A. MỞ ĐẦU
Có thể nói lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử của các
cuộc đấu tranh nhằm xóa bỏ những sự bất bình đẳng xã hội, trong đó có bất
bình đẳng giới. Bình đẳng nam nữ một cách toàn diện, đầy đủ là lý tưởng mà
nhân loại đã theo đuổi hàng nhiều thế kỷ.
Ngày nay khi nói đến phát triển, người ta khơng chỉ đề cập đến chỉ số
phát triển con người HDI mà còn xem xét đến chỉ số phát triển liên quan đến
giới GDI (Gender Devevelopment Index). Những nghiên cứu thực tế cho thấy
đầu tư cho phụ nữ mang lại hiệu quả, lợi ích cao hơn bất kỳ sự đầu tư nào ở các
nước đang phát triển. Hay nâng cao khả năng và tạo cơ hội lựa chọn cho phụ
nữ không chỉ đem lại lợi ích cho họ mà cịn là cách chắc chắn nhất để đóng góp
cho tăng trưởng kinh tế và phát triển chung. Những minh chứng đó chứng tỏ
bình đẳng giới đã trở thành một trong những vấn đề của phát triển mang tính
tồn cầu.
Theo báo cáo của chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP), đến
nay các quốc gia đều đạt được những thành tựu quan trọng về phát triển con
người, nhưng vẫn cịn có sự khác biệt trong các chỉ số phát triển giữa nam và
nữ. Trong đó, người ta nhận thấy rằng sự phát triển năng lực của phụ nữ ở tất
cả các quốc gia còn thấp hơn nam giới, đặc biệt tại các quốc gia chậm phát
triển.
Quan sát thực trạng bình đẳng giới cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội ở
các quốc gia, UNDP cũng thấy rằng bất bình đẳng giới thực sự vừa là một
trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng đói nghèo, vừa là rào cản lớn
đối với sự phát triển bền vững và tác động tiêu cực không chỉ đến phụ nữ mà
đến tất cả các thành viên trong xã hội. Trước thực tế đó, bình đẳng giới đã trở
thành một trong tám mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG), được Đại hội
đồng Liên hợp quốc đề ra vào đầu thiên niên kỷ mới.
Ở nước ta, sự nghiệp giải phóng phụ nữ đã được Đảng và Nhà nước
quan tâm ngay từ buổi đầu cách mạng. Khẩu hiệu “nam nữ bình quyền” được
1
khẳng định từ Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
(1946) và thực hiện nhiều bước đột phá về nhận thức và hành động, từ khía
cạnh luật pháp, chính sách đến thực tiễn và đạt được nhiều thành tựu quan
trọng về bình đẳng giới. Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia
xóa bỏ khoảng cách giới nhanh nhất trong vòng 20 năm qua. Điểm nổi bật
trong việc bảo đảm quyền lợi về giới ở Việt Nam là việc hồn thiện khung
luật pháp, chính sách về bình đẳng giới. Việt Nam đã đạt được một số thành
tựu quan trọng trong việc thúc đẩy quyền phụ nữ như xây dựng và ban hành
các văn bản pháp quy thể hiện nguyên tắc về bình đẳng giới, khơng phân biệt
đối xử theo quy định của Luật Bình đẳng giới 2006 và Công ước của Liên
hợp quốc về xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ, lồng
ghép bình đẳng giới trong việc xây dựng và thực thi pháp luật. Việt Nam cũng
ban hành Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 với mục
tiêu nâng cao nhận thức, thu hẹp khoảng cách về giới và nâng cao vị thế của
phụ nữ; tích cực thực hiện các sáng kiến quốc tế và khu vực nhằm thúc đẩy
việc bảo vệ quyền của phụ nữ và chống phân biệt đối xử đối với phụ nữ.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu về bình đẳng giới, Việt Nam còn
gặp nhiều thách thức như tỷ lệ phụ nữ dân tộc thiểu số tham gia các vị trí lãnh
đạo các cấp cịn ít, tỷ lệ nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số cịn cao. Do đó
vẫn còn phụ nữ dân tộc thiểu số chưa biết chữ, vấn đề việc làm, dạy nghề cho
phụ nữ dân tộc thiểu số để tiếp cận với lao động chất lượng cao cần có sự
quan tâm, chỉ đạo sâu sát hơn của các cấp chính quyền, sự ủng hộ và hợp tác
của cộng đồng quốc tế và bản thân chị em phụ nữ cũng cần tự mình vươn lên,
học hỏi, nâng cao trình độ, kiến thức, kỹ năng để đáp ứng u cầu trong tình
hình mới. Khoảng cách giới cịn tồn tại khá lớn trong một số lĩnh vực của
cuộc sống. Trước hết là sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị cịn
hạn chế, đặc biệt là ở cấp cơ sở. Tỷ lệ cán bộ nữ làm công tác quản lý, lãnh
đạo còn thấp so với các vị trí quản lý, lãnh đạo nói chung và so với sự gia
tăng của lực lượng lao động nữ.
2
Trong lĩnh vực kinh tế, cơ hội của phụ nữ tiếp cận việc làm có thu nhập
cao và các nguồn lực kinh tế vẫn còn thấp hơn so với nam giới. Một số chỉ
tiêu đặt ra ở Chiến lược quốc gia bình đẳng giới về lao động, đào tạo,… vẫn
chưa đạt được. Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê, tỷ lệ lao động nữ nông
thôn dưới 45 tuổi được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật hàng năm đạt
khoảng 11,8%, bằng gần một nửa so với chỉ tiêu kế hoạch đề ra.
Về mặt chăm sóc sức khỏe, việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe
sinh sản của phụ nữ vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số còn hạn chế. Tỷ
suất tử vong mẹ còn cao so với một số nước trong khu vực. Mức giảm tỷ suất
tử vong mẹ trong 10 năm qua còn chậm, nhất là ở vùng sâu, vùng xa và vùng
dân tộc thiểu số. Tỷ lệ nữ có bảo hiểm y tế (tính trong số người khám chữa
bệnh) tăng lên qua các năm, tuy nhiên cịn thấp hơn nam giới; Tình trạng bạo
lực đối với phụ nữ tồn tại khá nghiêm trọng. Nhận thức về pháp luật của cán
bộ và người dân về phịng, chống bạo lực gia đình cịn hạn chế. Chế tài thực
hiện Luật Phịng, chống bạo lực gia đình chưa mạnh, chưa xử lý nghiêm các
hành vi bạo lực gia đình; Về mặt luật pháp, một số văn bản hướng dẫn, thể
chế hóa quy định của pháp luật liên quan đến bình đẳng giới chậm được ban
hành. Việc triển khai quy định lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật và đánh giá việc lồng ghép vấn đề bình
đẳng giới trong xây dựng và thẩm định các dự thảo văn bản quy phạm pháp
luật đạt kết quả chưa cao.
Do đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu các giải pháp nhằm thúc đẩy, bảo đảm
quyền bình đẳng của phụ nữ, bảo đảm bình đẳng giới không chỉ là yêu cầu của
các nhà nghiên cứu, nhà quản lý mà còn là nhu cầu thiết thực của mỗi công dân
trong xã hội. Với các lý do trên nên tôi xin chọn đề tài “Nghiên cứu các giải
pháp thúc đẩy, bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ, bảo đảm bình đẳng
giới” làm tiểu luận của mình.
3
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận về bình đẳng giới
1. Những khái niệm cơ bản
1.1 Giới
Giới là khái niệm khoa học ra đời từ môn nhân loại học, chỉ sự khác
biệt giữa nam và nữ về mặt xã hội. Nói về giới là nói về vai trị, trách nhiệm
và quyền lợi mà xã hội quan niệm hay quy định cho nam và nữ.
Vai trò, trách nhiệm và quyền lợi đó thể hiện trước hết ở sự phân cơng lao
động, phân chia các nguồn của cải vật chất và tinh thần, tức là cách đáp ứng
nhu cầu của nam và nữ trong xã hội;
Theo Điều 5, khoản 1 của Luật bình đẳng giới (Luật số 73/2006/QH11
của Quốc hội) thì “ Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trị của nam và nữ trong tất
cả các mối quan hệ xã hội”.
Những đặc trưng về giới mang tính xã hơi, do xã hội quy định. Giới thể
hiện các đặc trưng của xã hội, của phụ nữ và nam giới nên rất đa dạng. Nó
phụ thuộc và đặc điểm văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia,
các khu vực, các giai tầng xã hội. Các quan điểm, các hành vi, chuẩn mực xã
hội về giới hồn tồn có thể thay đổi được.
1.2 Bình đẳng giới
Bình đẳng giới là mơi trường trong đó cả nữ giới và nam giới được
hưởng vị trí ngang nhau, họ có các cơ hội bình đẳng để phát triển đầy đủ tiềm
năng của mình nhằm cống hiến cho sự phát triển quốc gia và được hưởng lợi
từ các kết quả đó Luật Bình đẳng giới tại Điều 5 chỉ rõ: “Bình đẳng giới là
việc nam, nữ có vị trí, vai trị ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát
huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ
hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó” . Điều quan trọng nhất,
bình đẳng giới có nghĩa là nam giới và phụ nữ được hưởng các thành quả một
cách bình đẳng. Tuy nhiên, việc đối xử như nhau, cơ hội như nhau không đem
lại kết quả như nhau đối với giới nữ và giới nam. Vì vậy, bình đẳng giới cần
4
được hiểu là sự đối xử ngang quyền giữa hai giới nam và nữ có xét đến những
đặc điểm giống nhau và khác nhau của mỗi giới, và được điều chỉnh bởi các
chính sách đối với từng giới một cách hợp lý.
Nếu như cả phụ nữ và nam giới cùng có điều kiện bình đẳng để phát
huy hết khả năng và thực hiện các mong muốn của mình; có cơ hội bình đẳng
để tham gia, đóng góp và hưởng thụ từ các nguồn lực của xã hội và quá trình
phát triển; được hưởng tự do và chất lượng cuộc sống bình đẳng; được hưởng
thành quả bình đẳng trong mọi lĩnh vực của xã hội, thì xã hội đó đã đạt được
bình đẳng giới. Nếu những tiêu chí này khơng được xác lập có nghĩa là trong
xã hội đang tồn tại bất bình đẳng giới.
2. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về bình đẳng giới ở
Việt Nam
Bình đẳng giới ở Việt Nam được quan tâm từ rất sớm. Ngay từ thời
phong kiến đến từng giai đoạn của cuộc cách mạng giải phóng đất nước và ở
giai đoạn hiện nay thì đó là vấn đề được sự quan tâm của toàn xã hội.
2.1. Giai đoạn trước cách mạng tháng 8 năm 1948
Thời kỳ này các quy định về bình đẳng giới tuy chưa nhiều, nhưng
cũng đã được quan tâm điều chỉnh. Nổi bật là Bộ luật Hồng Đức, Bộ luật đã
có nhiều điều luật quan tâm đến quyền lợi cũng như sự bình đẳng của phụ nữ
và nam giới như: Con gái có quyền thừa kế tài sản của cha mẹ như con trai,
vợ có quyền kiện chồng và bỏ chồng nếu chồng bỏ lửng 5 tháng.
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, vấn đề “Bình đẳng nam nữ”
đã được Đảng hết sức chú ý. Luận cương năm 1930 của Đảng khẳng định một
trong mười nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là thực hiện
“nam, nữ bình quyền”.
Như vậy, có thể thấy, ở Việt Nam vấn đề bình đẳng giới được quan tâm
từ khá sớm. Từ thời phong kiến, dù ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo là trọng
nam, khinh nữ nhưng pháp luật phong kiến cũng đã có những quy định hết
sức tiến bộ, bảo đảm quyền của phụ nữ, từ đó tạo tiền đề thúc đẩy bình đẳng
giới ở các giai đoạn sau.
5
2.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1975
Năm 1945, ngay sau khi nước nhà giành được độc lập, chương trình
bình đẳng nam nữ đã được đưa vào pháp luật, chính sách, chương trình hoạt
động của Nhà nước một cách có hệ thống. Tại Điều 1 Hiến pháp đầu tiên của
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 khẳng định: “Nước Việt Nam là
một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của tồn thể
nhân dân Việt Nam, khơng phân biệt giống nịi, trai gái, giàu nghèo, giai cấp,
tôn giáo”. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, pháp luật quy định phụ nữ
được hưởng các quyền ngang với nam giới: “Tất cả công dân Việt Nam đều
ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa” (Điều 6 Hiến
pháp năm 1946) và “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”
(Điều 9 Hiến pháp năm 1946).
Sau năm 1954 bản Hiến pháp thứ 2 của nước Việt Nam dân chủ cộng
hịa được thơng qua. Trong đó Điều 24 quy định và ghi nhận quyền bình đẳng
giữa nam và nữ về mọi mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình:
“Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hịa có quyền bình đẳng với nam giới
về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Công việc
làm như nhau phụ nữ được hưởng lương ngang với nam giới. Nhà nước bảo
đảm cho phụ nữ công nhân và phụ nữ viên chức được nghỉ trước và sau khi
đẻ mà vẫn được hưởng nguyên lương. Nhà nước bảo hộ quyền lợi của người
mẹ và trẻ em, bảo đảm phát triển của các nhà đỡ đẻ, nhà giữ trẻ, nhà nuôi trẻ.
Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình”.
Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959 đã nhấn mạnh tầm quan trọng của
Luật này đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ, Hồ Chủ Tịch đã nói: “Luật lấy
vợ lấy chồng nhằm giải phóng phụ nữ, tức là giải phóng phân nửa xã hội. Nếu
khơng giải phóng phụ nữ thì khơng giải phóng được một nửa lồi người”.
2.3. Giai đoạn từ năm 1975 đến nay
Sau khi kết thúc chiến tranh, thống nhất đất nước, Quốc hội đã thông
qua bản Hiến pháp thứ 3 năm 1980, đây tiếp tục là nền tảng cho việc xây
dựng các quy định pháp luật về bình đẳng giới. Ngày 18/12/1979 Cơng ước
6
về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) được Liên
hợp quốc phê chuẩn. Ngày 29/7/1980 Việt Nam ký Công ước CEDAW, trở
thành quốc gia thứ 6 trên thế giới ký Công ước và là quốc gia thứ 35 phê
chuẩn Công ước này.
Tại Hội nghị phụ nữ quốc tế lần thứ IV của Liên hợp quốc tổ chức tại
Bắc Kinh, Trung Quốc năm 1995, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã cơng bố “Chiến lược phát triển vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt
Nam đến năm 2000”, đến ngày 04/10/1997 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết
định phê duyệt “Kế hoạch hành động quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt
Nam đến năm 2000”. Từ đây vấn đề giới ở Việt Nam mới thực sự trở thành
vấn đề quốc gia.
Thành tựu bình đẳng giới mà Việt Nam đã đạt được là việc Quốc hội
khóa XI đã thơng qua Luật Bình đẳng giới ngày 29/11/2006.
Việc ra đời của Luật Bình đẳng giới có ý nghĩa to lớn đối với vấn đề
bình đẳng giới ở Việt Nam.
Vấn đề bình đẳng giới trên thế giới và ở Việt Nam đã được đề cập từ rất
sớm. Nhưng vấn đề đặt ra là làm thế nào để đạt được bình đẳng giới, tạo cơ
hội như nhau cho nam, nữ trong phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình mà các nước trên thế giới
và Việt Nam đã đề ra. Đây là một vấn đề hết sức khó khăn bởi vì bình đẳng
giới chính là tiêu chỉ để đánh giá tiến bộ xã hội. Bảo đảm bình đẳng giới là
một trong những mục tiêu cơ bản của việc bảo đảm công bằng xã hội.
II. Thực trạng
Bình đẳng giới là mục tiêu của mọi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc
và cách mạng xã hội chủ nghĩa nói chung. Đó là mục tiêu của cuộc đấu tranh
giải phóng phụ nữ của Đảng và nhân dân ta trong suốt chặng đường cách
mạng. Trước khi Luật Bình đẳng giới được Quốc hội ban hành, trong việc xây
dựng văn bản pháp luật ở nước ta đã có sự quan tâm đến vấn đề bình đẳng
giới. Tuy nhiên trên thực tế cho thấy các quy đnhj về biện pháp bảo đảm bình
7
đẳng giới chưa được quy định hoặc quy định chưa đầy đủ. Giữa Luật Bình
đẳng giới và các văn bản luật chuyên ngành còn thiếu đồng bộ và thống nhất.
Điều này dẫn đến việc hạn chế khả năng thực thi và hiệu quả áp dụng luật
trong thực tiễn. Có thể thấy rõ điều này qua thực trạng xây dựng pháp luật
bình đẳng giới trong các lĩnh vực xã hội.
1. Trong lĩnh vực lao động - việc làm
Cùng với hệ thống pháp luật chính sách của Đảng và Nhà nước ln
khẳng định quyền của phụ nữ ngang với nam giới, đây là cơ sở pháp lý, là nền
tảng cho phụ nữ vươn lên tự khẳng định mình. Tại Điều 63 Hiến pháp 1992
khẳng định: “Lao động nữ và nam làm việc như nhau thì tiền lương như nhau.
Lao động nữ có quyền hưởng chế độ thai sản…”.
Sau Hiến pháp 1992, năm 1994 Bộ Luật Lao động được Quốc hội
thông qua. Bộ luật Lao động đã dành riêng chương X (gồm 10 Điều) quy định
đối với lao động nữ, chương X đã tập trung vào thể hiện chính sách lao động
và chính sách xã hội đối với lao động nữ mà trọng tâm là tạo điều kiện để
phát huy có hiệu quả năng lực nghề nghiệp, kết hợp với hài hòa cuộc sống,
bảo đảm cho người phụ nữ phát huy hết khả năng của mình.
Bên cạnh đó Chính phủ cũng đã ban hành các Thơng tư, Nghị định
khác về bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động, việc làm. Tuy nhiên, các
quy định còn chưa thống nhất, chưa quán triệt được đầy đủ, triệt để nguyên
tắc bình đẳng nam nữ, thiếu chế độ chế tài xử lý các hành vi vi phạm hoặc
chưa đủ mạnh để ngăn chặn.
Đến ngày 29/11/2006 Quốc hội thơng qua Luật Bình đẳng giới, Luật
đã khắc phục được những bất cập trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống
pháp luật, góp phần khẳng định quyết tâm của Việt Nam trong việc thực
hiện các cam kết với quốc tế về quyền con người, xóa bỏ mọi hình thức
phân biệt với phụ nữ.
Trên thực tế, tỷ lệ lao động nữ trong tổng số lao động mới được giải
quyết việc làm đã tăng lên. Năm 2005 lao động nữ chiếm khoảng 21,11 triệu
8
người trong tổng số lao động (đạt 48,6%), đến năm 2007 đã tăng lên khoảng
22,77 triệu người (đạt 49,4%). Có nghĩa, sau 2 năm số phụ nữ được giải quyết
việc làm mới là 2,76 triệu người và bình quân mỗi năm giải quyết việc làm
cho 1,33 triệu người. Tuy nhiên, công việc của lao động nữ vẫn tập trung chủ
yếu ở những lĩnh vực khơng địi hỏi kỹ thuật chun môn cao như nông – lâm
– ngư nghiệp. Trong tất cả các ngành nghề, lĩnh vực, thu nhập của nữ chỉ bằng
74,5% so với nam. Trong một số lĩnh vực cụ thể có thể cao hơn tỷ lệ này,
nhưng vẫn ít hơn nam giới. Nguyên nhân chính có thể do sự khác biệt về trình
độ chun mơn kỹ thuật, bậc học càng lớn khác biệt càng cao, dẫn đến tình
trạng cạnh tranh của lao động nữ không cao. Xuất phát từ nhiều góc độ khác
nhau nhưng cuối cùng lao động nữ ln gặp thiệt thịi hơn, họ khó tránh khỏi
những rủi ro dễ vấp phải trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc
tế hiện nay.
2. Trong lĩnh vực gia đình
Mọi người vẫn thường nói gia đình là tế bào của xã hội, là trường học
đầu tiên của mỗi con người. Qua đó có thể thấy được tầm quan trọng của gia
đình. Vì vậy bình đẳng giới trong gia đình chính là sự thúc đẩy xã hội phát
triển. Do đó xây dựng bình đẳng giới trong gia đình là một hành động cần thiết
của mỗi quốc gia.
Tại Điều 16 Công ước CEDAW năm 1981 đã đề cập đến quyền bình
đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực hơn nhân và gia đình với mục đích “xóa bỏ
mọi sự phân biệt đối xử với phụ nữ”, bảo đảm các quyền về kết hôn, ly hôn,
sinh đẻ, quyền đối với con cái, quyền và nghĩa vụ đối với tài sản có trước và
sau khi kết hơn… phải được các quốc gia thành viên thực hiện trên cả phương
diện lý luận cũng như thực tế.
Bình đẳng giới trong lĩnh vực gia đình cịn được đề cập trong rất nhiều
văn bản quy phạm pháp luật, từ Hiến pháp qua các thời kỳ đến các Bộ luật.
Luật Dân sự năm 2005, Luật Hình sự năm 1999, Luật Hơn nhân và gia đình
năm 2000, Luật Bình đẳng giới năm 2006 và Luật Phịng, chống bạo lực gia
9
đình năm 2007 quy định các hành vi bị coi là bạo lực, các biện pháp phòng
chống bạo lực, biện pháp xử lý vi phạm đối với hành vi bạo lực.
Sự ra đời của Luật Bình đẳng giới và Luật Phịng chống bạo lực gia
đình đã một lần nữa cụ thể hóa các văn bản quy phạm pháp luật từ trước tới
nay trong lĩnh vực gia đình, đặc biệt là các nội dung liên quan đến quyền bình
đẳng của phụ nữ, bình đẳng giới trong lĩnh vực gia đình.
Trong thực tế, về phương diện xây dựng văn bản quy phạm pháp luật,
Nhà nước ta đã xây dựng được một hệ thống luật tương đối cụ thể và hoàn
chỉnh. Đặc biệt Nhà nước ta đã có nhiều tiến bộ ngang bằng với nhiều quốc
gia trên thế giới. Tuy nhiên, do cơ chế thực hiện pháp luật còn nhiều kẽ hở
nên những chính sách pháp luật cịn chưa đi sâu vào đời sống xã hội. Xét về
phương diện áp dụng luật, quyền lợi của phụ nữ chưa thực sự được bảo đảm
trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực gia đình. Trên thực tế xã hội, người
phụ nữ vẫn phải gánh vác rất nhiều cơng việc gia đình, họ có thể vẫn phải đi
làm mỗi ngày như nam giới và khi về nhà nhiều chị em lại đầu tắt mặt tối lo
toan trách nhiệm của người vợ, người mẹ trong nhà như: đi chợ, nấu cơm, đón
con rồi tắm rửa cho con, cho con ăn, dọn dẹp và thậm chí cả dạy con học,
trong khi đó các ơng chồng sẵn sàng chia sẻ cơng việc cho vợ lại rất ít. Nên
mọi gánh nặng gia đình vẫn cịn đè nên vai người phụ nữ. Điều này ảnh
hưởng rất lớn đến sự phát triển của người phụ nữ trong xã hội vì họ khơng
cịn nhiều thời gian dành cho việc học tập nâng cao trình độ chun mơn,
nâng cao kiến thức xã hội và thậm chí là khơng cịn đủ thời gian để quan tâm
chăm sóc chính mình.
3. Trong lĩnh vực đào tạo nghề
Để thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ, bảo đảm bình đẳng giới
trong lĩnh vực đào tạo, Luật bình đẳng giới quy định “Nam nữ được bình
đẳng trong lựa chọn ngành nghề, trong việc tiếp cận và hưởng thụ các chính
sách về giáo dục đào tạo” [Điều 14] và “ đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng
lực cho lao động nữ” (điểm b khoản 13 Điều 3). Quy định này đã thể hiện
10
những tư tưởng chủ yếu, có tính khái qt về quyền bình đẳng của phụ nữ
trong giáo dục, đào tạo nói chung. Thực tế ngun tắc bảo đảm quyền bình
đẳng của phụ nữ, bảo đảm bình đẳng giới trong lĩnh vực đào tạo nghề đã được
quy định tương đối cụ thể trong Bộ Luật lao động. Đặc biệt Bộ Luật lao động
còn quy định trách nhiệm của Nhà nước trong việc thực hiện các biện pháp
nâng cao trình độ nghề nghiệp, đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ,
quyền của lao động nữ được chấm dứt hợp đồng hành nghề với doanh nghiệp
nếu có thai phải nghỉ việc theo chỉ định của thầy thuốc mà không phải bồi
thường chi phí đào tạo…Những quy định này khơng chỉ khẳng định bình
đẳng giới, bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ mà cịn có những nội dung
riêng phù hợp, ưu tiên lao động nữ trên cơ sở chức năng giới của họ để bảo
đảm quyền bình đẳng trên thực tế.
Tuy nhiên, trên thực tế vấn đề đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ
chưa được hướng dẫn thực hiện hợp lý trong Bộ luật lao động, trách nhiệm
đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ thuộc cơ quan nhà nước (Điều 10),
nhưng theo nghị định 23/1996/NĐ-CP và Nghị định số 02/2001/NĐ-CP thì lại
thuộc trách nhiệm cả doanh nghiệp sử dụng lao động nữ. Điều này tạo cho
chủ doanh nghiệp tâm lý khơng muốn sử dụng lao động nữ vì phải tăng chi
phí, dẫn đến sự phân biệt đối xử phụ nữ khi tuyển dụng lao động.
Ngoài ra, các quy định khác của Luật bình đẳng giới mới chỉ quan tâm
đến bình đẳng trong giáo dục đào tạo nói chung và chủ yếu với đối tượng là
cán bộ công chức nữ. Ngồi các ngun tắc chung thì vấn đề đào tạo đối với
lao động nữ làm công hầu như chưa được Luật này chú trọng. Ví dụ, đối với
các đối tượng lao động giúp việc gia đình vẫn chưa có quy định điều chỉnh.
III. Các giải pháp thức đẩy, bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ,
quyền bảo đảm bình đẳng giới.
Bảo đảm quyền bình đẳng giới của phụ nữ, bảo đảm bình đẳng giới là
một trong những vấn đề được quan tâm ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Xây dựng một xã hội bình đẳng giới là một phần quan trọng trong chiến lược
11
phát triển nhằm bảo đảm quyền bình đẳng để tất cả mọi người cả nam và nữ,
nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo đảm công bằng xã hội. Ở nước ta, nam nữ
bình quyền và bình đẳng đã được Đảng và Nhà nước quan tâm từ rất sớm
bằng các chính sách cụ thể. Tuy nhiên do ảnh hưởng của Nho giáo, vấn đề
bình đẳng giới và sự tiến bộ, phát triển của phụ nữ Việt Nam, bên cạnh những
thành tựu cơ bản, vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế, thách thức. Để giải quyết
vấn đề này chúng ta cần đề ra các giải pháp thúc đẩy và có lộ trình thực hiện
cụ thể, rõ ràng và được sự ủng hộ của các cấp chính quyền từ Trung ương đến
cơ sở.
1. Biện pháp thúc đẩy
Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới là biện pháp nhằm bảo đảm quyền
bình đẳng của phụ nữ, bảo đảm bình đẳng giới thực chất do cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền ban hành trong trường hợp có sự chênh lệch lớn giữa
nam và nữ về vị trí vai trị, điều kiện, cơ hội phát huy năng lực và thụ hưởng
thành quả của sự phát triển mà việc áp dụng các quy định như nhau giữa nam
và nữ không làm giảm được sự chênh lệch này. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng
giới được dứt khi mục đích bình đẳng giới đã đạt được (Điều 5 khoản 6 Luật
Bình đẳng giới).
Theo khoản 1 Điều 19 Luật Bình đẳng giới các biện pháp thúc đẩy bình
đẳng giới gồm:
- Quy định tỷ lệ nam, nữ hoặc bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng tham gia, thụ
hưởng;
- Đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ năng lực làm việc cho nữ
hoặc nam giới;
- Hỗ trợ để tạo điều kiện, cơ hội;
- Quy định tiêu chuẩn, điều kiện đặc thù cho nữ hoặc nam;
- Quy định nữ được quyền lựa chọn trong trường hợp nữ có đủ điều
kiện, tiêu chuẩn như nam;
12
- Quy định việc ưu tiên nữ trong trường hợp nữ có đủ điều kiện, tiêu
chuẩn như nam.
Các biện pháp thúc đẩy mang tính nguyên tắc trên đã được cụ thể hóa
trong nhiều lĩnh vực, ở nhiều điều luật khác:
* Trong lĩnh vực chính trị, các biện pháp thúc đẩy là: bảo đảm tỷ lệ
thích đáng phụ nữ trong đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phù
hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới, bảo đảm tỷ lệ thích đáng trong
việc bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà nước phù hợp với mục tiêu
quốc gia về bình đẳng giới (khoản 5 Điều 11 Luật Bình đẳng giới).
* Trong lĩnh vực kinh tế, các biện pháp thúc đẩy, bảo đảm quyền bình
đẳng của phụ nữ, bảo đảm bình đẳng giới là: Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao
động nữ được ưu đãi về thuế và tài chính theo quy định của pháp luật, lao
động nữ khu vực nơng thơn được hỗ trợ tín dụng, khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến ngư theo khoản 2 Điều 12 Luật Bình đẳng giới.
* Trong lĩnh vực lao động, các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới là:
Quy định tỷ lệ nam, nữ được tuyển dụng trong lĩnh vực lao động, đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao năng lực cho lao động nữ; Người sử dụng lao động tạo điều
kiện về vệ sinh an toàn lao động cho lao động nữ làm việc trong một số ngành
nghề nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại (khoản 3 Điều
13 Luật Bình đẳng giới).
* Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, các biện pháp thúc đẩy bình đẳng
giới là: Quy định tỷ lệ nam, nữ tham gia học tập, đào tạo, lao động nữ trong
khu vực nông thôn được hỗ trợ dạy nghề theo quy định của pháp luật (khoản
5 Điều 11 Luật Bình đẳng giới).
Những quy định trên là cơ sở quan trọng để các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành các quy định cụ thể khi trong lĩnh vực mình quản lý có
sự chênh lệch lớn giữa tỷ lệ nam và nữ về vị trí, vai trò, điều kiện, cơ hội phát
huy năng lực và thụ hưởng thành quả của sự phát triển.
13
Trong lịch sử phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam, không phải
đây là lần đầu tiên các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới được đề cập, nhất là
sau khi Việt Nam phê chuẩn Công ước CEDAW. Trước và sau khi tham gia
Công ước, hệ thống pháp luật của nước ta đã thể hiện rõ các quy định khẳng
định nguyên tắc nam nữ bình quyền và bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ
và đồng thời cũng có những quy định thúc đẩy bình đẳng giới, chủ yếu trong
lĩnh vực đào tạo và chính trị.
Trong đào tạo, được thể hiện bằng các quy định khuyến khích, tạo điều
kiện cho phụ nữ học tập nâng cao trình độ, năng lực như trợ cấp đào tạo cho
nữ cao hơn nam, mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng riêng cho phụ nữ.
Trong chính trị, để nâng cao vị thế của phụ nữ, tăng tỷ lệ nữ đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, trong quá trình chuẩn bị bầu
cử, Đảng và Nhà nước đều có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn về việc bảo đảm tỷ
lệ nữ tham chính. Vị dụ, chỉ thị của Bộ Chính trị số 46-CT/TW ngày
6/12/2004 về Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X của Đảng quy định: "Đảm bảo tỷ lệ cấp ủy viên là nữ khơng dưới
15%". Tuy đã có nhiều văn bản pháp luật có các quy định về bình đẳng giới
nhưng trên thực tế, còn khá nhiều người, còn nhầm lẫn các quy định về biện
pháp thúc đẩy bình đẳng giới với các quy định mang tính chính sách dành
riêng cho phụ nữ. Tuy mang những ý nghĩa to lớn nhưng các biện pháp thúc
đẩy bình đảng giới vẫn khơng thể tránh khỏi những rào cản trong quá trình
thực hiện.
2. Các giải pháp thực hiện
Để thực hiện có hiệu quả Luật Bình đẳng giới, để các biện pháp thúc
đẩy bình đẳng giới được thực thi và để bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ
cần các giải pháp cụ thể như:
Thứ nhất, cần xem xét một cách thấu đáo và hợp lý vai trò của phụ nữ
với tư cách là người mẹ và với tư cách là người lao động để phân định ranh
giới quy định biện pháp thúc đẩy bình đảng giới và chính sách bảo đảm quyền
14
bình đẳng của phụ nữ. Khơng phải cả cuộc đời người phụ nữ lúc nào cũng gắn
trọn vẹn với con cái nên trong các quy định về chính sách bảo vệ và hỗ trợ
người mẹ chỉ nên xác định trong phạm vi cần thiết. Đến một khoảng thời gian
nhất định, khi đã cơ bản hoàn thành chức năng sinh đẻ và nuôi con, các biện
pháp bảo vệ và hỗ trợ với tư cách là bảo vệ người mẹ khơng cịn là vấn đề
quan trọng nữa. Lúc đó người phụ nữ cần được quan tâm đến với tư cách là
người lao động đã có thời gian hy sinh cho gia đình nên cần phải thực hiện
các biện pháp thúc đẩy cần thiết để được bình đẳng với lao động nam. Nếu
khơng quan tâm đến điều này, thự tế sẽ làm nảy sinh bất lợi về việc làm cho
phụ nữ. Ví dụ, quy định về công việc cấm sử dụng lao động nữ với mục đích
tốt đẹp là thơng qua việc bảo vệ phụ nữ, gián tiếp bảo vệ thế hệ tương lai. Tuy
nhiên, quy định này nên thay đổi khi phụ nữ đã sinh đủ số con theo chính sách
kế hoạch hóa gia đình hoặc khơng cịn khả năng sinh đẻ để khơng chặn cơ hội
tìm kiếm việc làm của phụ nữ. Mặt khác liên quan đến chất lượng của thế hệ
tương lai, pháp luật cũng cần quan tâm, bảo vệ phụ nữ với tư cách là người
mẹ và nam giới với tư cách là người cha.
Quy định tại khoản 3 Điều 13 Luật Bình đẳng giới buộc người sử
dụng lao động phải tạo điều kiện an toàn cho lao động nữ khi làm việc
trong môi trường nặng nhọc, độc hại chính là gợi ý quan trọng cho phân
tích trên. Mối quan tâm chính của các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới
hay phương pháp "tiếp cận thực chất" trong vấn đề này là âtọ cơ hội bình
đẳng về việc làm, giải quyết những nguy cơ đối với phụ nữ để họ được làm
việc chứ không lựa chọn cách không cho họ làm việc. Như vậy nó cần
được cụ thể hóa trong văn bản hướng dẫn hoặc được quy định đồng bộ khi
xem xét sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên
quan mang tính chun ngành. Ví dụ như hệ thống pháp luật lao động.
Thứ hai, mặc dù Việt Nam được bạn bè quốc tế đánh giá là một trong
những quốc gia có hệ thống pháp luật về bình đẳng giới tương đối tiến bộ
nhưng từ các quy định của pháp luật đến thực tế còn một khoảng cách khá xa,
15
chúng ta đã và đang và sẽ còn tiếp tục gặp phải những rào cản, thách thức
không nhỏ trong quá trình triển khai thực hiện, khi xã hội vẫn cịn tồn tại quan
niệm, tư tưởng "trọng nam khinh nữ là một thói quen mấy nghìn năm để lại,
vì nó đã ăn sâu vào đầu óc của mọi người, mọi gia đình, mọi tầng lớp xã hội".
Đặc biệt trong nhận thức của nhân dân và kể cả những đại biểu, những người
có vai trị hoạch định chính sách cũng vẫn cịn mang nặng định kiến "công
việc nội trợ là thiên chức bẩm sinh của phụ nữ" hoặc cho rằng phụ nữ được
q nhiều so với nam giới vì có những quy định riêng. Do vậy các quy định
hướng dẫn, các văn bản cần quan tâm, nhiều hơn đến khía cạnh làm thay đổi
nhận thức, thái độ và hành vi của các chủ thể, không phân biệt cơ quan, tổ
chức hay cá nhân, vì nếu nhận thức khơng thơng thì khó có thể đạt được mục
tiêu như mong muốn.
Thứ ba, các biện pháp thúc đẩy, bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ,
bình đẳng giới chỉ có thể đạt được khi có nỗ lực từ cả hai phía. Nhà nước tạo
cơ hội và một số điều kiện nhất định còn bản thân người phụ nữ phải tự vươn
lên, tạo cho mình hành trang cần thiết cả về trình độ và năng lực. Tuy vậy,
thực tế cho thấy, một bộ phận không nhỏ trong số phụ nữ còn tự ti, an phận,
chấp nhận với định kiến xã hội, khơng có ý chí vươn lên. Do đó, phụ nữ cần
quan tâm đến chính bản thân mình, đấu tranh với những tư tưởng lạc hậu,
định kiến và các cơ quan đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho phụ
nữ cần tăng cường nhiều biện pháp để hỗ trợ họ. Cần làm theo lời căn dặn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời "Mọi người Việt Nam phải hiểu biết
quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức..." và "phụ nữ càng
cần phải học, đã lâu chị em bị kìm hãm, đây là lúc chị em phải cố gắng để
theo kịp nam giới, để xứng đáng mình là một phần tử trong nước, có quyền
bầu cử và ứng cử..." được phổ biến rộng rãi đến từng gia đình, từng người để
cùng chia sẻ và nỗ lực vươn lên. Điều này sẽ góp phần giảm thiểu và tiến tới
xóa bỏ tư tưởng định kiến của nho giáo theo kiểu "nhất nam viết hữu, thập nữ
16
viết vơ..." "tại gia tịng phụ, xuất giá tịng phu, phu tử tịng tử"... đã tồn tại
hàng nghìn năm trong đời sống xã hội.
Thứ tư, việc cụ thể hóa các quy định về biện pháp thúc đẩy, bảo đảm
quyền bình đẳng của phụ nữ cần được thể hiện rõ cả nội dung và cơ chế thực
thi, trong đó cơ chế thực thi là yếu tố quan trọng để các giải pháp đi vào cuộc
sống có hiệu quả. Chẳng hạn, "dành tỷ lệ thích đáng", "phù hợp và bảo đảm
quyền bình đẳng của phụ nữ"... phải được hiểu như thế nào cho đúng và làm
thế nào để đạt được... Trong đó cần bảo đảm các quy định sát với thực tế trên
cơ sở phân tích thấu đáo mối quan hệ giữa chi phí, lợi ích, hiệu quả và cơng
bằng xã hội, bảo đảm mục tiêu bình đẳng giới.
Đồng thời, cũng cần quy định rõ các căn cứ, điều kiện, thời điểm, mức
độ, đối tượng áp dụng biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong từng lĩnh vực:
trình tự và thủ tục áp dụng, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc
áp dụng các biện pháp; xác định nguồn kinh phí, quy định một khoản kinh phí
nhất định cho việc tổ chức thực hiện các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới,
thanh tra, kiểm tra thực trạng áp dụng các biện pháp để kịp thời phát hiện
những sai phạm; rà soát lại hệ thống các văn bản pháp luật để tránh áp dụng
tùy tiện, chồng chéo.
17
C. KẾT LUẬN
Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới, bảo đảm quyền bình đẳng của phụ
nữ là biện pháp bảo đảm bình đẳng giới thực chất, do cơ quan nhà nước ban
hành trong từng điều kiện cụ thể các biện pháp có thể được sửa đổi, bổ sung
cho phù hợp với thực tế nhằm tạo điều kiện, cơ hội phát huy năng lực và thụ
hưởng thành quả của sự phát triển mà việc áp dụng các quy định như nhau
không bảo đảm được quyền lợi bình đẳng cho phụ nữ.
Thực hiện bình đẳng giới là vấn đề quan trọng, nó khơng chỉ là trách
nhiệm của nhà nước mà cịn là trách nhiệm của các tổ chức, gia đình và tồn
xã hội. Các tư tưởng định kiến giới đã ăn sâu vào tư duy của mỗi người và là
quan niệm xã hội. Muốn thay đổi định kiến giới, khơng chỉ có vai trị của Nhà
nước trong hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật mà các cơ quan, tổ
chức, công dân cũng phải tiến hành tuân thủ các quy định của pháp luật về
bình đẳng giới, đồng thời tích cực vận động tuyên truyền bình đẳng giới nhằm
đạt đến sự thay đổi về bề rộng và bề sâu các tư tưởng, quan niệm bất bình
đẳng nam nữ và nhằm bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ, của một nửa thế
giới./.
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp năm 1946, năm 1959.
2. Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959, 1986.
3. Luật Bình đẳng giới năm 2006.
19
MỤC LỤC
2.1. Giai đoạn trước cách mạng tháng 8 năm 1948...........................................5
2.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1975.......................................................................6
2.3. Giai đoạn từ năm 1975 đến nay..................................................................6
II. Thực trạng.....................................................................................................7
1. Trong lĩnh vực lao động - việc làm...............................................................8
2. Trong lĩnh vực gia đình.................................................................................9
3. Trong lĩnh vực đào tạo nghề........................................................................10
III. Các giải pháp thức đẩy, bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ, quyền bảo
đảm bình đẳng giới..........................................................................................11
1. Biện pháp thúc đẩy......................................................................................12
2. Các giải pháp thực hiện...............................................................................14
C. KẾT LUẬN.................................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................19
20