêu thụ” lúa gạo ở nước ta phải tiến hành qui

trình liên kết đồng bộ. Trong đó mở rộng thị trường tiêu thụ nước ngoài và ổn định thị
trường trong nước của hàng hóa lúa gạo là vấn đề then chốt. Do đó, nhà nước cần có
những biện pháp, chính sách thích hợp để đẩy phát triển thị trường gạo trong và ngoài
nước.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
/> /> /> />1/2019_Gi%C3%A1o%20tr%C3%ACnh%20KTCT%20MNL_KC.pdf



×