Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học đề tài QUAN điểm DUY vật BIỆN CHỨNG về mối QUAN hệ GIỮA vật CHẤT với ý THỨC và vận DỤNG vào CÔNG CUỘC đổi mới ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.63 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài: QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ MỐI QUAN HỆ

GIỮA VẬT CHẤT VỚI Ý THỨC VÀ VẬN DỤNG VÀO CÔNG CUỘC
ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Sinh viên thực hiện:
Mã sinh viên:
Lớp tín chỉ:
Lớp hành chính:
GV hướng dẫn:

Hà Nội, tháng 12 năm 2021


Mục lục
DANH MỤC VIẾT TẮT…………………………………………………………...2
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………....3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT
CHẤT VÀ Ý THỨC………………………………………………………………..6
1.1.

Vật chất………………………………………………………………………6

1.1.1. Định nghĩa vật chất của Lênin……………………………………………..6
1.1.2. Các hình thức tồn tại của vật chất……………………………………...….7
1.2. Ý thức…………………………………………………………………………..7
1.2.1. Nguồn gốc của ý thức………………………………………………………7


1.2.2. Bản chất của ý thức………………………………………………………...8
1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức………………………………9
1.3.1. Vai trò của vật chất với ý thức……………………………………………..9
1.3.2. Vai trò của ý thức với vật chất……………………………………………10
1.3.3. Ý nghĩa phương pháp luận và ý nghĩa thực tiễn………………………….11
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ MỐI
QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VÀO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY…………………………………………………………..13
2.1. Xuất phát từ thực tế khách quan và bám sát thực tiễn………………………..13
2.2. Phát huy vai trò của tính năng động chủ quan………………………………..16
2.3. Chú tâm mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa………………………………..18
KẾT LUẬN………………………………………………………………………..20
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………………21
1


DANH MỤC VIẾT TẮT

CNDVBC

Chủ nghĩa duy vật biện chứng

CNDV

Chủ nghĩa duy vật

CNXH

Chủ nghĩa xã hội


CNTB

Chủ nghĩa tư bản

TBCN

Tư bản chủ nghĩa

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

Nxb

Nhà xuất bản

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế giới quan xung quanh con người dù đa dạng, phức tạp đến đâu, dù trong
bối cảnh lịch sử nào đều quy về hai dạng tồn tại là vật chất và ý thức. Quan điểm
CNDVBC Mác-Lênin đã chỉ ra rằng vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết
định ý thức nhưng đồng thời ý thức cũng tác động trở lại vật chất. Mối quan hệ này
đã được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng để tìm ra phương hướng phát triển
cho mình, trong đó có cả Việt Nam.
Tiến lên CNXH là mục tiêu cách mạng lớn lao nhất và quan trọng nhất của
Đảng và nhân dân ta hiện nay vì chỉ có thực hiện được mục tiêu này, chúng ta mới
có thể xây dựng được một nước Việt Nam giàu mạnh, văn minh. Tại Đại hội lần

thứ VII, Đảng ta lần đầu tiên đã khẳng định: Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng [1]. Tức là,
chúng ta phải: dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác- Lênin mà
tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc
điểm của nước ta. Có như thế chúng ta mới có thể định ra được đường lối, phương
châm, bước đi cụ thể của Cách mạng XHCN phù hợp với tình hình nước ta. Tuy đã
đạt nhiều thành tựu to lớn, làm thay đổi bộ mặt đất nước, tạo ra thế và lực mới từ
công cuộc đổi mới, nền kinh tế của nước ta vẫn còn tụt hậu so với các nước khác
trong khu vực. Trước tình hình đó, Đảng và nhà nước ta cần tiếp tục tiến hành và
đẩy mạnh công cuộc đổi mới tồn diện đất nước, trong đó đổi mới kinh tế đóng vai
trị then chốt, giữ vị trí chủ đạo. Đồng thời đổi mới về văn hóa cũng mang tính cấp
bách bởi giữa đổi mới kinh tế và đổi mới văn hóa có mối liên hệ ràng buộc chặt chẽ
với nhau khơng thể tách rời nhau. Chính vì vậy, chúng ta cần tìm hiểu sâu sắc mối
quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, tạo cơ sở lý luận đúng đắn cho việc vận
dụng vào mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa của đất nước, xây dựng Việt Nam
ngày càng phát triển.
3


Có thể thấy việc nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức có
một ý nghĩa tích cực cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Nhận thấy được điều này cùng
với mong muốn hệ thống hóa những kiến thức liên quan đến triết học đã tích lũy
được, tơi đã chọn đề tài “Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật
chất với ý thức và vận dụng vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.” Bài viết
sẽ phân tích và làm rõ những lý luận chung nhất về vật chất và ý thức, mối quan hệ
biện chứng giữa chúng và sự vận dụng những lý luận trên vào công cuộc đổi mới
Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của tiểu luận là sử dụng hệ thống lý luận triết học về mối

quan hệ giữa vật chất và ý thức theo quan điểm duy vật biện chứng nhằm làm rõ
vai trò của mối quan hệ đó vào việc xây dựng đất nước phát triển.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu tổng quan, các khái niệm liên quan.
Phân tích ý nghĩa phương pháp luận, ý nghĩa thực tiễn của mối quan hệ
biện chứng giữa vật chất và ý thức.
Nghiên cứu phương pháp áp dụng những lý luận đã có vào cơng cuộc đổi
mới nước ta.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của tiểu luận là vật chất- ý thức, mối quan hệ biện
chứng giữa chúng và tình hình cơng cuộc đổi mới đất nước ở Việt Nam.
4. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần danh mục viết tắt, mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, tiểu luận
gồm 2 phần như sau:
4


 Phần 1: Cơ sở lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
 Phần 2: Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay

5


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG
GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1.1. Vật chất
1.1.1. Định nghĩa vật chất của Lênin
Cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật vào cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ
XX, CNDV rơi vào khủng hoảng. Trong bối cảnh đó, để chống lại sự xuyên tạc của

các nhà triết học duy tâm đồng thời bảo vệ và phát triển thế giới quan duy vật,
V.I.Lênin đã tổng kết những thành tựu khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX cũng như kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen để đưa ra một định
nghĩa về phạm trù vật chất khoa học nhất, hoàn chỉnh nhất trong tác phẩm “Chủ
nghĩa duy vật và Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” như sau: “Vật chất là một
phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Định nghĩa này bao gồm những
nội dung quan trọng sau:
- Thứ nhất, cần phân biệt rõ khái niệm “vật chất” với tư cách là phạm trù triết học
(tức phạm trù khái quát thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi tồn tại vật
chất và được xác định từ góc độ giải quyết vấn đề cơ bản của triết học) với khái
niệm “vật chất” được sử dụng trong một số ngành khoa học cụ thể hoặc trong đời
sống thường ngày.
- Thứ hai, vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc
vào ý thức của con người dù cho con người nhận thức được hay không nhận thức
được nó.
- Thứ ba, vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người bằng cách tác động lên giác
quan của con người một cách trực tiếp hoặc gián tiếp rồi được cảm giác chép lại,

6


chụp lại, phản ánh lại. Từ đó ta có thể hiểu rằng vật chất là có trước, ý thức là có
sau.
1.1.2. Các hình thức tồn tại của vật chất
1.1.2.1. Vận động
Dựa theo quan điểm siêu hình, vận động là sự di chuyển vị trí cả vật thể trong
khơng gian, thời gian, và nguồn gốc của sự vận động là ở bên ngoài sự vật hiện
tượng. Tuy nhiên, các nhà duy vật biện chứng cho rằng vận động là mọi sự biến đổi

nói chung. Nó là phương thức tồn tại của vật chất và là thuộc tính cố hữu của vật
chất. Vật chất và vận động không tách rời nhau, vật chất chỉ có thể tồn tại bằng
cách vận động và thông qua sự vận động mà biểu hiện. Bất cứ sự vật, hiện tượng
nào dù trong tự nhiên hay trong xã hội, dù là vật thể vô cùng lớn như các hành tinh,
thiên hà,… hay vật thể vô cùng nhỏ như các hạt cơ bản, dù thuộc giới vô sinh hay
hữu sinh cũng đều tồn tại trong trạng thái vận động, biến đổi không ngừng.
1.1.2.2. Không gian và thời gian
Các nhà duy vật cho rằng không gian và thời gian là các hình thức tồn tại của
vật chất. Khơng có vật chất nào tồn tại bên ngồi khơng gian, thời gian cũng như
khơng có khơng gian, thời gian nào tồn tại bên ngồi vật chất. Khơng gian và thời
gian có những tính chất sau đây:
- Tính khách quan
- Tính vĩnh cửu của thời gian và tính vơ tận của khơng gian
- Tính ba chiều của khơng gian và tính một chiều của thời gian
1.2. Ý thức
1.2.1. Nguồn gốc của ý thức
- Nguồn gốc tự nhiên: Theo quan điểm của CNDVBC, ý thức là một thuộc tính của
vật chất nhưng khơng phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính của một dạng
7


vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc con người. Ý thức khơng tự sinh ra trong bộ
óc mà là kết quả phản ánh sự tác động của thế giới bên ngoài vào bộ não người.
- Nguồn gốc xã hội: Ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc người nhờ
lao động, ngơn ngữ và những quan hệ xã hội. Nguồn gốc trực tiếp và quan trọng
nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội.
1.2.2. Bản chất của ý thức
Theo quan điểm của Mác: Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Ý thức là q trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan vào trong bộ
óc của con người.

Trước hết, ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan, nhưng nó là cái thuộc
phạm vi chủ quan, là thực tại chủ quan, khơng có tính vật chất. Ý thức là hình ảnh
phi cảm tính của các đối tượng vật chất có tồn tại cảm tính. Ý thức bao giờ cũng là
ý thức của con người. Mỗi con người đều tồn tại trong một xã hội nhất định. Ý thức
phát triển tùy thuộc vào sự phát triển của xã hội, vì vậy, ý thức bao giờ cũng có bản
chất xã hội.
Tuy nhiên, ý thức khơng phải là bản sao giản đơn, thụ động máy móc của sự
vật. Ý thức là của con người, mà con người là một thực thể xã hội năng động nên ý
thức từ đó cũng mang đặc tính tích cực, sáng tạo. Điều này khơng có nghĩa là ý
thức đẻ ra vật chất mà ý thức “Chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào
trong đầu óc con người, và được cải biến đi ở trong đó” [2]. Nói cách khác, ý
thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, song đó là sự phản ánh đặc biệtphản ánh trong quá trình con người tác động cải tạo thế giới.
Quá trình ý thức là quá trình thống nhất của ba mặt sau đây:
- Một là trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi này
mang tính chất hai chiều, có định hướng và chọn lọc các thông tin cần thiết. Xuất
phát từ nhu cầu của thực tiễn, của đời sống xã hội nói chung, sự phản ánh của ý
8


thức bao giờ cũng tập trung vào những cái cơ bản chính yếu tùy theo nhu cầu của
chủ thể phản ánh.
- Hai là mơ hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Có thể
hiểu đây là quá trình “sáng tạo lại” hiện tượng của ý thức, chuyển hóa các đối
tượng vật chất thành các ý thức tinh thần phi vật chất.
- Ba là quá trình hiện thực hóa tư tưởng, thơng qua hoạt động thực tiễn biến cái
quan niệm thành cái thực tại, biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các
dạng vật chất ngoài hiện thực. Trong giai đoạn này con người lựa chọn những
phương pháp, phương tiện, công cụ để tác động vào hiện thực khách quan nhằm
thực hiện mục đích của mình.
Các nhà duy tâm biện chứng cho rằng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là

mối quan hệ biện chứng. Trong mối quan hệ này, vật chất có trước, ý thức có sau,
vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, song ý thức khơng hồn tồn
thụ động mà nó có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của
con người. [3]
1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
1.3.1. Vai trò của vật chất với ý thức
Theo quan điểm duy vật biện chứng, vật chất quyết định ý thức.
Thứ nhất, vật chất là cái có trước và là nguồn gốc của ý thức. Phải có bộ não
người- một dạng vật chất có tổ chức cao nhất- thì ý thức mới được ra đời. [4] Khi
bộ não xảy ra vấn đề, ý thức cũng sẽ bị ảnh hưởng. Ý thức được tạo ra bởi thế giới
tự nhiên và xã hội bên ngoài con người, hay có thể hiểu rằng ý thức là sự tương tác
giữa bộ não con người và thế giới khách quan. Ngoài ra, ý thức mang nguồn gốc xã
hội là lao động và ngơn ngữ như đã đề cập. Nhờ có lao động mà các giác quan của
con người phát triển phản ánh tinh tế hơn đối với hiện thực. Ngôn ngữ là cầu nối để
trao đổi kinh nghiệm, biểu đạt tình cảm, là phương tiện thể hiện ý thức. Từ đó cho
9


ta thấy rằng nguồn gốc của xã hội có ý nghĩa quyết định hơn cho sự ra đời của ý
thức.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.[5] Ý thức là sự phản ánh thế
giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất nên nội dung của nó cũng
được quyết định bởi vật chất. Những tri thức về thế giới gồm cả tri thức kinh
nghiệm và tri thức lý luận đều là sự phản ánh những cái vốn có từ thế giới bên
ngồi.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.[6] Bản chất của ý thức có hai
thuộc tính khơng tách rời là phản ánh và sáng tạo. Những hoạt động thực tiễn là cơ
sở để cho ý thức được hình thành và phát triển, trong đó ý thức phản ánh để sáng
tạo và sáng tạo để phản ánh.
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động và phát triển của ý thức.[7] Mọi sự tồn

tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất vậy nên
khi vật chất thay đổi sẽ kéo theo ý thức cũng thay đổi. Trong đời sống xã hội, sự
phát triển của kinh tế quy định sự phát triển của đời sống văn hóa. Xã hội phát triển
càng cao, điều kiện vật chất thay đổi thì đời sống tinh thần sẽ ngày càng phong phú,
đa dạng. Ví dụ, trong xã hội nguyên thủy, đời sống vật chất hết sức thấp kém thì
đời sống tinh thần cũng bị giới hạn.Trong điều kiện đó chưa thể có lý luận, càng
chưa thể có các lý thuyết khoa học. Khi lực lượng sản xuất phát triển, tạo ra sự
phân cơng giữa lao động trí óc và lao động chân tay, lý luận mới ra đời.
1.3.2.Vai trò của ý thức với vật chất
Dù khẳng định vật chất quyết định ý thức nhưng các nhà theo CNDVBC khơng
xem thường vai trị của ý thức bởi họ cho rằng ý thức có tính độc lập tương đối và
tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.[8]
Ý thức của con người, vậy nên sự tác động trở lại vật chất của ý thức gắn liền
với hoạt động thực tiễn con người. Trên thực tế, mọi hoạt động của con người đều
10


do ý thức chỉ đạo nên vai trò của ý thức không phải trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế
giới vật chất mà nó trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan để trên
cơ sở ấy con người xác định được mục tiêu của mình, từ đó đề ra phương hướng,
lập kế hoạch, lựa chọn phương pháp, công cụ, phương tiện, v.v. để thực hiện mục
tiêu đó. Ý thức chỉ đạo, hướng dẫn con người trong thực tiễn, do đó nó có thể quyết
định hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai khuynh hướng:
tích cực hoặc tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình
cảm cách mạng, có nghị lực, có ý chí thì hành động của con người phù hợp với các
quy luật khách quan, con người có năng lực vượt qua những thách thức trong quá
trình thực hiện mục đích của mình, thế giới được cải tạo. Nếu ý thức của con người
phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản chất, quy luật khách quan thì ngay
từ đầu, hướng hành động của con người đã đi ngược lại các quy luật khách quan,

hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu cực đối với hoạt động thực tiễn, kìm hãm sự phát
triển của thế giới vật chất.
1.3.3. Ý nghĩa phương pháp luận và ý nghĩa thực tiễn
1.3.3.1. Ý nghĩa phương pháp luận
Do vật chất quyết định ý thức nên trong hoạt động thực tiễn, con người cần phải
chống lại quan điểm duy ý chí, nên xuất phát từ hiện thực khách quan để tái hiện lại
những đặc tính, phẩm chất vốn có của nó mà khơng phải là đưa ra nhận định, đánh
giá chủ quan. V.I.Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh “không được lấy ý muốn chủ quan
của mình làm chính sách, khơng được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến
lược cách mạng” [9]. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, lấy ý chí áp đặt cho
thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ khơng tránh khỏi mà mắc phải bệnh
duy ý chí. Đồng thời con người phải biết phát huy tính năng động của chủ thể trong
hoạt động nhận thức. Ngoài ra, do ý thức tác động trở lại vật chất, vì thế chúng ta
phải chú ý nâng cao nhận thức của con người.
11


1.3.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức cho thấy việc tôn trọng khách
quan hay cụ thể là tôn trọng các quy luật, nhận thức và hành động theo quy luật là
đặc biệt quan trọng. Hiểu rõ được vấn đề này có thể tránh mắc căn bệnh chủ quan
duy ý chí dẫn đến rơi vào chủ nghĩa duy tâm một cách không tự giác. Không chỉ
vậy, việc áp dụng mối quan hệ này vào việc giáo dụng, nâng cao nhận thức con
người sẽ giúp cải tạo thế giới quan, giúp xã hội ngày càng tiến lên phát triển.
Ngoài ra, trong hoạt động thực tiễn phải giải quyết đúng đắn giữa nhân tố khách
quan và nhân tố chủ quan. Bởi nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
trong hoạt động thực tiễn xét cho cùng là giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa
đời sống vật chất, nhân tố vật chất và đời sống tinh thần, nhân tố tinh thần. Trong
mối quan hệ biện chứng đó đời sống vật chất, nhân tố vật chất giữ vai trò quyết
định; ngược lại đời sống tinh thần, nhân tố tinh thần có tính năng động và sáng tạo.


12


CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ MỐI
QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VÀO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Xuất phát từ thực tế khách quan và bám sát thực tiễn
Từ lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất
và ý thức cũng như đúc rút kinh nghiệm thành công và thất bại trong q trình lãnh
đạo cách mạng, Đảng ta chủ trương ln xuất phát và tơn trọng hiện thực khách
quan, từ đó đạt được nhiều thành tựu to lớn.
Trong Đại hội lần thứ VI (năm 1986), Đảng đã đề ra chủ trương “đổi mới” một
cách toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội: “Đảng phải luôn xuất phát từ
thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và
hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng”
[10]. Mọi đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đều
phải xuất phát từ thực tiễn và bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu lý luận để điều chỉnh, bổ sung, phát triển đường lối đổi mới.
Thực tế khách quan của lịch sử loài người đã cho thấy CNXH sẽ thay thế
CNTB giống như việc CNTB đã thay thế chế độ phong kiến. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: Con đường đi lên của nước ta là sự phát
triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức là “bỏ qua việc xác lập hệ thống
chính trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng
tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản
chủ nghĩa, đặc biệt là về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.” [11] Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN,
tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp có nhiều
thách thức cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường,
nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất q độ, nhưng cũng đồng thời

là một nước đi đúng đắn thể hiện sự sáng suốt của Đảng.
13


Thực tiễn về việc mơ hình CNXH kiểu cũ ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ do sai
lầm trên cả phương diên™ lý luân™ và thực tiễn đòi hỏi cần phải đổi mới, cải cách, xây
dựng mơ hình CNXH hiê ™n thực phù hợp với sự phát triển trong điều kiên™ mới. Viê ™t
Nam là ví dụ về một quốc gia đã có những đổi mới, cải cách thành cơng, trên cơ sở
mơ hình CNXH phù hợp với điều kiê ™n thực tiễn quốc gia. Chính quan niê ™m đối lâp™
giữa CNXH với CNTB trong thời chiến tranh lạnh đã đẩy đến viê ™c xác định mơ
hình CNXH khơng phù hợp với thực tiễn. Tuy nhiên, sự phát triển trên thế giới cho
thấy, CNXH không đối lâ ™p với CNTB mà là sự kế thừa phát triển theo hình vịng
xốy ốc ở nấc thang cao hơn. “Bản thân thực tiễn phát triển cũng chỉ rõ mơ hình
kinh tế thị trường khơng phải là riêng có với CNTB, mà kinh tế thị trường - môt™
phương thức phát triển phù hợp, cho phép phát huy sức mạnh tổng hợp các nguồn
lực - là thành tựu phát triển chung của nền kinh tế thế giới. Và cũng vì vây™ CNXH
khơng phải đối lâ ™p với thị trường, mà chính thơng qua nền kinh tế thị trường là
phương thức phù hợp cho phép chúng ta huy đô ™ng các nguồn lực xây dựng cơ sở
vât™ chất của xã hô ™i mới - xã hô ™i XHCN.” [12]
Như vâ ™y các xu hướng phát triển thế giới đã tạo ra cơ hôi™ cho các quốc gia xác
lâp™ mơ hình xã hơ ™i mới phù hợp. Đối với Viê ™t Nam đó chính là nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Quá trình phát triển của Viêt™ Nam, đă ™c biê ™t công cuô ™c
đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trong 30 năm qua đã có
những kết quả góp phần nâng cao vị thế đất nước và cải thiê ™n đời sống nhân dân.
Điều này, mô ™t mă ™t, củng cố và khẳng định sự lựa chọn đúng đắn con đường đi lên
CNXH, bỏ qua chế đô ™ TBCN ở nước ta; măt™ khác, đó cịn là các điều kiê ™n, cơ sở
cho viê ™c tiếp tục vững bước trên con đường đã chọn.
Đảng ta xác định rõ mục tiêu của giai đoạn đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước hiện nay là: “Phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là
then chốt, phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, củng cố quốc phòng an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên”[13]. Điều đó giúp cho chúng ta thấy

14


rõ: “Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là q trình cải biến sâu sắc,
tồn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân”[14]. Thực tiễn của hơn 30 năm đổi mới cho thấy, việc vận dụng sáng tạo
phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác- Lênin, đặc biệt là mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất và ý thức vào giải quyết những vấn đề mâu thuẫn nội tại nảy
sinh trong quá trình đổi mới là hiệu quả. Trên quan điểm duy vật biện chứng để
tổng kết, đánh giá, Đảng ta đã xác định phương hướng cho chặng đường tiếp theo
của sự nghiệp đổi mới là: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy vận dụng sáng tạo,
phát triển, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận,
dự báo chính xác và kịp thời có chủ trương, chính sách xử lý hiệu quả những vấn
đề mới nảy sinh trong thực tiễn, giải quyết tốt các mối quan hệ lớn phản ánh quy
luật đổi mới và phát triển ở nước ta”[15].
Dù vậy, công cuộc đổi mới cịn gặp nhiều khó khăn do căn bệnh chủ quan duy ý
chí. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, Đảng ta đã chỉ ra rằng: “Trong cách mạng XHCN, Đảng ta đã có nhiều cố gắng
nghiên cứu, tìm tịi, xây dựng đường lối, xác định đúng mục tiêu và phương hướng
xã hội chủ nghĩa. Nhưng Đảng đã phạm sai lầm chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy
luật khách quan: Nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ ngay nền kinh tế
nhiều thành phần, có lúc đẩy mạnh q mức việc xây dựng cơng nghiệp nặng, duy
trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp…”.“Do chủ quan,
duy ý chí mà một số bộ, ngành, địa phương đề ra chỉ tiêu kế hoạch quá xa vời, quá
cao, không phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tiễn với tham vọng tăng trưởng
nhanh chóng để bắt kịp các nước trong khu vực, dẫn đến không thực hiện được,
gây ra sự phát triển mất cân đối của nền kinh tế.” [17] Từ nhận định đó cho thấy
chủ quan, duy ý chí là một trong những nhân tố chủ yếu dẫn đến những sai lầm,
khuyết điểm trong việc hoạch định đường lối, chính sách, trong hoạt động thực tiễn

15


của Đảng và Nhà nước ta suốt một thời gian dài mà đến hiện nay vẫn còn tồn tại
gây tác hại khơng nhỏ đối với sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Để khắc phục được khuyết điểm, chuyển biến được tình hình, ta phải nhận thức
đúng đắn và quan trọng hơn là “hành động phù hợp với hệ thống quy luật khách
quan, trong đó các quy luật đặc thù của CNXH ngày càng chi phối mạnh mẽ
phương hướng phát triển chung của xã hội.” [18]
Trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 như hiện nay, lý luận này càng mang tầm
vóc quan trọng hơn. Để tiếp tục công việc đổi mới và phát triển đất nước trong thời
điểm khó khăn này, Chính phủ đã có sự chỉ đạo quyết liệt, kịp thời, bằng những
giải pháp sát tình hình thực tiễn, sớm đề ra chiến lược vaccine phù hợp, đến nay
nước ta từng bước khống chế được phạm vi tác động của dịch bệnh. Tại Hội nghị
Trung ương IV, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng yêu cầu Hội nghị thảo luận,
đánh giá một cách khách quan, tồn diện tình hình phịng, chống dịch bệnh, duy trì
phát triển kinh tế-xã hội.
Từ thực tế tình hình nước ta từ quá khứ đến hiện tại đã khẳng định rằng việc
xuất phát và tôn trọng thực tiễn là quyết định đúng đắn và hiệu quả để có thể đưa ra
những hành động sáng suốt phù hợp nhịp độ phát triển đất nước, giúp công cuộc
đổi mới trở nên thuận lợi hơn.
2.2. Phát huy vai trị của tính năng động chủ quan
Trong q trình đổi mới, ta khơng thể khơng kể đến vai trị của tính năng động
chủ quan thể hiện qua chính sách, đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, đó cịn là
khối đại đồn kết tồn dân, là ý chí, nhiệt tình, quyết tâm làm đất nước ngày càng
trở nên giàu đẹp.
Bản thân sự nghiệp xây dựng CNXH là một nhiệm vụ khó khan địi hỏi phải
phát huy cao độ vai trò của nhân tố chủ quan, của tính năng động chủ quan. Đó
16



trước hết chính là đường lối chính sách đúng đắn có tính chất quyết thắng của
Đảng. Trong cơng cuộc phát triển đất nước, Đảng ta đã và đang có nhiều chính sách
hiệu quả nhờ phát huy vai trị của ý thức. Chúng ta đã được trang bị những tri thức
về bản chất quy luật khách quan của đối tượng, trên cơ sở ấy, xác định đúng đắn
được mục tiêu và đề ra phương hướng hoạt động phù hợp.
Ví dụ, từ Đại hội VI, Đảng đã xác định kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới
kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng
bước đổi mới chính trị. “Với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và
hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng
lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.”[19].
Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu cơng cuộc đổi mới về tư duy chính trị trong việc
hoạch định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại. Khơng có sự đổi mới đó
thì khơng có mọi sự đổi mới khác. Đảng ta đã có bước đi đúng đắn khi tập trung
trước hết vào việc thực hiện nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng
kinh tế - xã hội, tạo tiền đề cần thiết về vật chất lẫn tinh thần để ổn định chính trị,
xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi cho công cuộc đổi mới
các mặt khác của đời sống xã hội.
Hay trong việc chống dịch bệnh COVID-19, ngay từ khi dịch còn chưa bùng
mạnh mẽ, Đảng ta đã có những nhìn nhận đúng đắn về sự nguy hiểm của dịch
bệnh, không chủ quan trong việc chống dịch nên đã có những quyết định và sự lãnh
đạo kịp thời như tuyên truyền cho nhân dân về phòng chống dịch, nhanh chóng
kiểm sốt ổ dịch và truy tìm nguồn lây,... Việc này phần nào đã giúp chúng ta
không rơi vào khủng hoảng xã hội và kinh tế.
Có thể thấy, điều kiện cốt yếu để công cuộc đổi mới giữ được định XHCN và đi
đến thành công là trong quá trình đổi mới Đảng phải kiên trì và vận dụng sáng tạo
Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững vai trò lãnh đạo xã hội.

17



Đảng phải tự đổi mới và chỉnh đốn, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của mình.
Bên cạnh sự lãnh đạo của Đảng, con người cũng là là nhân tố quyết định sự
thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Xây
dựng tập thể đủ năng lực và phẩm chất, tích cực học tập, phản ánh đúng đắn thế
giới khách quan có ý nghĩa quyết định đến cơng tác xây dựng Đảng và đất nước
trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo thành cơng sự nghiệp đổi mới. Ngồi ra ta cần
khắc phục bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại, ngồi chờ trong khâu
hành động của nhiều cá nhân lẫn tập thể.
2.3. Chú tâm mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức có thể quy về mối quan hệ giữa kinh tế và
văn hóa. Biện chứng trong tư duy Hồ Chí Minh là sự gắn bó khơng tách rời giữa
kinh tế và văn hóa, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Tư tưởng này đã
được nhấn mạnh tại Đại hội lần thứ IX của Đảng- tư tưởng “phát triển toàn diện các
lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hịa với phát triển kinh tế”[20].
Nhiệm vụ thay đổi trình độ người trước hết phải bắt đầu từ xây dựng và thực
hiện đời sống mới bởi theo lý thuyết, vật chất quyết định nội dung của ý thức và
rằng tăng cường xây dựng văn hố chính là để thực hiện nhiệm vụ cơ bản là phát
triển kinh tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Trình độ văn hố của nhân dân
nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân
chủ... cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hịa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ và giàu mạnh” [21]. Văn hóa chân chính phải có tác dụng góp phần phát
triển giá trị nhân cách của con người, hướng con người tới cái đúng, cái tốt, cái
đẹp. Vì vậy, Người yêu cầu cần phải “xúc tiến cơng tác văn hóa để đào tạo con
người mới và cán bộ mới cho công cuộc kháng chiến kiến quốc”[22]

18



Kinh tế là yếu tố quyết định tính chất và diện mạo của văn hóa, kinh tế phát
triển sẽ tạo điều kiện văn hóa phát triển, nhưng phát triển kinh tế khơng tách rời
khỏi sự nâng đỡ của văn hóa; đồng thời, văn hóa có ảnh hưởng tích cực đến sự phát
triển kinh tế. Vì thế tăng cường xây dựng văn hóa là nhiệm vụ cần phải thực hiện
để hồn thành nhiệm vụ khác là phát triển kinh tế, nhằm xây dựng một xã hội giàu
có, văn minh.
Tóm lại, nắm rõ và phát huy mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và văn hóa có
thể giúp giải quyết những vấn đề của thực tiễn đổi mới một cách thuyết phục. Vì
thế, nhiệm vụ nghiên cứu một cách hệ thống về việc áp dụng lý luận về mối quan
hệ này vào thực tiễn có vai trị rất quan trọng và đáng để chú trọng.

19


KẾT LUẬN
Trong tiểu luận “Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất
với ý thức và vận dụng vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay”, bằng việc
nghiên cứu hệ thống cơ sở lý luận về vật chất- ý thức và mối quan hệ biện chứng
giữa chúng, các nghiên cứu đã làm rõ vai trò quan trọng của việc áp dụng các lý
luận vào thực tiễn công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Trong chặng đường đổi mới và đi lên CNXH, để khắc phục được những thiếu
sót cịn tồn đọng, Đảng và Nhà nước cần nhạy bén, tích cực trong cơng tác hành
động để bắt kịp thực tiễn nhằm đưa ra những quyết định, đường lối phát triển phù
hợp nhất. Đồng thời phải khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước, ý chí và sự
thông minh, sáng tạo của con người Việt Nam bởi nhân tố con người là yếu tố tiên
quyết để cơng cuộc đổi mới thành cơng. Ngồi ra, chúng ta cần quan tâm hơn đến
việc phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa, kinh tế phát triển thì văn hóa cũng
cần đổi mới để khơng trở nên lạc hậu.
Quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng thành thạo

phép duy vật duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào việc
nghiên cứu và quản lý kinh tế, nâng cao tinh thần sáng tạo của công dân, phát huy
mạnh mẽ hơn nữa quan hệ biện chứng giữa kinh tế và văn hóa trong cơng cuộc đổi
mới nhằm tăng trưởng nền kinh tế quốc dân, nâng cao thế Việt Nam trên trường
quốc tế là trách nhiệm của mỗi người chúng ta trong công cuộc đổi mới đất nước.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] ThS. Trần Thị Thúy (2021), Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam
[2] C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, NXB.CTQG, HN, 1993, tr.35
[3], [4], [5], [6], [7], [8] Giáo trình Triết học Mác- Lênin, Hội đồng biên soạn giáo
trình Triết học Mác- Lênin, năm 2019
[9] Tạp chí cộng sản: Quán triệt nguyên tắc khách quan và quan điểm toàn diện
theo tư tưởng Hồ Chí Minh - yêu cầu quan trọng hàng đầu trong đánh giá, bổ
nhiệm đúng cán bộ, PGS, TS. Nguyễn Chí Hiếu, ngày 15/03/2021
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb CTQG-ST, H.1987, tr.30
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hơ ™i đại biểu tồn quốc lần thứ IX,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.84
[12], [16] Tạp chí cộng sản: Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa: Cơ hội và thách thức, PGS, TS. Vũ Văn Hà, ngày 26/10/2015
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn
qua 30 năm đổi mới, Nxb CTQG, H.2015, tr.183
[14], [15] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb CTQG, H.2016, tr.16-17, tr.65
[17] Báo Hải quân Việt Nam: Không để tái phát căn bệnh chủ quan, duy ý chí,
ngày 03/10/2017

[18] Tạp chí xây dựng Đảng: Một số bài học qua 30 năm Đảng lãnh đạo đổi mới
đất nước, PGS, TS. Nguyễn Viết Thông, ngày 05/01/2016
21


[19] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb. Sự thật, H.1991, tr.54
[20] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ XI,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.124
[21], [22] Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, tr.8, tr.381-382

22



×