Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

(TIỂU LUẬN) dân CHỦ và dân CHỦ xã hội CHỦ NGHĨA THỰC TRẠNG và GIẢI PHÁP PHÁT HUY dân CHỦ TRONG LĨNH vực KINH tế ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.74 KB, 39 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP HỒ CHÍ
MINH 

BÀI TẬP LỚN MƠN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI 3
DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY DÂN CHỦ TRONG
LĨNH VỰC KINH TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LỚP DT07 --- NHÓM 12 --- HK 203 NGÀY NỘP: …/…/2021 Giảng
viên hướng dẫn: Thầy Đồn Văn Re

Thành phố Hồ Chí Minh – 2021



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 2
PHẦN NỘI DUNG...................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1: DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA............................ 6
1.1. Dân chủ và sự ra đời, phát triển của dân chủ.................................................. 6
1.1.1.

Quan niệm về dân chủ................................................................................... 6

1.1.2.

Sự ra đời và phát triển của dân chủ............................................................... 8

1.2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa................................................................................ 10
1.2.1.


Quá trình ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.....................................10

1.2.2.

Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa................................................. 13

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY DÂN CHỦ TRONG
LĨNH VỰC GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY............................................... 18
2.1. Các chủ trương xây dựng dân chủ trong lĩnh vực kinh tế ở nước ta..............18
2.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hiện dân chủ trong kinh tế............................18
2.1.2. Quan điểm của Đảng về thực hiện dân chủ trong kinh tế ở nước ta...............19
2.2. Thực trạng phát huy dân chủ trong lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam thời gian
qua.............................................................................................................................. 22
2.2.1. Thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay........................................................ 22
2.2.2. Những mặt đạt được....................................................................................... 27
2.2.3. Hạn chế và nguyên nhân................................................................................ 29
2.3. Giải pháp phát huy dân chủ trong lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam thời gian tới 32

KẾT LUẬN................................................................................................................ 34
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................... 36

1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Lịch sử phát triển dân chủ trong xã hội nhân loại chứng minh, mỗi một quốc gia
có quyền lựa chọn chế độ dân chủ phù hợp, không nhất thiết mô phỏng chế độ dân chủ
của quốc gia khác. Chế độ dân chủ của một quốc gia phù hợp với đặc điểm lịch sử,
văn hóa, thể chế chính trị, kinh tế... của từng nước, đồng thời cần khơng ngừng hồn

thiện và phát triển. Một nền dân chủ ưu việt và đích thực chỉ khi nó do chính nhân dân
lựa chọn và quyền làm chủ của nhân dân, các quyền con người, quyền công dân được
tôn trọng và bảo vệ.
Lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng, không xây dựng và phát triển nền dân
chủ và nhà nước xã hội chủ nghĩa thì không thể thực hiện quyền lực, quyền dân chủ,
quyền làm chủ và mọi lợi ích của nhân dân lao động trên thực tế các lĩnh vực của đời
sống xã hội trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Chúng ta biết rằng chủ tịch Hồ Chí Minh rất đề cao vai trò nhân dân, giác ngộ và
dựa vào dân, tin dân, trọng dân, đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh vĩ đại của nhân
dân, hiểu dân, phục vụ nhân dân, quan tâm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân. Tư tưởng nhân dân này chính là tư tưởng dân chủ. Nước ta là nước dân chủ câu nói mang ý nghĩa Tun ngơn của chủ tịch Hồ Chí Minh chính là nói lên bản chất
nhà nước ta, phương châm hành động của Chính phủ và cán bộ ta. Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn khẳng định dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đó là nhận
thức nhất quán của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thông
qua các kỳ đại hội cũng như hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo công cuộc xây dựng và phát
triển đất nước. Và từ lịch sử tổ chức, lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt
Nam ta thấy một trong những vấn đề có tính nguyên tắc mà Đảng luôn đặt lên hàng
đầu và nhất quán thực hiện trong mọi thời kỳ cách mạng là phát huy quyền làm chủ
của nhân dân. Trong thời kỳ mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát huy
dân chủ trong xã hội luôn được Đảng hết sức coi trọng thể hiện qua luận điểm mang
tính chỉ đạo là "Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh
vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật,
2


được pháp luật bảo đảm" 1. Các năm qua, những nội dung này vẫn tiếp tục được triển
khai trong hoạt động thực tiễn, đồng thời ln được bổ sung, hồn thiện và điều chỉnh
phù hợp với đặc điểm của từng giai đoạn lịch sử, tạo điều kiện để toàn dân phát huy
quyền làm chủ, và để việc thực hành dân chủ thật sự phát huy hiệu quả.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ là một nội dung cơ bản, quan trọng cấu thành
hệ thống tư tưởng của Người. Nội dung căn bản của tư tưởng đó khơng những là dân
chủ về chính trị, xã hội, văn hóa,... mà cả về kinh tế - lĩnh vực giữ vai trò nền tảng của
sự phát triển xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong kinh tế chứa đựng ý
nghĩa lý luận và khoa học, đồng thời có giá trị thực tiễn to lớn. Tư tưởng đó của Người
đã và đang được Đảng ta vận dụng trong sự nghiệp đổi mới đất nước nhằm hướng tới
mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đối với dân chủ trong kinh tế, tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa lý
luận sâu sắc và giá trị thực tiễn to lớn đối với cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ.
Quán triệt tư tưởng đó của Người, Đảng ta trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng, đặc
biệt là trong sự nghiệp đổi mới đã kế thừa, vận dụng và không ngừng phát triển sáng
tạo tư tưởng đó nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”, đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Việc thực hiện dân chủ trong lĩnh vực kinh tế của nước ta ngày một biến chuyển
theo sự phát triển của xã hội. Trong thời đại kinh tế hội nhập, nhờ những nước đi sáng
suốt mà kinh tế nước ta ngày một phát triển hơn. Song, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế,
những lỗ hổng cần phải khắc phục. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, đại dịch Covid
– 19 gây ảnh hưởng toàn diện, sâu rộng đến tất cả quốc gia, hiện vẫn đang diễn biến
vô cùng phức tạp. Kinh tế toàn cầu rơi vào suy thối nghiêm trọng. Việt Nam là một
quốc gia có độ mở nền kinh tế lớn, hội nhập quốc tế sâu rộng, cũng chịu nhiều tác
động của dịch bệnh Covid – 19.
Do đó việc nghiên cứu về thực hiện dân chủ trong kinh tế là hết sức cần thiết và
cấp bách nay lúc này. Trong bài tiểu luận này, ta sẽ phân tích những mặt đặt được và
hạn chế từ đó tìm ra nguyên nhân và đề xuất giải pháp để thực hiện tốt dân chủ trong
phát triển kinh tế ở nước ta trong giai đoạn sắp tới.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội - bổ sung, phát triển
năm 2011
1

3



2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là:
Thứ nhất, dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, thực trạng và giải pháp phát huy dân chủ trong lĩnh vực kinh tế ở Việt
Nam hiện nay.
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đề tài nghiên cứu về dân chủ, dân chủ xã hội trong lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam
hiện nay.
4. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Thứ nhất, làm rõ vấn đề lý luận về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, đánh giá thực trạng việc thực hiện dân chủ trong lĩnh vực kinh tế ở
Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, đề xuất giải pháp phát huy dân chủ trong lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam
trong thời gian tới.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài sử dụng đa dạng các phương pháp nghiên cứu, trong đó chủ yếu sử dụng
các phương pháp sau:
-

Phương pháp kết hợp lịch sử - logic

-

Phương pháp khảo sát và phân tích về mặt chính trị - xã hội dựa trên điều

kiện kinh tế - xã hội cụ thể
-


Phương pháp trừu tượng hóa khoa học

-

Phương pháp thống kê

-

Phương pháp thu thập tài liệu

6.

KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI

Ngoài mục lục, phẩn mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài gồm 2 chương:
-

Chương 1: Dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa.

4




Chương 2: Thực trạng và giải pháp phát huy dân chủ trong lĩnh vực kinh tế

Việt Nam hiện nay.

5



PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1. Dân chủ và sự ra đời, phát triển của dân chủ
1.1.1. Quan niệm về dân chủ
Thuật ngữ dân chủ là cách nói ngắn gọn cho khái niệm chế độ dân chủ hoặc
quyền dân chủ. Trong đó, chế độ dân chủ là chế độ chính trị mà tồn bộ quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân, do nhân dân thực hiện trực tiếp hoặc thông qua đại diện do
nhân dân bầu ra.
Khái niệm dân chủ là đặc điểm đặc trưng của các chế độ dân chủ xuyên suốt quá
trình lịch sử. Dân chủ được thể hiện rõ ràng nhất ở chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa,
với mục tiêu tốt đẹp là để xoá bỏ chế độ người bóc lột người, tạo ra ngày càng nhiều
hơn các điều kiện thuận lợi để thực hiện triệt để công bằng xã hội, dân chủ, văn minh,
cơng lí cho mọi người, bình đẳng thực sự giữa nam và nữ, giữa các dân tộc.

“Để thế giới khơng cịn sự tham lam, hận thù và tàn nhẫn. Để những thành tựu khoa
học có thể làm cho cuộc sống con người tốt đẹp hơn. Hỡi những người chiến sĩ, chúng
ta hãy cùng thống nhất như một nền dân chủ.”2
2

tham khảo ngày 23/06/2021
6


― Charlie Chaplin
Qua quá trình nghiên cứu các chế độ dân chủ trong lịch sử và thực tiễn lãnh đạo
cách mạng xã hội chủ nghĩa, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, dân
chủ là kết tinh, thành quả của tồn bộ q trình đấu tranh giai cấp cho những giá trị
tiến bộ của nhân loại, là một hình thức tổ chức nhà nước và là một trong những nguyên

tắc hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội.
Dân chủ theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin có các nội dung cơ bản sau
đây:
Thứ nhất, về phương diện quyền lực, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân,
nhân dân là chủ nhân của nhà nước. Dân chủ là quyền lợi của nhân dân, quyền lợi căn
bản nhất của nhân dân chính là quyền lực nhà nước thuộc sở hữu của nhân dân, của xã
hội. Bộ máy nhà nước phải vì nhân dân, vì xã hội mà phục vụ. Chỉ khi mọi quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân thì khi đó mới có thể đảm bảo về căn bản việc nhân dân
được hưởng quyền làm chủ với tư cách một quyền lợi. Thái độ với chính quyền, mức
độ quan tâm, chăm lo xây dựng, củng cố chính quyền là biểu hiện trực tiếp của sự giác
ngộ về dân chủ – dân là chủ và dân làm chủ.
Thứ hai, trên phương diện chế độ xã hội và trong lĩnh vực chính trị, dân chủ là
một hình thức hay hình thái nhà nước, là chính thể dân chủ hay chế độ dân chủ. Xét
dân chủ với tư cách là một chế độ nhà nước, thì đó là sự tổng hợp những hình thức và
phương thức tổ chức quyền lực nhà nước. Dân chủ luôn gắn liền với phương thức
phân phối lợi ích trong xã hội, dân chủ không chỉ là nhu cầu khát vọng cá nhân với tư
cách là cái riêng, mà dân chủ trở thành khát vọng chung, cái chung phù hợp với hình
thức tổ chức quyền lực, văn hóa, chính trị của Nhà nước. Do đó, dân chủ là phạm trù
lịch sử, hình thành, phát triển và mất đi cùng với Nhà nước.
Thứ ba, về phương diện tổ chức và quản lý xã hội, dân chủ là một nguyên tắc.
Nguyên tắc này kết hợp với nguyên tắc tập trung để hình thành nguyên tắc tập trung
dân chủ trong tổ chức và quản lý xã hội.
Tại Việt Nam, trên cơ sở quan điểm dân chủ của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về chế độ dân chủ: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức
7


là nhân dân là người chủ, mà Chính phủ là người đầy tớ trung thành của nhân dân” 3,
Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương xây dựng chế độ dân chủ xã hội nghĩa, mở rộng
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đem lại cơng bằng, bình đẳng cho mọi

người, từ đó làm nền tảng để phát triển đất nước tốt đẹp.
1.1.2. Sự ra đời và phát triển của dân chủ
Dân chủ có nguồn gốc từ Hy Lạp cổ đại.4 Thuật ngữ này xuất hiện đầu tiên tại
Athena, Hy Lạp trong thế kỷ thứ V TCN với cụm từ “demoskratos”, được ghép từ chữ
demos, "nhân dân" và kratos, "quyền lực" vào khoảng giữa thế kỷ thứ V đến thứ IV
trước Cơng ngun để chỉ hệ thống chính trị tồn tại ở một số thành bang Hy Lạp. Nổi
bật nhất là Anthena sau cuộc nổi dậy của dân chúng vào năm 508 TCN. 5 Cụ thể, hình
thức nhà nước này được Quốc vương Theseus - vị vua khai quốc của thành bang
Athena - áp dụng lần đầu tiên trong thời kỳ thượng cổ, chính phủ đó được xem là hệ
thống dân chủ đầu tiên.
Chế độ dân chủ đã được thành lập từ rất sớm từ thời chiếm hữu nô lệ ở nhà nước
Cộng hòa Aphia, đánh giá sự phát triển tiến bộ trong lịch sử xã hội loài người. Khi xã
hội chiếm hữu nô lệ ra đời, giai cấp chủ nô đã lập ra Nhà nước, và lấy tên là Nhà nước
dân chủ, tức là Nhà nước dân chủ chủ nô thống trị đại đa số người lao động là giai cấp
nơ lệ. Và khi đó thì Nhà nước chủ nơ mới chính thức sử dụng từ “dân chủ”. Có nghĩa
là Nhà nước dân chủ chủ nơ có “quyền lực của nhân dân”. Nhưng dân ở đây theo quy
địng của giai cấp chủ nô gồm giai cấp chủ nô, tăng lữ, thương gia, một số tri thức và
người tự do, cịn đại đa số nhân dân trở thành nơ lệ thì khơng được gọi là dân. Thực
chất, đây là giai cấp tư hữu, áp bức bóc lột đầu tiên lập ra Nhà nước và Luật pháp của
Nhà nước để chiếm quyền lực thực sự của nhân dân lao động.
Chế độ dân chủ chủ nô tiếp tục tồn tại cho đến khi chế độ độc tài phong kiến
chuyên chế xuất hiện. Do ý thức về dân chủ và tự do của người dân thời kỷ này còn
kém, họ đã bị thống trị và cho rằng đó là bổn phận cùa mình theo ý nguyện của các thế
lực siêu nhiên, đấng tối cao.
3
Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb. CTQG, H.1996, tập 6, tr.515.
John Dunn, Democracy: the unfinished journey 508 TCN - 1993 CN, Nxb. Oxford University Press,
1994
5 Kurt A. Raaflaub, Origin of Democracy in Ancient Greece, Nxb. University of California Press, 2007
4


8


Dưới chế độ phong kiến, nhà nước chuyên chế thi hành chính sách bóc lột bằng
thế quyền và thần quyền. Tuy người nơng dân có khá hơn người nơ lệ ở chỗ họ trở
thành thực thể tự do, khơng cịn bị coi là vật sở hữu của riêng giai cấp địa chủ nữa,
nhưng vẫn là người có nghĩa vụ phục vụ vô điều kiện cho giai cấp địa chủ và nhà nước
phong kiến. Bởi vì họ khơng có tư liệu sản xuất trong tay và bị lệ thuộc về kinh tế,
chính trị, tư tưởng, xã hội vào nhà nước phong kiến. Đối với các nhà nước phong kiến
thì bộ máy nhà nước là công cụ phục vụ và bảo vệ quyền lợi của vua chú phong kiến
và địa chủ, đồng thời, là công cụ trấn áp giai cấp nông dân và những người lao động
khác trong xã hội.
Cùng với thắng lợi của các cuộc cách mạng tư sản ở các nước châu Âu, chế độ
dân chủ tư sản ra đời – một bước tiến lớn của loài người mà từ đây góp phần xóa bỏ
chế độ phong kiến, tạo động lực thúc đẩy cho sự phát triển toàn diện của chủ nghĩa tư
bản. Đó cũng là thành quả chung của sự phát triển của loài người trên tất cả các lĩnh
vực tư tưởng, văn hóa và sau nhiều thế kỷ tồn tại và phát triển, nền dân chủ tư sản đã
đạt tới một trình độ mới với những thành quả to lớn đó là xây dựng một xã hội cơng
dân và một thể chế xã hội thúc đẩy cho sản xuất hàng hóa – thị trường tư bản chủ
nghĩa phát triển. Tuy có vai trị lớn như vậy nhưng dân chủ tư sản vẫn là hình thức
thống trị chính trị của giai cấp tư sản, là chế độ dân chủ hình thức, bị cắt xén, chế độ
dân chủ dành cho thiểu số. Còn đa số nhân dân lao động nghèo khổ thì bị hạn chế
trong thực thi các quyền dân chủ đã được tuyên bố trong các hiến pháp tư sản. Mặc dù
quyền lực “thuộc về nhân dân lao động” được tuyên bố mạnh mẽ và ghi nhận một cách
phổ biến trong Hiến pháp của các nước cộng hòa dân chủ tư sản nhưng trên thực tế nó
chỉ mang tính hình thức và được thực thi hạn chế, quyền lực chính trị thực sự thuộc về
giai cấp tư sản, mà đằng sau là các tập đoàn tư bản lớn.
Khi cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga thắng lợi (1917), thời đại quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội mở ra. Sự ảnh hưởng của cách mạng

Tháng Mười Nga đã giúp nhân dân lao động ở nhiều quốc gia giành được quyền làm
chủ nhà nước, làm chủ xã hội, thiết lập nhà nước công – nông, thiết lập nền dân chủ vô
sản để thực hiện quyền lực của đại đa số nhân dân. Bắt đầu hình thành nên nền dân chủ
thực sự.
9


1.2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa
1.2.1. Quá trình ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Ý tưởng về một xã hội cơng bằng, bình đẳng và bác ái đã xuất hiện từ lâu. Ý
tưởng đó xuất phát từ nguyện vọng của nhân dân lao động muốn thoát khỏi sự bất
công, bạo lực và chuyên chế, ước mơ xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó những
giá trị chân chính của con người được tơn trọng, mọi người đều có điều kiện để tự do
phát triển với tất cả mọi năng lực của mình. Những cuộc đấu tranh không ngừng của
nhân dân lao động trong lịch sử đã chứng minh cho điều đó.
Tuy nhiên, mãi đến cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI, tư tưởng về chủ nghĩa xã hội
(mới là chủ nghĩa xã hội không tưởng) mới được hình thành rõ nét. Thomas More
(1478 - 1535), một trong những người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội không tưởng, trong
tác phẩm nổi tiếng "Utôpia" (Xứ khơng tưởng) đã phê phán chế độ chính trị - xã hội
đương thời ở Anh, đồng thời phác họa một mơ hình xã hội, ở đó chế độ nhà nước được
xây dựng dựa trên sự bình đẳng và tự do của mọi người, tất cả những nhà chức trách
đều do nhân dân bầu ra, phải báo cáo trước nhân dân và phải hoạt động vì lợi ích của
nhân dân. Trong xã hội như vậy, chế độ công hữu thống trị và lao động mang tính bắt
buộc. Sau Thomas More, Tomado Campanela (1568 - 1639), tác giả của tác phẩm
"Thành phố mặt trời" và "Luận về thể chế nhà nước tốt nhất", đã tiếp tục phát triển tư
tưởng của Th.More và đi đến kết luận rằng, chế độ chính trị - xã hội lý tưởng mang lại
quyền lợi cho những người lao động đó là chế độ dựa trên sở hữu xã hội. Những
nguyên tắc xã hội chủ nghĩa của xã hội lý tưởng sẽ kéo theo cả sự thay đổi tính chất
của chế độ chính trị. T.Campanela cũng đã có tư tưởng về giáo dục trong xã hội lý
tưởng đó là, giáo dục gắn liền với lao động sản xuất và đề cao vai trò của sự phát triển

khoa học.
Mặc dù thấm đượm tư tưởng tiến bộ, chủ nghĩa xã hội của Th.More và
T.Campannela cịn nhiều điểm khơng tưởng. Cả hai ơng cùng chưa hình dung được
một cách cụ thể và có căn cứ khoa học về việc tạo lập một xã hội mới tốt đẹp hơn,
chưa nhận thức được một cách đúng đắn vai trò của những tiền đề chính trị, kinh tế và
tư tưởng để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hai ơng cịn lẫn lộn giữa pháp luật với đạo
đức, chưa đoạn tuyệt được hoàn toàn với hệ tư tưởng tôn giáo....
10


Các nhà kinh điển của chủ nghĩa xã hội khoa học, trên cơ sở tổng kết thực tiễn
đấu tranh cách mạng và những phát hiện khoa học mới về quy luật phát triển khách
quan của xã hội, đã đưa ra một lý thuyết khoa học về xã hội chủ nghĩa với lý tưởng
dân chủ, công bằng và nhân đạo, chỉ ra con đường và các biện pháp để tạo lập xã hội
đó. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa xã hội khoa học, nhà nước xã hội chủ nghĩa
là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử xã hội loài người. Sự ra đời, tồn tại và phát
triển của nhà nước xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan, phù hợp với các quy luật
vận động và phát triển của xã hội. Nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhà nước xã hội
chủ nghĩa là những tiền đề kinh tế, chính trị và xã hội đã phát sinh trong lòng xã hội tư
bản chủ nghĩa.
Thực tế lịch sử đã chứng minh, từ sau năm 1917 khi Cách mạng Tháng Mười
Nga thành công, nhà nước Xô Viết ra đời thì nền dân chủ xã hội mới chính thức được
thành lập. Sự xuất hiện của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đã đánh dấu bước đột phá
của nền dân chủ thế giới. Nó trở thành nhân tố có tác động mạnh mẽ tới sự phát triển
của xã hội, đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của cách mạng trong nhiều
nước, trong đó có những nước dân tộc thuộc địa và các nước chế độ tư bản chủ nghĩa
chưa phát triển, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đã diễn ra trong nhiều nước
và giành được thắng lợi. Nhiều nước đã tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Nhưng cách mạng vô sản sẽ diễn ra với kết quả như thế nào còn phụ thuộc vào

nhiều yếu tố khác nhau. Vì vậy, bên cạnh việc nghiên cứu những nguyên nhân khách
quan dẫn đến sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa, còn cần phải nghiên cứu những
nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về cách mạng vô sản, về việc tổ chức và
thực hiện chính quyền của giai cấp vơ sản sau khi cách mạng thành công. Theo chủ
nghĩa Mác – Lênin: “Giai cấp vơ sản khơng thể hồn thành cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa, nếu họ không được chuẩn bị để tiến tới cuộc cách mạng đó thơng qua cuộc đấu
tranh cho dân chủ. Và vì thế chủ nghĩa xã hội khơng thể duy trì và thắng lợi, nếu khơng
thực hiện đầy đủ tính dân chủ”6.

6

Lênin, Tồn tập, Nxb. CTQG – Sự thật (2005), Tập. 33, Tr. 34-35.
11


Quá trình phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là từ thấp tới cao, từ chưa
hoàn thiện đến hồn thiện; có sự kế thừa một cách chọn lọc giá trị của các nền dân chủ
trước đó, trước hết là nền dân chủ tư sản. Nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa là không ngừng mở rộng dân chủ, nâng cao mức độ giải phóng cho những
người lao động, thu hút họ tham gia tự giác vào công việc quản lý nhà nước, quản lý
xã hội. Càng hoàn thiện bao nhiêu, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lại càng tự tiêu vong
bấy nhiêu. Thực chất của sự tiêu vong này theo V.I.Lênin, đó là tính chính trị của dân
chủ sẽ mất đi trên cơ sở không ngừng mở rộng dân chủ đối với nhân dân, xác lập địa vị
chủ thể quyền lực của nhân dân, tạo điều kiện để họ tham gia ngày càng đơng đảo và
ngày càng có ý nghĩa quyết định vào sự quản lý nhà nước, quản lý xã hội (xã hội tự
quản). Q trình đó làm cho dân chủ trở thành một thói quen, một tập quán trong sinh
hoạt xã hội... để đến lúc nó khơng cịn tồn tại như một thể chế nhà nước, một chế độ,
tức là mất đi tính chính trị của nó.
Do đó, có thể hiểu dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cao hơn về chất so
với nền dân chủ có trong lịch sử nhân loại, là nền dân chủ mà ở đó, mọi quyền lực

thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ; dân chủ và pháp luật nằm trong sự
thống nhất biện chứng; được thực hiện bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Cũng cần lưu ý rằng, cho đến hiện tại, sự ra đời của nên dân xã hội chủ nghĩa
mới chỉ trong một thời gian ngắn, ở một số nưrớc có xuất phát điểm về kinh tế, xã hội
rất thấp, lại thường xuyên bị kẻ thù tấn công, gây chiến, do vậy, mức độ dân chủ được
ở những nước này hiện còn hạn chế ở hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngược
lại, sự ra đời, phát triển của nền dân chủ tư sản có thời gian cả mấy trăm năm, lại ở hầu
hết các nước phát triển (do điều kiện khách quan chủ quan). Hơn nữa, trong thời gian
qua, để tồn tại và thích nghi, chủ nghĩa tư bản đã có nhiều lần điều chỉnh về xã hội,
trong đó quyền con người đã được quan tâm ở một mức độ nhất định (tuy nhiên, bản
chất của chủ nghĩa tư bản không thay đổi). Nền dân chủ tư sản có nhiều tiến bộ, song
nó vẫn bị hạn chế bởi bản chất của chủ nghĩa tư bản.
Mục tiêu của dân chủ xã hội chủ nghĩa là nhằm xóa bỏ tệ nạn người bóc lột
người và tạo ra ngày càng nhiều điều kiện để thực hiện triệt để cơng bằng xã hội, cơng
lí cho mọi người, bình đẳng thực sự giữa nam với nữ, giữa các dân tộc, tạo cơ hội cho
12


mọi công dân mưu sinh và mưu cầu hạnh phúc. Vì vậy, để xây dựng và ngày một hồn
thiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi cần nhiều yếu tố như trình độ dân trí, xã
hội cơng dân, việc tạo dựng cơ chế pháp luật đảm bảo quyền tự do cá nhân, quyền làm
chủ nhà nước và quyền tham gia vào các quyết sách của nhà nước, điều kiện vật chất
để thực thi dân chủ.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một nền dân chủ của xã hội loài người tiến bộ trong
tương lai.
1.2.2. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Bản chất của dân chủ là một chế độ xã hội mà ở đó, dân chủ được hiểu là toàn
bộ quyền lực thuộc về nhân dân. Từ đó trở thành mục tiêu của sự phát triển xã hội,
được thực hiện trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Được thiết lập sau khi giai cấp cơng nhân giành được chính quyền về tay của
mình và nhân dân lao động thông qua cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Bản chất của dân chủ là mang bản chất giai cấp cơng nhân. Có sự thống nhất
giữa tính giai cấp cơng nhân với tính dân tộc, tính nhân dân, do lợi ích của giai cấp
cơng nhân phù hợp với lợi ích của giai cấp dân tộc, cũng như của đại đa số nhân dân
lao động.
Do Đảng Cộng sản lãnh đạo – yếu tố quan trọng bảo đảm quyền lực thực sự
thuộc về nhân dân. Bởi vì đảng cộng sản đại biểu cho trí tuệ và lợi ích của nhân dân
lao động, giai cấp cơng nhân và tồn dân tộc. Với nghĩa này, dân chủ xã hội chủ nghĩa
mang tính nhất nguyên về mặt chính trị.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện toàn diện trên các lĩnh vực đời sống xã
hội để thể hiện bản chất của dân chủ:
Bản chất chính trị: Dưới sự lãnh đạo duy nhất của một đảng giai cấp công nhân
(đảng Mác – Lênin) mà trên mọi lĩnh vực xã hội đều thực hiện quyền lực của nhân
dân, thể hiện qua các quyền dân chủ, làm chủ, quyền con người, thoả mãn ngày càng
cao hơn các nhu cầu và lợi ích của nhân dân.

13


Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ rõ: bản chất chính trị của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp cơng nhân thơng qua đảng của nó đối với
tồn xã hội, nhưng khơng phải chỉ để thực hiện quyền lực và lợi ích riêng cho giai cấp
công nhân, mà chủ yếu là để thực hiện quyền lực và lợi ích của tồn thể nhân dân,
trong đó có giai cấp cơng nhân. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa do đảng Cộng sản lãnh
đạo – yếu tố quan trọng để đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, bởi vì, đảng
Cộng sản đại biểu cho trí tuệ, lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và
tồn dân tộc. Với nghĩa này, dân chủ xã hội chủ nghĩa mang tính nhất nguyên về chính
trị. Sự lãnh đạo của giai cấp cơng nhân thơng qua đảng Cộng sản đối với tồn xã hội

về mọi mặt V.I.Lênin gọi là sự thống trị chính trị.
V.I.Lênin cịn nhấn mạnh rằng: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ mà nhân dân
ngày càng tham gia nhiều vào công việc nhà nước. Do vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa
vừa mang bản chất giai cấp cơng nhân, vừa mang tính nhân dân rộng rãi và tính dân
tộc sâu sắc.
Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân lao động là những người làm chủ
những quan hệ chính tị trong xã hội. Họ có quyền giới thiệu các đại biểu tham gia vào
bộ máy chính quyền từ trung ướng đến địa phương, tham gia đóng góp ý kiến và xây
dựng chính sách, pháp luật, xây dựng bộ máy và cán bộ, nhân viên nhà nước. Quyền
được tham gia rộng rãi vào công việc quản lý nhà nước của nhân dân chính là nội
dung dân chủ trên lĩnh vực chính trị. V.I.Lênin cịn nhấn mạnh rằng: dân chủ xã hội
chủ nghĩa là là chế độ dân chủ của đại đa số dân cư, của những người lao động bị bóc
lột, là chế độ mà nhân dân ngày càng tham gia nhiều vào công việc Nhà nước. Với ý
nghĩa đó, V.I.Lênin đã diễn đạt một cách khái quát về bản chất và mục tiêu của dân
chủ xã hội chủ nghĩa rằng: đó là nền dân chủ “gấp triệu lần dân chủ tư sản” 7
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc
biệt nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng chế độ dân chủ, thể chế chính trị và thể chế
nhà nước dân chủ, nhà nước của dân, do dân và vì dân. Người khẳng định: “Bao nhiêu
lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Cơng việc đổi mới, xây dựng là
trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính
7

V.I.Lênin, Tồn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcova. 1980, tập 35, tr.39
14


quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã
do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”8. Nhà nước ta
là nhà nước của dân; coi nhân dân là chủ thể quyền lực; nhà nước là cơng cụ của nhân
dân, là hình thức để tập hợp, quy tụ sức mạnh của toàn dân tộc vào sự nghiệp chung

chứ nhà nước không phải là nơi để “thăng quan, phát tài”, chia nhau quyền lực, lợi ích
và bổng lộc.
Sau khi nước nhà giành độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ cách
mạng Việt Nam dân chủ cộng hòa, Người yêu cầu tổ chức càng sớm càng tốt cuộc
Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Nhà nước do dân tức là dân phải tham
gia vào công việc của nhà nước. Quốc hội nước ta tuy ở vị trí cao nhất song không phải
là cơ quan tập trung tất cả quyền lực. Khi xuất hiện những công việc liên quan đến vận
mệnh của quốc gia, thì sẽ được đưa ra tồn dân. Nhà nước vì dân, tức nhà nước ta
ngồi lợi ích phục vụ dân chúng khơng có lợi ích nào khác, đó là bản chất giai cấp
cơng nhân của Nhà nước ta.
Xét về bản chất chính trị, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai cấp cơng
nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc. Do vậy, nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa khác về chất so với nền dân chủ tư sản ở bản chất giai cấp (giai cấp công
nhân và giai cấp tư sản); ở cơ chế nhất nguyên và cơ chế đa nguyên; một đảng hay
nhiều đảng; ở bản chất nhà nước (nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà nước
pháp quyền tư sản).
Bản chất kinh tế: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu xã hội về
những tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội đáp ứng sự phát triển ngày càng cao
của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa học – công nghệ hiện đại nhằm thỏa mãn
ngày càng cao những nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động.
Bản chất kinh tế đó chỉ được bộ lộ đầy đủ qua một quá trình ổn định chính trị,
phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của toàn xã hội, dưới sự lãnh đạo của đảng
Mác – Lênin và quản lý, hướng dẫn, giúp đỡ của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trước hết
đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân về các tư liệu sản xuất chủ yếu; quyền làm chủ

8

Hồ Chí Minh, Sđd, tập 5, tr698.
15



trong quá trình sản xuất kinh doanh, quản lý và phân phối, phải coi lợi ích kinh tế của
người lao động là động lực cơ bản nhất có sức thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển.
Bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dù khác về bản chất kinh tế
của các chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột, bất cơng, nhưng cũng như tồn bộ nền kinh tế
xã hội chủ nghĩa, nó khơng hình thành từ “hư vơ” theo mong muốn của bất kỳ ai. Kinh
tế xã hội chủ nghĩa cũng là sự kế thừa và phát triển mọi thành tựu nhân loại đã tạo ra
trong lịch sử, đồng thời lọc bỏ những nhân tố lạc hậu, tiêu cực, kìm hãm... của các chế
độ kinh tế trước đó, nhất là bản chất tư hữu, áp bức, bóc lột, bất cơng... đối với đa số
nhân dân.
Khác với nền dân chủ tư sản, bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
là thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu thực hiện chế độ phân phối
lợi ích theo kết quả lao động là chủ yếu.
Bản chất tư tưởng – văn hóa – xã hội: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư
tưởng Mác – Lênin – hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, làm chủ đạo đối với mọi
hình thái ý thức xã hội khác trong xã hội mới (như văn học nghệ thuật, đạo đức, lối
sống, văn hố, giáo dục, xã hội, tơn giáo v.v.) để thể hiện bản chất của dân chủ. Đồng
thời nó kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hóa truyền thống dân tộc, tiếp thu những
giá trị tư tưởng – văn hóa, văn minh, tiến bộ xã hội... mà nhân loại đã tạo ra ở tất cả các
quốc gia, dân tộc.... Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân được làm chủ
những giá trị văn hóa tinh thần; được nâng cao trình độ văn hóa, có điều kiện để phát
triển cá nhân. Dưới góc độ này dân chủ là một thành tựu văn hóa, một quá trình sáng
tạo văn hóa, thể hiện khát vọng tự do được sáng tạo và phát triển của con người.
Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có sự kết hợp hài hịa về lợi ích giữa các
nhân, tập thể và lợi ích của tồn xã hội. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ra sức động
viên, thu hút mọi tiềm năng sáng tạo, tính tích cực xã hội của nhân dân trong sự nghiệp
xây dựng xã hội mới.
Do đó đời sống tư tưởng văn hóa của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa rất phong
phú, đa dạng, toàn diện và ngày càng trở thành một nhân tố quan trọng hàng đầu, thành
mục tiêu và động lực cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.


16


Với những bản chất nêu trên, dân chủ xã hội chủ nghĩa trước hết và chủ yếu được
thực hiện bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là kết quả hoạt động tự giác của
quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, dân chủ xã hội chủ
nghĩa chỉ có được với điều kiện tiên quyết là đảm bảo vai trò lãnh đạo duy nhất của
đảng Cộng sản. Bởi lẽ, nhờ nắm vững hệ tư tưởng cách mạng và khoa học của chủ
nghĩa Mác – Lênin và đưa nó vào quần chúng, Đảng mang lại cho phong trào quần
chúng tính tự giác cao trong quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; thơng
qua cơng tác tun truyền, giáo dực của mình, Đảng nâng cao trình độ giác ngộ chính
trị, trình độ văn hóa dân chủ của nhân dân để họ có khả năng thực hiện hữu hiệu những
yêu cầu dân chủ phản ánh đứng quy luật phát triển xã hội. Chỉ dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, nhân dân mới đấu tranh có hiệu quả chống lại mọi mưu đồ lợi dụng
dân chủ vì những động cơ đi ngược lại mọi mưu đồ lợi dụng dân chủ vì những động cơ
đi ngược lại lợi ích của nhân dân.
Với những ý nghĩa như vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhất ngun về chính trị
bảo đảm vai trị lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản không loại trừ nhau mà ngược
lại, chính sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện cho dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời, tồn
tại và phát triển.

17


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY DÂN CHỦ TRONG
LĨNH VỰC GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Các chủ trương xây dựng dân chủ trong lĩnh vực kinh tế ở nước ta
2.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hiện dân chủ trong kinh tế
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, việc kiến thiết nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã

hội và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta “có bốn vấn đề chú ý đến;
cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa” 9. Để dân là chủ,
dân làm chủ trên thực tế cần phải có những cơ sở, điều kiện, môi trường và không gian
dân chủ tương ứng. Nói riêng về thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trong kinh tế ở
nước ta, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần phải:
Một là, tơn trọng, bảo đảm phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều loại
hình sở hữu tư liệu sản xuất khác nhau, trong đó, kinh tế quốc doanh giữ vai trị chủ
đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, trong chế độ dân chủ mới có năm loại kinh tế
khác nhau: kinh tế quốc doanh; các hợp tác xã; kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ
công nghệ; tư bản tư nhân; tư bản nhà nước 10. Có những hình thức sở hữu tư liệu sản
xuất cơ bản như: sở hữu nhà nước (toàn dân); sở hữu của hợp tác xã (tập thể nhân dân
lao động); sở hữu của những người lao động riêng lẻ; sở hữu của nhà tư bản 11. Trong
đó, “kinh tế quốc doanh lãnh đạo nền kinh tế quốc dân và nhà nước phải đảm bảo cho
nó phát triển ưu tiên để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội và thúc đẩy việc cải
tạo xã hội chủ nghĩa”12. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:“Chế độ kinh tế xã hội của
chúng ta nhằm thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, trên cơ sở kinh tế xã hội
chủ nghĩa ngày càng phát triển, cách bóc lột tư bản chủ nghĩa được xố bỏ dần, đời
sống vật chất và văn hóa của nhân dân ngày càng được cải thiện. Do đó, nhân dân ta có
điều kiện thực sự tham gia quản lý nhà nước” 13. Và như thế, nhân dân ta, “từ làm chủ
tư liệu sản xuất, họ phải được làm chủ việc quản lý kinh tế, làm chủ việc phân phối sản
phẩm lao động”14.

9Hồ Chí Minh, Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, Nxb Văn học, H.1981, Tr. 517.
10 Hồ Chí Minh, Tồn tập, Tập 7, Nxb. CTQG, H.2000, Tr. 279.
11 Hồ Chí Minh, Tồn tập, Tập 9, Nxb. CTQG, H.2000, Tr. 588. 12
Hồ Chí Minh, Tồn tập, Tập 9, Nxb. CTQG, H.2000, Tr. 590. 13
Hồ Chí Minh, Tồn tập, Tập 9, Nxb. CTQG, H.2000, Tr. 592. 14
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 12, Nxb. CTQG, H.2000, Tr. 568.
18



Hai là, chú trọng tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế để thốt đói nghèo và vươn
lên giàu có. Xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp
hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến, nòng cốt là kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác.
Không ngừng cải thiện đời sống nhân dân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh dân chủ xã hội
chủ nghĩa là làm cho nhân dân thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có cơng ăn,
việc làm, được ấm no và sống cuộc đời hạnh phúc. Người nhấn mạnh, cùng với thực
hành tiết kiệm, tăng gia sản xuất, là hai việc cần thiết nhất để phát triển chế độ dân
chủ nhân dân tiến dần lên chủ nghĩa xã hội 15. Phải giải phóng sức sản xuất, phát triển
sản xuất, trong đó chú ý tăng cường các hình thức hợp tác phù hợp để mang lại no đủ,
giàu có, thịnh vượng, công bằng, tiến bộ, hạnh phúc cho đa số nhân dân lao động.
Ba là, về mặt tổ chức, quản lý kinh tế, quản lý sản xuất phải có kế hoạch thống
nhất, dân chủ và hợp lý. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “kế hoạch sản xuất và tiết kiệm
là kế hoạch dân chủ, nghĩa là từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, nghĩa là Chính phủ
trung ương có kế hoạch cho tồn quốc, địa phương căn cứ vào kế hoạch tồn quốc mà
đặt kế hoạch thích hợp với địa phương, cho đến mỗi ngành, mỗi gia đình, mỗi người
có kế hoạch riêng của mình, ăn khớp với kế hoạch chung” 16. Cán bộ phải biết lao động
và phải tham gia lao động; người lao động phải biết quản lý và tham gia quản lý.
Bốn là, thực hiện nguyên tắc phân phối công bằng, hợp lý “làm nhiều hưởng
nhiều, làm ít hưởng ít, khơng làm khơng hưởng, những người già yếu, tàn tật sẽ được
nhà nước giúp đỡ chăm nom”17. Các quan hệ lợi ích phải được giải quyết hài hòa, cá
nhân và tập thể, nhà nước và nhân dân… phải đều có lợi.
2.1.2. Quan điểm của Đảng về thực hiện dân chủ trong kinh tế ở nước ta
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986), khi phân tích về tình trạng bng
lỏng trong quản lý kinh tế xã hội, tình trạng quan liêu, mệnh lệnh, dân chủ biến thành
vơ chủ, dân chủ hình thức... đã cho rằng, nguyên nhân của mọi nguyên nhân là những
khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ. Để khắc phục
khuyết điểm, xoay chuyển tình hình, Đảng phải thay đổi nhận thức, đổi mới tư duy,
trong đó có đổi mới tư duy, nhận thức về vấn đề xây dựng các điều kiện để thực hiện
15

16
17

Hồ Chí Minh, Tồn tập, Tập 8, Sđd, Tr. 349.
Hồ Chí Minh, Tồn tập, Tập 6, Sđd, Tr. 434.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 9, Nxb. CTQG, H.2000, Tr. 75.
19


dân chủ xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực đời sống xã hội, nhất là trên lĩnh vực kinh
tế. Muốn vậy, “phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác –
Lênin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh…”18, trong đó có tư tưởng, lý luận về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở lý luận dân chủ của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng dân chủ của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Đại hội VI đặt vấn đề giải phóng sức sản xuất; bố trí lại cơ cấu sản
xuất, điều chỉnh cơ cấu đầu tư; xây dựng, hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; khẳng định cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ; xóa bỏ
những thành kiến thiên lệch trong đánh giá, đối xử với người lao động thuộc các thành
phần kinh tế khác nhau. Đảng đưa ra chủ trương: đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trên
cơ sở đổi mới cơ cấu kinh tế, thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần và chuyển sang
nền kinh tế sản xuất hàng hóa; kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp,
xây dựng cơ chế quản lý có kế hoạch theo phương thức hạch tốn kinh doanh xã hội
chủ nghĩa... Theo đó, “cần sửa đổi, bổ sung và công bố rộng rãi chính sách nhất quán
đối với các thành phần kinh tế. Những quy định có tính ngun tắc phải trở thành pháp
luật để mọi người yên tâm, mạnh dạn kinh doanh” 19. Hội nghị Trung ương 6 khóa VI
(3/1989) khẳng định: “chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu
dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội và thể hiện tinh thần dân
chủ về kinh tế, bảo đảm cho mọi người được tự do làm ăn theo luật pháp”20.

Sau 5 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) khẳng định sản xuất hàng
hóa là thành tựu phát triển của văn minh nhân loại, nó khơng những khơng đối lập với
chủ nghĩa xã hội mà còn tất yếu cần thiết với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đại hội khẳng định: “chúng ta chủ trương thực hiện nhất quán chính sách kinh tế
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa”21.
Với Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa X (01/2008) Về tiếp tục hồn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhận thức lý luận của Đảng về
18
19
20
21

Hồ Chí Minh, Tồn tập, Tập 8, Sđd, Tr. 341.
Hồ Chí Minh, Tồn tập, Tập 8, Sđd, Tr. 545.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 49, Nxb. CTQG, H.2010, Tr. 595.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, Nxb. CTQG, H.2010, Tr. 19.
20


cơ sở, điều kiện kinh tế của dân chủ xã hội chủ nghĩa có những bước tiến mới, mạnh
mẽ và sâu sắc hơn. Đảng ta nhấn mạnh: tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức; đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy
đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích
đất nước làm mục tiêu cao nhất; nâng cao vai trò, hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà
nước bằng sự đồng bộ của hệ thống pháp luật...
Tổng kết 25 năm đổi mới, văn kiện Đại hội XI tiếp tục bổ sung, điều chỉnh nhận
thức về cơ sở, điều kiện kinh tế của dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trong đó,
đáng chú ý là: đổi mới mơ hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất
lượng, hiệu quả, phát triển kinh tế nhanh, bền vững; phát triển công nghiệp và xây

dựng theo hướng hiện đại, tiếp tục tạo nền tảng cho một nước công nghiệp và nâng cao
khả năng độc lập, tự chủ của nền kinh tế; phát triển nông - lâm - ngư nghiệp tồn diện
theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố gắn với giải quyết tốt vấn đề nông dân,
nông thôn; phát triển các ngành dịch vụ, nhất là dịch vụ tài chính, ngân hàng, thương
mại, du lịch và các dịch vụ có giá trị gia tăng cao; tập trung xây dựng, tạo bước đột
phá về hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước; phát
triển kinh tế - xã hội hài hòa giữa các vùng, đô thị và nông thôn…
Trong gần 30 năm đổi mới, Đảng ta đã hình thành một hệ thống quan điểm lý
luận mới về xây dựng điều kiện kinh tế để thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trong
lĩnh vực kinh tế của đất nước. Đó là, phát triển lực lượng sản xuất hiện đại thông qua
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức,
bảo vệ tài nguyên, môi trường; thiết lập quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp bằng cách
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ sở, điều kiện, nền
tảng kinh tế, là cơ chế, phương thức cơ bản và là con đường tất yếu để thực hiện dân
chủ xã hội chủ nghĩa về kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đây chính là sự trở về, tiếp tục, vận dụng và phát triển lý luận dân chủ của chủ nghĩa
Mác – Lênin

21


(nhất là Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin) và tư tưởng dân chủ của Chủ tịch
Hồ Chí Minh trong điều kiện mới ở Việt Nam. Đây được xem là sáng tạo lý luận quan
trọng có ý nghĩa thực tiễn to lớn, sâu sắc của Đảng ta trong tiến trình đổi mới.
2.2. Thực trạng phát huy dân chủ trong lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam thời gian
qua
Trong bài viết mới nhất của mình về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu rõ: “Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa,
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dực chủ nghĩa xã hội; xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một

nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Chúng ta chủ trương không
ngừng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông
dân và tri thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước đại diện cho quyền
làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có
cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội” 22. Từ đó chúng ta có thể thấy
được Đảng và nhân dân ta luôn cố gắng thực hiện dân chủ trong mọi vấn đề trong suốt
35 năm đổi mới. Cơng cuộc thực hiện dân chủ đó đã diễn ra trên tồn bộ hệ thống
khơng chỉ dân chủ trong chính trị, văn hóa, xã hội… mà cịn đạt được nhiều thành tựu
to lớn cả trong kinh tế - lĩnh vực giữ vai trò nền tảng trong sự phát triển của xã hội.
Tuy nhiên, trong suốt q trình đó vẫn còn nhiều vấn đề hạn chế tồn đọng trong lĩnh
vực kinh tế mà Đảng và Nhân dân ta cần phải đồng sức đồng lịng để tìm hướng giải
quyết trong thời gian tới để hướng tới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thành
cơng. Qua những gì tìm hiểu được, nhóm đã rút ra được những góc nhìn về thực trạng
thực hiện dân chủ trong lĩnh vực kinh tế của nước ta trong thời gian qua.
2.2.1. Thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay
Từ khi dành được độc lập, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhận thức được dân
chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đó là nhận thức nhất quán của Đảng ta về
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tính nhất quán đấy được thể hiện rõ ràng và cụ thể ở
GS.TS Nguyễn Phú Trọng. (16/05/2021). Một số vấn đề lý luận thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Truy cập từ: />22

22


các văn kiện, nghị quyết Đại hội Đảng và những hoạt động chỉ đạo trong công cuộc
xây dựng phát triển đất nước. Đại hội IV năm 1976 của Đảng đã khẳng định: “Để đưa
cách mạng xã hội chủ nghĩa đến toàn thắng, điều kiện quyết định trước tiên là phải
thiết lập và khơng ngừng tăng cường chun chính vơ sản, thực hiện và không ngừng

phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động” 23. Đại hội cũng đã chỉ rõ:
“Xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa là xây dựng một xã hội trong đó
người làm chủ là nhân dân lao động có tổ chức, mà nịng cốt là liên minh cơng nơng,
do giai cấp công nhân lãnh đạo. Để xây dựng quyền làm chủ tập thể về kinh tế, Đảng
yêu cầu phải xoá bỏ chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa và cải tạo chế độ sở hữu cá thể,
xác lập chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa dưới hai hình thức: Sở hữu tồn dân và sở hữu
tập thể bằng những phương pháp và bước đi thích hợp”24.
Kỳ Đại hội tiếp theo năm 1982 cũng đã khẳng định một lần nữa: “Nắm vững
chun chính vơ sản, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, tiến hành đồng
thời ba cuộc cách mạng: Cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ
thuật, cách mạng tư tưởng và văn hố, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then
chốt; đẩy mạnh cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây
dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, con người mới xã
hội chủ nghĩa…”25. Đại hội V còn nhấn mạnh: “Đường lối chung và đường lối kinh tế
là một thể thống nhất hồn chỉnh, trong đó có mấy vấn đề cần đặc biệt chú ý là: Nắm
vững chun chính vơ sản, xây dựng chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động và
tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa”26.
Tuy nhiên những chính sách đấy đã khơng thực sự đưa được vào thực tiễn đời
sống của nhân dân, trong khi nền kinh tế chưa đủ điều kiện cơ sở vật chất để tiến lên
chủ nghĩa xã hội thì Nhà nước lại thực thi chế độ quan liêu bao cấp. Nhà nước loại bỏ
dần thành phần kinh tế tư nhân thay vào đó là nền kinh tế do Nhà nước chỉ huy. Việc

23

Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV. Nxb Sự thật, Hà
Nội, 1977, tr.18.
24 Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV. Nxb Sự thật, Hà Nội,
1977, tr.22.
25 Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, t.1. Nxb Sự thật, Hà Nội,

1982, tr.47.
26 Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, t.1. Nxb Sự thật, Hà Nội,
1982, tr.49.
23


×