ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------
TRẦN THỊ HẠNH
CÁC PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN
ĐỊA DANH TIẾNG ĐỨC TRONG CÁC
VĂN BẢN TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. VŨ KIM BẢNG
HÀ NỘI – 2009
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
0.1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
5
0.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
7
0.3. Phương pháp nghiên cứu
7
0.4. Kết cấu của luận văn
8
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA DANH
1.1. Khái niệm về địa danh
9
1.2. Địa danh trong hệ thống thuật ngữ khoa học
12
1.3. Một số yêu cầu khi đưa địa danh nước ngoài vào tiếng Việt
14
1.3.1. Tính chính xác
14
1.3.2. Tính hệ thống
16
1.3.3. Tính đơn giản, dễ dùng
17
1.4. Tiểu kết
19
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA DANH TIẾNG ĐỨC
2.1. Đặc điểm của hệ thống địa danh tiếng Đức
21
2.1.1. Đặc điểm cấu tạo
21
2.1.2. Ý nghĩa của lớp từ địa danh
32
2.2. Phân loại địa danh tiếng Đức trong tiếng Việt
39
2.3. Tiểu kết
42
CHƯƠNG 3: CÁC PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN ĐỊA DANH TIẾNG
ĐỨC TRONG CÁC VĂN BẢN TIẾNG VIỆT
3.1. Tình hình thể hiện tên riêng nước ngồi nói chung và địa danh tiếng Đức
nói riêng trong tiếng Việt
44
44
3.1.1. Hiện trạng
3.1.2. Lý do dẫn đến hiện trạng thiếu thống nhất trong việc thể hiện địa
50
danh tiếng Đức trong tiếng Việt
1
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
3.2. Các quan điểm khác nhau về việc thể hiện tên riêng nước ngoài (địa danh)
trong tiếng Việt
51
3.3. Đề xuất phương thức thể hiện địa danh tiếng Đức trong tiếng Việt
55
3.3.1. Nguyên tắc chung
55
3.3.2. Giải pháp cụ thể
55
3.4. Tiểu kết
72
KẾT LUẬN
74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
76
PHỤ LỤC
2
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1. BCHTWĐ
Ban Chấp hành Trung ương Đảng
2. BGD & ĐT
Bộ Giáo dục và Đào tạo
3. CHDC
Cộng hòa Dân chủ
4. ĐH KHXH & NV Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
5. ĐHQG
Đại học Quốc gia
6. GS.
Giáo sư
7. KHXH
Khoa học Xã hội
8. Nxb
Nhà xuất bản
9. PGS.
Phó giáo sư
10.tr
trang
11.TS.
Tiến sĩ
12.VH – TT
Văn hóa Thơng tin
3
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
1. Bảng 2.1: Từ gốc đặc trưng trong hệ thống địa danh tiếng Đức
23
2. Bảng 2.2: Tỉ lệ những nhóm từ gốc thơng dụng trong địa danh tiếng Đức
24
3. Bảng 2.3: Nhóm từ định danh trong địa danh tiếng Đức
26
4. Bảng 2.4: Hậu tố trong địa danh tiếng Đức
28
5. Bảng 2.5: Nhóm địa danh chỉ các bang của nước Đức
39
6. Bảng 2.6: Nhóm địa danh chỉ biển, sơng, hồ
40
7. Bảng 2.7: Nhóm địa danh thủ phủ các bang của Đức
41
8. Bảng 3.1: Tên một số con sông lớn ở Đức
58
9. Bảng 3.2: Tên một số ngọn núi và dãy núi ở Đức
59
10. Bảng 3.3: Tương ứng giữa nguyên âm đơn tiếng Đức và tiếng Việt
62
11. Bảng 3.4: Tương ứng giữa nguyên âm đôi tiếng Đức và tiếng Việt
64
12. Bảng 3.5: Tương ứng giữa phụ âm đơn đứng trước hạt nhân tiếng Đức và
tiếng Việt
65
13. Bảng 3.6: Tương ứng giữa hai phụ âm đứng trước hạt nhân tiếng Đức và
tiếng Việt
66
14. Bảng 3.7: Tương ứng giữa ba phụ âm đứng trước hạt nhân tiếng Đức và
tiếng Việt
67
15. Bảng 3.8: Tương ứng giữa phụ âm đơn đứng sau hạt nhân tiếng Đức và
tiếng Việt
67
16. Bảng 3.9: Tương ứng giữa hai phụ âm đứng sau hạt nhân tiếng Đức và
68
tiếng Việt
17. Bảng 3.10: Tương ứng tiếng Việt của từ gốc trong địa danh tiếng Đức
70
4
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
PHẦN MỞ ĐẦU
0.1.
Mục đích, ý nghĩa của đề tài
0.1.1. Lí do lựa chọn đề tài
Bàn về tên riêng nước ngoài và cách thể hiện tên riêng nước ngoài trong
tiếng Việt (trong đó có vấn đề địa danh) khơng phải là một đề tài mới, nhưng
lại là một đề tài được bàn bạc nhiều mà vẫn chưa tìm được giải pháp thống
nhất. GS. Nguyễn Văn Khang cũng nhận xét“…vấn đề cách viết, cách đọc tên
riêng nước ngoài trong tiếng Việt đến nay vẫn cịn chưa thống nhất. Hiện
chưa có một văn bản quy định mang tính pháp lý về mặt Nhà nước cho chính
tả tiếng Việt nói chung và tên riêng nước ngồi nói riêng. Vì thế, cũng là điều
dễ hiểu khi mỗi ấn phẩm tiếng Việt phải tự chọn cho mình cách xử lý và dẫn
đến sự khơng thống nhất về cách viết, cách đọc tên riêng nước ngoài giữa các
ấn phẩm cũng như trong một ấn phẩm.” [12, tr. 1]
Cho đến nay đã có nhiều bài viết, bài nghiên cứu về cách thể hiện tên riêng
nước ngồi nói chung trong tiếng Việt, ví dụ như các bài viết của GS. Hoàng
Phê, Nguyễn Kim Thản, Vũ Quang Hào, ... hay một số chương mục trong các
cuốn sách của GS. Cao Xuân Hạo, GS. Nguyễn Thiện Giáp, Diệp Quang Ban,
Mai Ngọc Chừ,… Những bài viết của các tác giả nêu trên chỉ nghiên cứu về
vấn đề tên riêng nước ngồi nói chung, chứ chưa có nghiên cứu nào chuyên
sâu về vấn đề tên riêng của một ngôn ngữ cụ thể. Tiếng Đức là một ngôn ngữ
được nhiều quốc gia sử dụng và có vai trị quan trọng trong cộng đồng Châu
Âu. Do vậy, cần có những nghiên cứu sâu và tỉ mỉ về địa danh tiếng Đức để
góp phần đáp ứng nhu cầu công tác, học tập, giảng dạy và nghiên cứu ngơn
ngữ, văn hóa Đức.
5
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
Hơn nữa, chúng ta cũng thấy trong tiếng Việt có nhiều nhóm địa danh
tiếng Đức được du nhập vào từ nhiều năm nay, đặc biệt là sau Chiến tranh
Thế giới Thứ hai, khi mà quan hệ ngoại giao, kinh tế, thương mại, văn hóa
v.v. của Việt Nam với CHDC Đức trước kia và bây giờ là nước Đức thống
nhất phát triển vơ cùng mạnh mẽ. Những nhóm từ, ngữ địa danh tiếng Đức
chủ yếu là tên các bang, tên sông hồ, tên biển, tên các thành phố và trung tâm
chính trị, kinh tế, văn hóa cũng như các danh lam thắng cảnh của nước Đức.
Địa danh nói chung và địa danh tiếng Đức nói riêng phải được coi là một
lớp từ quan trọng. Thông qua hệ thống địa danh, người ta có thể hiểu thêm
nhiều về một nền văn hóa, biết thêm được về cốt cách của một dân tộc, về lịch
sử của dân tộc đó. Đây cũng chính là một trong những lý do khiến chúng tôi
lựa chọn đề tài này.
Ngồi ra, trong q trình giảng dạy tiếng Đức và văn hóa Đức của bản
thân, chúng tơi nhận thấy rằng hệ thống tên riêng tiếng Đức trong tiếng Việt
gây rất nhiều “hiểu lầm” trong giao tiếp ngôn ngữ. Xin lấy ví dụ: Tên thành
phố Kưln trong tiếng Đức khi sang tiếng Việt có q nhiều biến thể, khi là
Cơ-lơ-nhơ, khi là Cơlơgne hoặc có khi được để ngun dạng là Kưln. Hay như
tên thủ đơ Berlin cũng có tới bốn biến thể: Berlin, Béclin, Béc-lin và Bá Linh.
Điều này khiến chúng ta lúng túng trong chuyển dịch, trong giao tiếp - nhiều
lúc không biết phải chọn biến thể nào cho phù hợp. Vào năm 1979, phát biểu
tại Hội nghị tồn quốc “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ”
do Viện Ngôn ngữ học tổ chức, cố Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn
Đồng đã từng lưu ý: “…trong công việc này chúng ta phải kiên trì. Nếu cần
tranh luận thì nên tranh luận rộng rãi. Nếu chưa được thì ta cịn chờ, khơng
vội. Cuối cùng, cuộc sống, nhân dân sẽ quyết định. Không nên vội, chớ vội,
việc gì phải vội!... Có những cái, những hiện tượng mà cuộc sống có cái lý
của nó để quyết định và khi mà cuộc sống, thời gian, nhân dân đã quyết định,
6
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
thì đó là sự phán quyết cuối cùng.” Đọc những lời phát biểu trên chúng tơi rất
tâm đắc, chỉ có điều trong vấn đề này, chúng ta đã chờ khá lâu. 20 năm trôi
qua sau câu phát biểu này của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, chúng ta vẫn
chưa thống nhất để tìm ra một giải pháp hữu hiệu nhất cho vấn đề thể hiện tên
riêng nước ngoài trong tiếng Việt. Vì thế, trong luận văn này, chúng tơi tiến
hành nghiên cứu địa danh nước Đức về cấu trúc và ngữ nghĩa để từ đó nêu lên
những đề xuất cá nhân của mình trong việc thể hiện tên riêng nước ngồi nói
chung và đặc biệt là địa danh tiếng Đức nói riêng trong tiếng Việt.
0.1.2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Về mặt lí luận, luận văn trình bày một số khái niệm về địa danh và nghiên
cứu đặc điểm của hệ thống địa danh tiếng Đức xét về mặt cấu tạo và ý nghĩa
trên cơ sở 1000 địa danh được thu thập. Bên cạnh đó, luận văn cũng đề cập
đến một số quan điểm khác nhau trong việc xử lý tên riêng nói chung và địa
danh nước ngồi nói riêng trong tiếng Việt.
Về mặt thực tiễn, luận văn đã đề xuất một số phương án thể hiện địa danh
tiếng Đức trong tiếng Việt nhằm phục vụ công tác giảng dạy ngơn ngữ, văn
hóa Đức tại Việt Nam, phục vụ giảng dạy dịch thuật và qua đó đưa ra một
định hướng nhằm chuẩn hóa hệ thống địa danh tiếng Đức trong tiếng Việt.
0.2.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Tên riêng nói chung và tên riêng tiếng Đức nói riêng là một phạm trù rộng.
Trong luận văn này chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu đặc điểm của địa danh
tiếng Đức và xem xét cách xử lý địa danh (tên địa lý) tiếng Đức trong tiếng
Việt.
0.3.
Phương pháp nghiên cứu
7
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
Trong luận văn này, chúng tôi áp dụng phương pháp nghiên cứu chung là
phương pháp phân tích, tổng hợp và miêu tả. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
là phương pháp thống kê và phân tích cấu trúc. Trên cơ sở những tên riêng
đặc trưng trong tiếng Đức đã thu thập được (cụ thể là tên địa lý), chúng tôi áp
dụng các biện pháp để xác định các đặc điểm của hệ thống địa danh tiếng
Đức, phân loại hệ thống địa danh, nghiên cứu hiện trạng thể hiện địa danh
tiếng Đức trong tiếng Việt hiện nay, sau đó đề xuất hướng xử lý trong việc thể
hiện địa danh tiếng Đức trong các văn bản tiếng Việt theo các nhóm nhất
định.
0.4.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về địa danh
Chương 2: Đặc điểm địa danh tiếng Đức
Chương 3: Các phương thức thể hiện địa danh tiếng Đức trong các văn bản
tiếng Việt
8
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA DANH
1.1.
Khái niệm về địa danh
Về khái niệm “tên riêng”, GS. Nguyễn Thiện Giáp đã viết: “có lẽ tên
riêng nên được coi là những từ, ngữ dùng để gọi tên những thực thể vật chất
và tinh thần có vai trị quan trọng trong đời sống văn hóa – xã hội, tồn tại với
tư cách là những cá thể trong tư duy của từng dân tộc. Đối với người Việt đó
là:
- Những tên chỉ người, tên cá nhân, dân tộc, ví dụ: Nguyễn Trãi, Việt
Nam.
- Những tên chỉ nơi chốn, núi, sơng hồ, tỉnh, ví dụ: (núi) Tản Viên,
(sông) Hồng, (tỉnh) Nghệ An.
- Những từ ngữ chỉ cơng trình xây dựng và văn hóa, ví dụ: (chùa) Dâu,
(cầu) Long Biên, Truyện Kiều.
- Những từ ngữ chỉ các cơ quan, tổ chức xã hội, ví dụ: Đại học Quốc gia
Hà Nội, Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Những từ ngữ chỉ từng thời kì, từng sự kiện lịch sử, ví dụ: (thời kì) LíTrần, Cách mạng Tháng Tám, Hội nghị Paris, Nghị quyết 8
BCHTWĐ.” [6, tr. 326-327]
Khái niệm về tên riêng nói chung của GS. Nguyễn Thiện Giáp bao gồm cả
khái niệm về địa danh. Theo định nghĩa của ơng, ta có thể hiểu địa danh chính
là những từ, ngữ để chỉ nơi chốn, núi, sơng hồ, tỉnh.
9
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
Theo Hồng Thị Châu thì “Địa danh hay là tên địa lý (toponym,
geographical names) là tên vùng, tên sông, tên núi, là tên gọi các đối tượng
địa hình khác nhau, tên nơi cư trú, tên hành chính, ... được con người đặt ra.
Qua những thơng tin đó, có thể nhận ra được những thơng tin về tinh thần,
văn hóa, xã hội, lịch sử, ngơn ngữ và chính trị.” [2]
Nhìn ngược lại dịng lịch sử một chút thì khái niệm “địa danh” (toponym)
bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp (topo = Ort/địa điểm/nơi chốn; nym = Name/tên
gọi). Và theo như Từ điển địa danh Đức, “địa danh” có nghĩa là tên địa lý
theo nghĩa khái quát nhất. Theo định nghĩa này, địa danh chính là tên gọi của
các vùng, khu vực nhất định, ví dụ như:
- Tên các châu lục, các khu vực địa hình, các vùng đất khác nhau, các
dãy núi, ngọn đồi, các loại địa hình v.v.
- Tên các hịn đảo, bán đảo, bờ biển, bãi biển
- Tên các địa phận, cánh đồng, cánh rừng, công viên
- Tên các đơn vị hành chính (Nhà nước, quốc gia, tỉnh thành, ...)
- Tên các khu dân cư (thành phố, trang trại, đồn điền, ...)
- Tên các trục đường giao thông (đường cao tốc, đường phố, quảng
trường, các con đường, ngõ, trục đường tàu, ...)
- Tên hồ ao, sơng ngịi, hải phận (tên các đại dương, vùng biển, eo biển,
sông, suối, kênh đào, hồ ao, ...)
Trong tiếng Đức, người ta phân chia địa danh thành hai nhóm cơ bản:
Nhóm 1: Tên riêng chỉ các vùng, các khu vực rộng lớn, bao gồm:
- Tên các châu lục, đại dương, các khu vực địa hình, các sa mạc
- Tên các vùng núi
10
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
- Tên các hòn đảo, bán đảo
- Tên biển, hồ, đầm lầy, sông, suối, kênh đào
- Tên rừng, tên hạt
- Tên các khu vực dân cư như: thành phố, làng mạc, toà thành, quận
huyện
- Tên các khu vực bị sa mạc hố
- Tên các uỷ ban
Nhóm 2: Tên riêng chỉ các vùng, các khu vực nhỏ, bao gồm:
- Tên các miền địa hình
- Tên các trục đường giao thơng, tên ngọn núi, thung lũng
- Tên các thửa ruộng, các khu vực chăn nuôi gia súc, cày cấy
- Tên đường phố, ngõ hẻm, quảng trường
- Tên các khu vực khai thác mỏ
Hoàng Thị Châu đưa ra ý kiến rất xác đáng về một nét đặc điểm của địa
danh là tính đa dạng về ngôn ngữ. Địa danh của dân tộc, quốc gia nào cũng
thường được đặt bằng ngôn ngữ của dân tộc, quốc gia đó. Nhưng như chúng
ta đã biết, trong lịch sử loài người đã xảy ra những cuộc di dân lớn và những
cuộc viễn chinh để chinh phục các vùng đất khác và điều này làm cho tình
hình địa danh trở nên phức tạp hơn rất nhiều. Trong Từ điển địa danh Đức,
người ta phân ra thành các loại địa danh như địa danh bản địa và địa danh
nước ngoài. Địa danh nước ngoài khi “nhập nội” vào một ngôn ngữ nhất định
thường được xử lý về chữ viết (dựa theo phương thức chuyển tự hoặc phiên
âm và chuyển tự)1 để tạo ra sự phù hợp với ngôn ngữ đích, ví dụ như thủ đơ
1
Nội dung này sẽ trình bày kỹ hơn ở những phần tiếp theo của đề tài.
11
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
nước Nga là Mockba (tiếng Nga) - chuyển tự ra hệ chữ La Tinh là Moskwa và
khi vào tiếng Đức thành Moskau. Lúc này nó được gọi là địa danh nước ngồi
trong ngơn ngữ đích (ngơn ngữ tiếp nhận địa danh) là tiếng Đức. Hồng Thị
Châu cịn phân biệt rất rõ ràng giữa địa danh nước ngoài (foreign
geographical names) và địa danh ngoại lai (exonyms). Địa danh nước ngoài là
địa danh chỉ những vùng, những khu vực ... nằm ngoài lãnh thổ nước mình
hiện nay. Nhiều tên địa danh nước ngồi đã được thay đổi, điều tiết theo đặc
điểm ngơn ngữ của người sử dụng địa danh. Còn địa danh ngoại lai là địa
danh có trong mỗi ngơn ngữ, là kết quả của quá trình di dân, của những cuộc
chiến tranh chinh phục lẫn nhau. Ví dụ một số địa danh trong tiếng Tây Ban
Nha (địa danh ngoại lai) bằng tiếng Đức như sau:
1.2.
Tiếng Tây Ban Nha
Tiếng Đức
los Alpes
die Alpen
Alta Austria
Oberưsterreich
Baviera
Bayern
Địa danh trong hệ thống thuật ngữ khoa học
Có thể khẳng định rằng, địa danh cũng là một bộ phận của thuật ngữ,
nhưng đây là một hệ thống “từ ngữ đặc biệt”, bởi vì địa danh là các danh pháp
địa hình (tức là đi kèm với những danh từ riêng chỉ đối tượng địa hình). Các
địa danh tiếng Đức trong tiếng Việt càng phải được hiểu là hệ thống “từ ngữ
đặc biệt”, bởi vì đối với người Việt đây là các địa danh “nước ngồi”, cần có
phương pháp xử lý một cách hợp lý, đặc biệt trong thời kỳ toàn cầu hóa đang
diễn ra vơ cùng sơi động hiện nay. Do địa danh khơng phải là “thuật ngữ khoa
học chính thống” nên chúng ta không thể xử lý chúng như những thuật ngữ
12
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
quốc tế được và cần phải phân định ranh giới một cách thật rõ ràng. Ví dụ: Ở
Berlin có một cây cầu rất nổi tiếng tên gọi là Schlossbrücke. Nếu ta “chẻ chữ”
ra thì địa danh này bao gồm những cấu phần sau:
Schlossbrücke (Schloss = lâu đài; Brücke = cái cầu, cây cầu)
Và trong các chương trình giới thiệu về du lịch Đức ở Việt Nam người ta đã
viết về Cây cầu lâu đài tại thủ đô Berlin. Rõ ràng đây cũng là địa danh, gồm
hai từ ghép lại (trong tiếng Đức người ta gọi là từ ghép). “Cầu” trong ngành
cầu đường, giao thông vận tải rõ ràng là thuật ngữ - nhưng trong ví dụ nêu
trên thì “cầu” có phải là thuật ngữ nữa không, hay chỉ là cách để tạo địa danh?
Xử lý địa danh trên trong tiếng Việt như thế nào? Nên dịch ra như người ta đã
làm, nên phiên âm, hay để nguyên dạng? Trong trường hợp này, người ta biết
được nghĩa của hai từ cấu thành nên địa danh nên dùng phương pháp chuyển
dịch. Còn những tên địa lý khác mà nét nghĩa của chúng khơng cịn rõ ràng
thì xử lý ra sao?
Cũng tương tự, những từ như sông, hồ, eo biển, đảo, bán đảo, ... là thuộc
hệ thống thuật ngữ của ngành địa lý, nhưng những danh từ như sông Nhuệ,
sông Kim Ngưu, sông Cà Lồ thì lại là địa danh. Cũng như vậy, những khái
niệm như Berg (núi), Meer (biển), Hügel (đồi), Insel (đảo), ... trong tiếng Đức
là thuật ngữ, nhưng nếu ta nói Ostsee (biển Bantíc), Nordsee (biển Bắc) thì
chính là đang đề cập đến địa danh thuộc nước Đức. Trong quá trình giảng dạy
tiếng Đức, chúng tơi thấy sinh viên thường không ngần ngại chuyển dịch địa
danh Ostsee thành biển Đông (bởi vì Ost có nghĩa là hướng đơng, See có
nghĩa là biển) - giống hệt như khái niệm Südchinesisches Meer (Nam Hải
Trung Quốc) là khái niệm người Đức dùng để chỉ biển Đông nước ta. Cũng
liên quan đến vấn đề này, Nguyễn Thị Bích Hà có trích dẫn quan điểm của
nhà khoa học T.Vi-nhô-kúp (T.O. Buhokup) như thế này: “Danh pháp (tên
13
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
riêng) chỉ là hệ thống các phù hiệu hoàn toàn trừu tượng và ước lệ mà mục
đích duy nhất là ở chỗ cấp cho ta cái phương tiện thuận lợi nhất về mặt thực
tiễn để gọi tên các đồ vật, các đối tượng khơng quan hệ trực tiếp với những
địi hỏi của tư duy lý luận hoạt động với những sự vật này.” [7, tr.14].
Nguyễn Thị Bích Hà cho rằng: “Danh pháp chỉ dán nhãn cho đối tượng của
nó” và “danh pháp khơng có quan hệ trực tiếp với khái niệm khoa học. Như
vậy có nghĩa là danh pháp chỉ gọi tên các sự vật trong một ngành khoa học
mà thôi. Chẳng hạn trong địa lý học, các từ như biển, sơng, núi, sa mạc, ... là
những thuật ngữ, cịn các tên biển, tên sông, tên hồ, ... cụ thể như sơng Hồng,
sơng Cửu Long, sơng Đà, núi Ba Vì, vịnh Hạ Long, hồ Núi Cốc, ... là danh
pháp.” [7, tr. 14]. Nói như thế có nghĩa là chúng ta phải thực sự xem xét hệ
thống địa danh nước ngoài thật kỹ để có cách xử lý thỏa đáng, chứ khơng phải
xử lý địa danh nước ngồi giống hệt như thuật ngữ quốc tế. Những yêu cầu về
tiêu chuẩn đối với thuật ngữ tiếng nước ngoài khi du nhập vào tiếng Việt như
tính chính xác, tính hệ thống, có màu sắc dân tộc, ngắn gọn dễ dùng cần phải
được hiểu khác khi xử lý các lớp từ địa danh nước ngoài. Cũng giống như
thuật ngữ khoa học, địa danh nước ngoài cần phải được xây dựng thành hệ
thống trong tiếng Việt. Và chúng tôi thấy rằng, việc xây dựng một hệ thống
địa danh tiếng Đức trong tiếng Việt là hết sức cần thiết.
1.3.
Một số yêu cầu khi đưa địa danh nước ngồi vào tiếng Việt
1.3.1. Tính chính xác
Đặt địa danh cũng như khi đặt thuật ngữ trong một lĩnh vực chun mơn
nào đó, chúng ta cũng phải tn thủ một số nguyên tắc nhất định. Mục đích
đặt địa danh là để phân biệt các đối tượng địa hình, phân biệt các vùng miền,
khu vực. Cho nên một yêu cầu đặt ra khi đưa địa danh nước ngoài vào tiếng
Việt là khơng gây trùng lặp địa danh. Hồng Thị Châu nêu lên một ví dụ rất
14
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
hay: “Hai con sông ôm lấy cả một vùng Đông Nam Á có tên gọi ban đầu là
Kơng và Giang - đều có nghĩa là sơng nước” [2]. Nhưng sau đó người ta đã
thêm tên là Mêkơng (Sơng Mẹ) và Trường Giang (Sông Dài) để tránh trùng
nhau và để phân biệt được hai con sông đặc trưng của vùng Đông Nam Á.
Đây cũng là một yêu cầu đối với công tác đặt thuật ngữ, du nhập thuật ngữ
quốc tế vào tiếng Việt, – đó là tính chính xác.
Chính xác ở đây có nghĩa là khơng bị trùng lặp nhau, tránh hiện tượng
một địa danh chỉ nhiều đối tượng địa hình khác nhau, tránh hiện tượng đồng
âm - đồng nghĩa nhiều quá. GS. Lưu Vân Lăng đã từng nói đến một yêu cầu
mang tính lý tưởng đối với thuật ngữ là “mỗi khái niệm có một thuật ngữ và
một thuật ngữ chỉ một khái niệm” [15, tr. 41].
Theo quan điểm của chúng tơi thì điều này cũng nên trở thành một yêu
cầu, một tiêu chí khi đặt địa danh, khi nhập nội địa danh nước ngồi nói
chung và địa danh tiếng Đức nói riêng vào tiếng Việt. Tất nhiên rất khó có thể
thực hiện được một cách tuyệt đối, nhưng nếu đã có định hướng như vậy thì
chúng ta có thể phần nào đạt được tính chính xác, tính khoa học khi đưa các
tên địa lý nước ngoài vào tiếng Việt. Khi nhập nội địa danh, chúng ta không
nên tùy tiện, áp đặt, thích “chuyển” thế nào thì chuyển như trường hợp một
ông bố đặt tên con là “mai phạt năm đồng sáu” (một câu chuyện có thật ở
Việt Nam). Trong tiếng Đức có những địa danh giống nhau giữa các bang,
các vùng địa hình của Đức, ví dụ như địa danh Bayerbach. Để phân biệt được
rõ ràng địa danh này thuộc vùng nào, người Đức cho thêm một phần giải thích
trong ngoặc Bayerbach (Ergeldsbach) và Bayerbach (Rottal-Inn). Phần bổ
sung này (bổ sung địa danh) giúp ta phân biệt được 2 vùng đất khác nhau
nhưng có cùng một tên gọi. Xin dẫn thêm một ví dụ nữa: Ở Đức có hai thành
phố đều tên là Frankfurt, để tránh nhầm lẫn, người Đức đã thêm vào một định
ngữ xác định rõ vị trí của những thành phố này, đó là Frankfurt am Main và
15
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
Frankfurt an der Oder. Main và Oder là tên hai con sơng chảy qua hai thành
phố trên.
Chính xác ở đây cịn có nghĩa là khơng nên có q nhiều biến thể của
cùng một địa danh. Một địa danh nước ngoài khi nhập nội vào tiếng Việt chỉ
nên có một tương ứng duy nhất. Tránh trường hợp một tên gọi có q nhiều
biến thể như ví dụ về thủ đơ Berlin và thành phố Kưln đã nêu trong phần mở
đầu.
1.3.2. Tính hệ thống
Một yêu cầu nữa trong quá trình du nhập địa danh nước ngồi vào tiếng
Việt là tính hệ thống của địa danh. Mỗi một ngôn ngữ, mỗi một dân tộc đều
có hệ thống địa danh của riêng mình. Các địa danh nước ngoài vào tiếng Việt
bằng những con đường khác nhau, khi thì trực tiếp, khi thì gián tiếp (thông
qua một ngôn ngữ khác), và nhiều địa danh mang những dấu ấn lịch sử khác
nhau. Khi nhập nội những địa danh mới (từ các ngôn ngữ khác) vào tiếng
Việt, chúng ta cố gắng khơng phá vỡ tính hệ thống của những địa danh đã có
sẵn. Hiện nay, Tổ chức Địa danh của Liên hợp quốc (UNGEGN) khuyến
khích viết tên thủ đô các nước đúng theo nguyên ngữ của các nước đó bằng
tiếng La Tinh như Moskwa, Warzsawa v.v. Như vậy, vấn đề được đặt ra ở
đây là: Chúng ta có nên đặt lại tên địa lí nước ngồi đã định hình lâu đời trong
tiếng Việt, đã thành nếp trong tư duy của người Việt? Nếu đặt lại thì những
địa danh đó sẽ đảm bảo được tính hệ thống của lớp từ địa danh nước ngoài
hay ngược lại, sẽ phá vỡ hệ thống hiện có? Bàn về vấn đề này, GS. TS.
Nguyễn Văn Khang cho rằng: Thật khó có thể xác định địa danh nước ngoài
nào đã được người Việt quen dùng để mà giữ nguyên, không thay đổi. Và
người xử lý rơi vào trạng thái tiến thoái lưỡng nan, đó là sự tỉ lệ nghịch giữa
tính hệ thống và quen dùng: “Nếu muốn tăng tính hệ thống trong cách xử lý
thì phải giảm và thậm chí phải thay đổi cả một số địa danh quen dùng; Nếu
16
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
giữ được quen dùng càng nhiều càng tốt thì tính hệ thống sẽ bị phá vỡ càng
mạnh” [12, tr. 3]. Theo ơng, tính quen dùng phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố
như tuổi tác, nghề nghiệp, xã hội. Vì vậy, trừ một số tên nước, tên biển, đại
dương quá quen thuộc, các địa danh khác đang ở trong tình trạng giáp ranh
giữa “kiểu cũ” và “kiểu mới”. Như vậy, nên chăng phải đưa ra một danh mục
cụ thể những địa danh nào nên giữ nguyên theo cách dùng lâu đời trong tiếng
Việt nhằm có những hướng dẫn cụ thể cho người xử lý, tránh tình trạng mỗi
người xử lý theo cảm quan riêng và theo cách riêng của mình?
Nói tóm lại, để đảm bảo tính hệ thống của địa danh nói chung và địa danh
nước ngồi trong tiếng Việt nói riêng, chúng ta phải đưa ra được những cách
xử lý khơng bị trùng lắp trong hệ thống của nó. GS. Cao Xuân Hạo trong
Tiếng Việt Văn Việt Người Việt đã dẫn ra một ví dụ về cái tên Mác. Mác là tên
được Việt hóa của ơng Marx. Nhưng hiện nay chúng ta thấy có quá nhiều cái
tên khác có cách phát âm tương tự như Marc, Match, Mark v.v. Một câu hỏi
đặt ra ở đây là thể hiện những tên riêng nước ngoài này trong tiếng Việt ra sao
để phân biệt được Karl Marx với Marc, Match, Mark hay Max v.v.? Ngồi ra,
để đảm bảo tính hệ thống của địa danh nước ngoài trong tiếng Việt, chúng ta
cũng cần lựa chọn một phương thức xử lý nhất định, tránh tình trạng lộn xộn,
thiếu thống nhất khi thể hiện địa danh nước ngồi như đã đề cập đến ở phần
trên (tính chính xác).
1.3.3. Tính đơn giản, dễ dùng
Một điều đáng lưu ý khi “nhập” các địa danh nước ngoài vào tiếng Việt là
làm sao cho các cách xử lý thật đơn giản. Khoa học là đơn giản, dễ dùng, dễ
áp dụng, đừng để có quá nhiều trường hợp ngoại lệ. Khoa học cũng có nghĩa
là làm những vấn đề phức tạp trở nên dễ hiểu và có tính khả thi cao. Tất nhiên
không thể tránh được những trường hợp ngoại lệ. Nhưng nếu có quá nhiều
ngoại lệ trong việc xử lý lớp tên địa lý nước ngồi thì người sử dụng sẽ ngại
17
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
dùng, họ dùng ln những cái có sẵn theo lối mòn hoặc dùng theo cách của
họ tự “chế tác ra”. Thuật ngữ nói chung và địa danh nước ngồi đưa vào tiếng
Việt là để người Việt dùng - nếu đưa vào tiếng Việt mà chúng khơng được sử
dụng thì sẽ nhanh chóng “biến mất” khỏi từ vựng của ta. Đúng như người ta
đã nói, thực tiễn kiểm nghiệm chân lý. Chúng tôi đã tham khảo bản “Dự thảo
Quy định cách viết, cách đọc tên riêng nước ngoài trong các văn bản quản lý
nhà nước” của Viện Ngôn ngữ học. Trong phần giải pháp lựa chọn của bản
Dự thảo Quy định, các tác giả viết “Tên riêng nước ngoài xuất hiện trong các
văn bản quản lý nhà nước được viết và đọc theo cách viết, cách đọc của chữ
quốc ngữ - phiên chuyển ra tiếng Việt: Viết rời từng âm tiết, có dấu chữ, dấu
thanh, có gạch nối giữa các âm tiết, tận dụng khả năng ghi âm của chữ quốc
ngữ.
Giải thích bổ sung:
- Chỉ dùng các con chữ ghi âm cuối là –p, -t, -c, -ch, -m, -n, -ng, -nh (mà
không sử dụng các con chữ khác như –v, -r, -l). Ví dụ: Humbơn
- Có sử dụng thêm các con chữ kép như pl, xt, cr,... Ví dụ:
Cơ-xta Ri-ca
Để đảm bảo tính thống nhất trong việc xử lý tên riêng nước ngoài trong
tiếng Việt, việc đưa ra quy định như trên là cần thiết. Nhưng cách xử lý mà
bản Dự thảo đưa ra dường như còn khá phức tạp và có nhiều ngoại lệ. Nhiều
ngoại lệ quá sẽ làm cho quy định khó khả thi. Ví dụ tên riêng Costa Rica viết
thành Cơ-xta Ri-ca thì khơng khác nhiều phần nguyên ngữ. Cần thiết chăng
phải chuyển nguyên thể “st” (Costa) thành “xt” (Cơ-xta) trong tiếng Việt? Có
lẽ là khơng nên bởi với cả hai cách viết như trên, người Việt bình thường (biết
18
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
đọc, biết viết) sẽ đọc như nhau. Nếu viết Cô-xta Ri-ca có khi cịn khó hơn
trong ngun ngữ La Tinh.
Một tiêu chí nữa khi đưa các tên địa lý nước ngoài vào tiếng Việt là chúng
ta phải nghĩ đến sự phát triển trong tương lai, đặc biệt là trong khi giao lưu
quốc tế đang diễn ra với một tốc độ chóng mặt như hiện nay, trong khi cả dân
tộc ta, cả Bộ Giáo dục và Đào tạo đang có những động thái tích cực để nâng
cao trình độ ngoại ngữ cho học sinh, sinh viên, cho cán bộ, trong khi số người
biết ngoại ngữ ngày càng tăng. Tiêu chí này cũng rất quan trọng, bởi nếu
không cân nhắc kỹ lưỡng, chúng ta chỉ có thể đưa ra được những quy định
“đoản thọ” mà thôi.
1.4.
Tiểu kết
Chương 1 của luận văn đã nêu lên một cách khái quát và ngắn gọn những
vấn đề lý luận liên quan đến địa danh nói chung và địa danh nước ngồi nói
riêng. Chúng tơi đồng ý với ý kiến của Hoàng Thị Châu cho rằng địa danh là
tên địa lí, là tên vùng, tên sơng, tên núi, là tên gọi các đối tượng địa hình, tên
nơi cư trú, tên hành chính, ... được con người đặt ra. Qua những địa danh đó,
chúng ta có thể nhận ra được những thơng tin về tinh thần, văn hóa, xã hội,
lịch sử, ngơn ngữ và chính trị của một dân tộc. Có thể chia địa danh thành 2
nhóm chính, đó là nhóm địa danh bản địa và địa danh nước ngồi. Nhóm địa
danh nước ngồi là nhóm địa danh rất phức tạp, bởi vì nó liên quan đến những
đặc trưng về ngơn ngữ, văn hóa, lịch sử, xã hội, chính trị v.v. của các dân tộc
khác trên thế giới và đối với nhóm địa danh này, chúng ta cần phải có một số
cách thức xử lý khác với nhóm địa danh bản địa. Nhóm địa danh nước ngồi,
cụ thể là địa danh tiếng Đức sẽ được trình bày chi tiết hơn trong các chương
tiếp theo của đề tài.
19
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
Ngồi ra cũng trong chương này, chúng tơi trình bày ngắn gọn về vị trí
của địa danh nước ngồi trong hệ thống thuật ngữ khoa học quốc tế (thuật ngữ
khoa học tiếng nước ngồi). Có thể nói rằng, địa danh nước ngồi khơng phải
là “thuật ngữ khoa học chính thống” và chúng tơi xếp nhóm từ ngữ này vào
nhóm “từ, ngữ nước ngồi đặc biệt”. Cũng chính vì thế mà đối với nhóm từ
ngữ này phải có những phương thức “du nhập” thật hợp lý vào tiếng Việt, bởi
vì chúng khác với hệ thống thuật ngữ khoa học thực thụ. Tuy vậy, chúng ta
cũng thấy là địa danh nước ngoài thường đi kèm với danh pháp. Trong một số
tiểu nhóm địa danh nước ngoài nhất định như địa danh về các đơn vị hành
chính, các cơng trình xây dựng, kiến trúc thì ranh giới phân biệt giữa địa danh
nước ngồi và thuật ngữ khoa học quốc tế rất mờ nhạt, có chỗ ta thấy hiện
tượng trùng khít giữa địa danh và thuật ngữ nước ngồi. Đối với tiểu nhóm
địa danh này thì cách xử lý sẽ giống như khi xử lý thuật ngữ khoa học quốc
tế.
Cũng trong chương 1, chúng tôi đã đề cập đến một số yêu cầu khi nhập
nội tên địa lí nước ngồi vào tiếng Việt, như tính chính xác, tính hệ thống và
tính đơn giản, dễ dùng. Ngồi ra, chúng tơi cịn lưu ý đến việc hạn chế ngoại
lệ trong quá trình nhập nội địa danh nước ngồi do tính phức tạp của nó. Có
q nhiều ngoại lệ trong thể hiện địa danh nước ngoài tạo “cơ hội” cho những
lối mòn trong xử lý địa danh nước ngồi nói riêng và tên riêng nước ngồi nói
chung tiếp tục tồn tại và phát huy tác dụng.
20
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
CHƯƠNG 2
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA DANH TIẾNG ĐỨC
2.1. Đặc điểm của hệ thống địa danh tiếng Đức
Ở đây, chúng tôi chỉ đi sâu nghiên cứu nhóm địa danh bản địa, tức là nhóm
địa danh chỉ những vùng miền, những khu vực, ... nằm trên lãnh thổ nước
Đức, do người Đức đặt tên.
2.1.1. Đặc điểm cấu tạo
Xét về mặt cấu trúc, địa danh tiếng Đức được phân chia thành hai nhóm cơ
bản:
- Địa danh được tạo thành từ một từ (Einwortnamen)
- Địa danh được tạo thành từ một cụm từ (Mehrwortnamen)
2.1.1.1. Địa danh được tạo thành từ một từ
Nhiều nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học và địa danh học Đức như A.
Bach, G. Baner và D. Berger cho thấy: địa danh được tạo thành từ một từ
chiếm số lượng rất lớn trong lớp từ địa danh tiếng Đức. Trong nhóm này,
người ta lại phân biệt giữa nhóm địa danh được hình thành từ một từ đơn
(Simplicia) và nhóm địa danh được hình thành bằng phương thức phái sinh
(Ableitungen) và phương thức ghép từ (Namenkomposita).
a. Địa danh được hình thành bằng phương thức ghép từ
Theo nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học và địa danh học Đức như A.
Bach, G. Baner và D. Berger, địa danh tiếng Đức chính thống bao gồm một từ
gốc (Grundwort) và phía trước thường có một thành tố có chức năng xác định
rõ nghĩa hơn cho từ gốc, thành tố này chúng tôi tạm gọi là từ định danh
21
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
(Bestimmungswort). Ví dụ trong địa danh Burgwald thì Burg là từ định
danh, Wald là từ gốc. Từ gốc thường là danh từ và từ định danh có thể là
danh từ, tính từ hoặc động từ. Như vậy, ta có mơ hình tạo địa danh tiếng Đức
như sau:
- Danh từ + danh từ: Bienen + Wald > Bienenwald
- Động từ + danh từ: bücken + Berge > Bückeberge
- Tính từ + danh từ: schwarz + Wald > Schwarzwald
+ Từ gốc trong địa danh tiếng Đức
Các nét nghĩa của từ gốc trong nguyên văn tiếng Đức (Grundwort) đã nói
rõ chức năng của bộ phận này trong lớp tên địa lí tiếng Đức “Từ gốc nêu rõ lý
do đặt tên2 cho một địa điểm hoặc một khu dân cư nào đó, ví dụ từ gốc cho
biết là ở đó có các tịa nhà (lúc đó từ gốc là –hausen), hay có nhà thờ (lúc đó
từ gốc là –kirchen v.v.). Từ gốc cũng có thể chỉ ra những nét đặc biệt về địa
hình khu vực (ví dụ ở đó có núi/-berg, có rừng/-wald) [38]. Những từ gốc này
cịn được các nhà ngơn ngữ học, địa danh học gọi là vĩ tố (Endung), bởi vì
những từ gốc luôn đứng sau trong các địa danh tiếng Đức, có nghĩa là khái
niệm này đã xóa nhịa ranh giới với khái niệm hậu tố (Suffix) trong địa danh.
Nói như thế để chúng ta thấy tính phức tạp khi đề cập đến đặc điểm cấu tạo
của địa danh tiếng Đức, bởi vì những từ gốc có thể đứng độc lập và có thể
chúng đóng vai trị làm từ định danh. Dưới đây là bảng tổng hợp từ gốc đặc
trưng và thông dụng trong hệ thống địa danh tiếng Đức (Dựa theo số liệu của
Dieter Berger (1999) trong cuốn Duden. Geographische Namen in
Deutschland. Herkunft und Bedeutung der Namen von Ländern, Bergen und
Gewässern, 2. Auflage).
2
Từ Grund trong tiếng Đức có nghĩa là „lý do“.
22
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
Bảng 2.1: Từ gốc đặc trưng trong hệ thống địa danh tiếng Đức
ST
Từ gốc
Ý nghĩa
Ví dụ
T
1.
-ach
có nguồn nước, có suối
Eisenach
2.
-bach
có nguồn nước, có suối
Amorbach
3.
-bek, -beck
có nguồn nước, có suối (theo
Eggebek,
thổ ngữ vùng bắc
Gladbeck
Đức/Niederdeutsch)
4.
-berg, -burg
khu vực có núi, có thành
Heidelberg,
Alpenburg
5.
-born, brun(n)
khu vực có nguồn nước
Herborn
6.
-brück(e),
khu vực có cầu
Kưnigsbrück
khu vực làng mạc, khu dân cư
Düsseldorf,
-brügg(e)
7.
-dorf, -drup, dorp, -trop, -trup
8.
-eck(e), -egg
Nortrup
địa danh nằm ở một vị trí đặc Planegg
biệt (ở một góc đường nào đó)
3
9.
-furt3, -fort, -ford
khu vực có cầu, phà qua sơng
Erfurt
10.
-heim, -hem, -em
khu dân cư
Badenheim
11.
-holz, -holt
khu vực có rừng
Bochholt
12.
-hausen, -husen
khu vực dân cư
Babenhausen
13.
-leben, -leve4
khu vực là tài sản thừa kế
Ebeleben
Flußdurchquerung
23
LUAN VAN CHAT LUONG download : add
14.
-kirchen, -kerken
15.
-rode,
-rade,
khu vực có nhà thờ
- khu vực có rừng
reuth
Bergkirchen
Bayreuth
Walsrode
16.
-stadt, -stet
nơi chốn, khu vực
Neustadt
17.
-werder, -werda
cồn cát
Lemwerder
Trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài người, những từ gốc
trong các địa danh thường bị mờ nghĩa, ví dụ như từ gốc là –heim chuyển
thành –em, –en, –um, có nghĩa là lúc này, các từ gốc đã trở thành hậu tố
(Suffixe).
Chúng tơi đã thống kê tỉ lệ của những nhóm từ gốc trong 1000 đơn vị địa
danh tiếng Đức (xem phụ lục 1) và kết quả thu được như sau:
Bảng 2.2: Tỉ lệ những nhóm từ gốc thơng dụng trong địa danh tiếng Đức
4
STT
Từ gốc
Tỉ lệ
1.
-berg, -burg
8,4%
2.
-dorf, -drup, -dorp, -trop, -trup
5,2%
3.
-heim, -hem, -em
5,1%
4.
-bach
4,7%
5.
-stadt, -stedt, -städt, -stet
3,2%
6.
-hausen, -husen
1,8%
7.
-beke, -beck
0,8%
Hinterlassenschaft
24
LUAN VAN CHAT LUONG download : add