TIỂU ḶN
MƠN: VĂN HĨA TỘC NGƯỜI
Đề tài:
VẤN ĐỀ BẢO TỒN, PHÁT HUY VĂN HÓA
CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
MỤC LỤC
- Lời mở đầu
Tr. 3
- Nội dung
Tr. 4
1. Quan niệm về văn hóa tộc người và văn hóa các dân tộc
thiểu số
Tr. 4
2. Thực trạng của sự biến đổi văn hóa các dân tộc thiểu số
ở nước ta hiện nay
Tr. 9
3. Định hướng, chủ trương của Đảng đối với vấn đề bảo tồn,
phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay
Tr. 11
4. Một số giải pháp bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc
thiểu số
Tr. 12
- Kết luận
Tr. 15
- Tài liệu tham khảo
Tr. 16
Trang 2
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, 54 dân tộc anh em là 54 màu sắc văn
hóa khác nhau tạo nên một nền văn hóa riêng đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.
Văn hoá tộc người bao gồm tổng thể các yếu tố về tiếng nói, chữ viết, sinh hoạt
văn hố vật chất và văn hố tinh thần, các sắc thái tâm lý và tình cảm, phong tục
và lễ nghi… khiến người ta phân biệt tộc người này với các tộc khác. Văn hoá
tộc người là nền tảng nảy sinh và phát triển của ý thức tộc người. Một dân tộc bị
đồng hoá, tức bị mất văn hố riêng thì ý thức tộc người trước sau cũng bị mai
một. Hiện nay, vấn đề văn hóa nói chung và văn hóa các dân tộc thiểu số nói
riêng đang được rất nhiều sự quan tâm của xã hội. Đời sống văn hóa mỗi ngày
càng phong phú hơn, sinh động và phức tạp hơn bởi sự bao quát và thẩm thấu
của nó trong mọi hoạt động sống, trong phong tục tập quán của con người, của
từng tộc người
Di sản văn hóa dân tộc thiểu số là những giá trị vật chất và tinh thần được
tích tụ, gìn giữ trong tồn bộ q trình lịch sử phát triển của dân tộc thiểu số, là
bộ phận cấu thành quan trọng của văn hóa dân tộc thiểu số. Trong thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, vấn đề bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống dân
tộc thiểu số có ý nghĩa thực tiễn vô cùng quan trọng, trở thành động lực tinh thần
thúc đẩy phát triển về mọi mặt ở khu vực dân tộc thiểu số, làm phong phú kho
tàng văn hóa Việt Nam, lưu giữ tính đa dạng của văn hóa thế giới, góp phần bảo
đảm quyền lợi của văn hóa dân tộc thiểu số. Chính vì vậy, vấn đề bảo tồn, phát
huy văn hóa các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay đang được Đảng, Nhà nước,
các cấp, các ngành đưa ra nghiên cứu tìm hiểu. Đây cũng là lý do em chọn đề tài
“Vấn đề bảo tồn và phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay”
làm tiểu luận hết mơn học “Văn hóa tộc người”.
Trang 3
NỘI DUNG
1. Quan niệm về văn hóa tộc người và văn hóa các dân tộc thiểu số
Văn hóa là một lĩnh vực xã hội rộng lớn, văn hóa gắn liền với con người,
do con người sáng tạo ra và phục vụ cho cuộc sống con người. Vì vậy, có thể coi
lịch sử xã hội loài người là lịch sử phát triển của văn hóa. Văn hóa đóng vai trị
quan trọng đối với sự phát triển hưng thịnh, suy vong của một quốc gia, một dân
tộc hay một thời đại.
Xuất phát từ quan niệm về bản chất của con người và về phương thức xác
định bản chất của sự "tồn tại người" của triết học Mác, chúng ta có thể đi tới một
kết luận rằng: Nếu tự nhiên là cái nôi đầu tiên của sự hình thành và phát triển con
người thì văn hóa là cái nơi thứ hai. Nếu tự nhiên là cái quy định sự tồn tại của
con người với tư cách là một thực thể sinh vật, thì văn hóa là phương thức bộc
lộ, phát huy những năng lực bản chất người gắn liền với các hoạt động sống của
con người. Nói cách khác, văn hóa là sự kết tinh năng lực bản chất người trong
thế giới các sản phẩm do chính hoạt động con người tạo ra, là cái quy định bản
chất con người với tư cách là một "sinh vật có tính lồi" - là "một thực thể xã hội".
Nhân loại ngày càng quan tâm đến văn hóa. Vấn đề văn hóa trở thành
trung tâm chú ý của giới nghiên cứu trên thế giới. Ở nước ta, đặc biệt là từ khi
bước vào thời kỳ đổi mới, vấn đề văn hóa cũng được tập trung đề cập. Mặc dù
góc độ nghiên cứu, phương pháp tiếp cận có thể khác nhau nhưng người ta đều
nhất trí rằng văn hóa là một cái gì đó giúp cho con người "không bị đứt đoạn với
quá khứ", "không bị hẫng hụt trước tương lai", và là sự chuẩn bị đầy đủ "hành
trang của con người để bước vào thế kỷ XXI".
Cho đến nay đã có tới hàng trăm định nghĩa khác nhau về văn hóa. Thuật
ngữ "văn hóa" xuất hiện từ rất sớm trong ngôn ngữ nhân loại (xuất phát từ gốc
Trang 4
chữ latinh "Cultura" - có nghĩa là trồng trọt, canh tác). Qua các thời kỳ lịch sử,
khái niệm văn hóa được bổ sung thêm những nội dung mới. Người ta đưa ra rất
nhiều định nghĩa về văn hóa, đặc biệt là trong khoảng vài chục năm trở lại đây.
Các định nghĩa đó được hình thành hoặc theo lối duy danh định nghĩa, hoặc là
trên cơ sở các phương pháp tiếp cận khác nhau (như phương pháp nghiên cứu hệ
thống - cấu trúc, hay phương pháp nghiên cứu chức năng của văn hóa); hoặc
cũng có thể xuất phát từ quan điểm lịch đại xem xét văn hóa với tư cách là tiêu
chí để phân định các bước tiến bộ xã hội, hay từ quan điểm đồng đại xem xét văn
hóa như là một trong những tiêu chuẩn để so sánh (phân biệt) trình độ phát triển
của các quốc gia... Đánh giá một cách tổng thể, cho đến nay văn hóa vẫn là một
trong những khái niệm phức tạp và khó xác định. Trong “Thập kỷ thế giới vì sự
phát triển văn hóa” Phederico Mayo – Tổng giám đốc UNESCO lúc đó có đưa ra
quan niệm: “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo trong quá
khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên
một hệ thống các giá trị, các truyền thống và các thị hiếu – những yếu tố xác
định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”. Hay Hồ Chí Minh – danh nhân văn hóa thế
giới, đã đưa ra định nghĩa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi
người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa
học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về
mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó
tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với
biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời
sống và địi hỏi của sự sinh tồn”.
Từ những cách hiểu về văn hóa khác nhau ấy, ta có thể đưa ra định nghĩa
về văn hóa tộc người như sau: Văn hóa tộc người là tồn bộ những giá trị văn
hóa vật thể và phi vật thể do các cộng đồng tộc người sáng tạo ra trong quá trình
sinh tồn, phát triển, gắn với mơi trường tự nhiên, xã hội. Nó phản ánh những đặc
Trang 5
điểm trong tư duy và lao động sáng tạo của các tộc người trong các giai đoạn
phát triển với các thông tin về nội hàm và ngoại diên phản ánh sự vận động nội
tại trong mối quan hệ văn hóa ở cấp độ tộc người và quốc gia (Giáo trình dân tộc
học đại cương, tập II, Trường đại học Văn hóa Hà Nội, 1997 do Lê Ngọc Thắng
chủ biên). Hay văn hóa tộc người là tổng thể sống động các giá trị văn hóa vật
thể và phi vật thể do các cộng đồng tộc người sáng tạo ra trong tiến trình lịch sử,
thể hiện bản sắc tộc người, là bộ phận hữu cơ của văn hóa quốc gia.
Văn hố tộc người tương ứng với cộng đồng tộc người, hình thành sớm
nhất từ hậu kì đá mới và tồn tại bền vững tới tận ngày nay. Việt Nam từ thời lập
quốc Văn Lang - Âu Lạc (cách ngày nay khoảng 2500 năm) thì quốc gia đó đã là
quốc gia đa tộc người. Các dấu hiệu văn hố hiện tại cịn nhận biết được qua các
di vật khảo cổ cho thấy, có thể cư dân của các quốc gia cổ đại ấy nói các ngơn
ngữ khác nhau thuộc Mơn - Khơme cổ, Việt - Mường cổ, Tày - Thái cổ.
Từ đó trở đi, cùng với việc mở rộng và củng cố cương vực của các triều
đại phong kiến, thì tính đa tộc người của quốc gia Việt Nam càng trở nên rõ rệt
hơn. Cho tới nay, theo cơng bố chính thức của Nhà nước vào năm 1979 thì nước
Việt Nam có 54 tộc người, thuộc nhiều nhóm ngơn ngữ - tộc người khác nhau:
Việt - Mường, Môn - Khơme, Tày - Thái, Nam Đảo, Hmông - Dao, Tạng - Miến,
Hán, với những sắc thái văn hóa rất phong phú, đa dạng. Sắc thái văn hoá đa
dạng ấy thể hiện trên ba cấp độ: Sắc thái đa dạng của nhóm ngơn ngữ - tộc
người, của tộc người và của nhóm địa phương của tộc người.
Từ góc độ tộc người và văn hóa thì Việt Nam giống như một Đông Nam Á
thu nhỏ, bởi vì trên lãnh thổ Việt Nam hiện sinh sống đầy đủ các đại biểu của các
nhóm ngơn ngữ - tộc người (ngữ hệ và ngữ tộc) lớn của Đông Nam Á, như Nam
Á (trong đó có Mơn - Khơme, Việt - Mường, Thái, Hmông - Dao), Nam Đảo
(Austronésien), Hán - Tạng (Tạng - Miến, Hán). Việc phân chia (phân loại) các
Trang 6
tộc người ở Đông Nam Á nêu trên cơ bản dựa trên các cứ liệu về mối quan hệ
thân thuộc về ngôn ngữ, tuy nhiên, từ các mối quan hệ thân thuộc ấy, sự tương
đồng về những đặc trưng văn hoá cũng thể hiện khá rõ. Chúng ta hãy tạm nêu các
đặc trưng cơ bản về văn hoá của các nhóm ngơn ngữ - tộc người của Việt Nam:
- Nhóm Việt - Mường: Bao gồm người Việt, Mường, Thổ và Chứt, có dân
số đơng nhất ở Việt Nam (trên 85% dân số cả nước). Các tộc người này có nguồn
gốc chung từ cộng đồng người Tiền Việt Mường (Việt cổ) thời Văn hố Đơng
Sơn, cách ngày nay khoảng gần 3000 năm. Trong suốt thời Bắc Thuộc (thế kỉ I X), đã diễn ra q trình phân hố giữa người Việt và Mường và sau đó các cộng
đồng nhỏ hơn, như Chứt, Thổ tách khỏi người Việt vào khoảng thế kỉ XV. Cư
dân nhóm Việt - Mường chủ yếu canh tác nông nghiệp trồng lúa nước ở đồng
bằng châu thổ ở Bắc Bộ và Nam Bộ và rẻo đồng bằng hẹp ven biển miền Trung.
Sự tương đồng văn hoá giữa các tộc người này thể hiện chủ yếu về trình độ phát
triển, trong đó tộc người Việt phát triển cao, cịn các nhóm Thổ, Chứt thì sống
biệt lập và có phần thối hố.
- Nhóm Mơn - Khơme: Bao gồm 21 tộc người khác nhau, như: Khơ me,
Bana, Xơ đăng, Cơ ho, Hrê, Co, Mnông, Mạ, Xtiêng, Bru, Tà ôi, Cơ tu, GiẻTriêng, Brâu, Rơmăm, Chơro, Khơmú, Kháng, Xinh mun, Mảng, Ơđu. Đó là các
tộc người bản địa ở Việt Nam và các nước Đông Dương. Hiện nay họ sinh sống
ở các miền rẻo giữa vùng núi và cao nguyên, làm nương rẫy canh tác lúa khô, cơ
cấu xã hội truyền thống là làng (bn, bon, plây) mang tính cộng đồng cao, tín
ngưỡng đa thần, văn hố giữ lại nhiều tàn dư của xã hội ngun thuỷ, ít chịu ảnh
hưởng văn hố Hán và ấn Độ (trừ dân tộc Khơme).
- Nhóm Tày - Thái: Bao gồm 8 tộc người: Thái, Tày, Nùng, Lự, Lào, Giáy,
Bố y, Sán chay, sinh sống chủ yếu ở các thung lũng miền núi phía bắc Việt Nam,
tạo nên một dạng sinh thái - tộc người thung lũng và cùng với nó là dạng văn hố
Trang 7
thung lũng. Họ canh tác lúa nước, xã hội tổ chức thành bản (làng) và Mường,
một hình thức tổ chức tiền nhà nước. Mối quan hệ và tương đồng về ngơn ngữ và
văn hố giữa các tộc người này khá gần gũi và chặt chẽ.
- Nhóm Nam Đảo (Austronésien): Bao gồm 5 tộc người: Chăm, Êđê, Gia
rai, Raglai, và Chu ru, sinh sống chủ yếu ở Tây Nguyên và duyên hải Nam Trung
Bộ. Tổ tiên của các tộc người này có lẽ là chủ nhân của văn hố Sa Huỳnh thời
sơ kì kim khí. Sau đó có sự phân hố giữa người Chăm cư trú ven biển tiếp thu
văn hoá ấn Độ và hình thành nhà nước Chămpa thời đầu công nguyên với các tộc
người khác vượt lên sinh sống ở Tây Ngun, khơng hoặc ít chịu ảnh hưởng văn
hố ấn Độ, là tổ tiên của các tộc Êđê, Gia rai, Raglai và Chu ru ngày nay. Văn
hoá của các tộc người này mang sắc thái văn hoá biển, thể hiện qua huyền thoại,
sử thi, truyền thuyết, kiến trúc nhà ở, phong tục, nghi lễ...
- Nhóm Hmơng - Dao: Bao gồm 3 tộc: Hmông (Mèo), Dao và Pà Thẻn,
sinh sống chủ yếu ở vùng rẻo núi cao miền núi phía bắc Việt Nam, tạo nên dạng
sinh thái - tộc người rẻo cao. Họ canh tác nương rẫy trồng ngô và lúa khô. Các
tộc người này từ Trung Quốc di cư vào Việt Nam từ các thời kì lịch sử khác
nhau, sớm nhất từ thế kỉ XIII (người Dao) và thế kỉ XVIII - XIX (Hmơng). Văn
hố các tộc người này mang sắc thái Bắc Á, thể hiện qua trang phục, truyền
thuyết, nghi lễ, đặc biệt là Shaman giáo.
- Nhóm Tạng - Miến (Tiberto - Birman): Bao gồm các tộc người: Hà nhì,
Lơ lơ (Di), La hủ, Cống, Phù lá, Si la, sinh sống chủ yếu ở vùng núi cao giáp
biên giới Việt Nam - Trung Quốc, tương tự điều kiện sinh thái của nhóm Hmơng
- Dao. Họ canh tác nương rẫy, trồng lúa và ngô. Các tộc người này về lịch sử và
văn hố gắn bó mật thiết với các tộc người ở vùng tây nam Trung Quốc, mà tổ
tiên họ đã từng sáng tạo nên văn hoá Điền thời sơ kì kim khí và là chủ nhân nhà
nước Nam Chiếu thời đầu thiên niên kỉ II sau công nguyên. Các tộc người này di
Trang 8
cư vào Việt Nam vào các thời kì lịch sử khác nhau, mang theo văn hoá vùng Tây
Tạng và xa hơn là Trung á, làm phong phú hơn văn hoá Việt Nam.
- Nhóm ngơn ngữ Hán: Gồm các tộc người: Hoa, Ngái và Sán Dìu, trong
đó người Hoa thường sinh sống ở các đơ thị, cịn người Ngái, Sán Dìu thì tụ cư
xen cài với các tộc khác ở miền núi phía bắc Việt Nam. Các tộc này đều từ Trung
Quốc di cư vào Việt Nam, trong đó người Hoa là tộc người góp phần truyền bá
văn hố Hán vào Việt Nam.
Mỗi tộc người vừa nêu trên thường hình thành các nhóm địa phương, giữa
chúng có những khác biệt nhất định về thổ ngữ, trang phục, phong tục tập quán,
nghi lễ... trong một số trường hợp, như các nhóm địa phương của tộc người
Hmơng, Dao thì sự khác biệt ấy khá lớn, thậm chí tiếng nói giữa các nhóm rất
khác nhau. Tình trạng đó khiến cho tính đa dạng và phong phú của văn hoá tộc
người càng trở nên sống động và rõ rệt hơn.
2. Thực trạng của sự biến đổi văn hóa các dân tộc thiểu số ở nước ta
hiện nay
Khi nhận diện và đánh giá thực trạng biến đổi văn hóa các dân tộc thiểu số
ở nước ta hiện nay (cả mặt tích cực và tiêu cực) nhiều người đánh giá vai trò
quan trọng của sự đổi mới của Đảng và Nhà nước (điều đó là đúng) nhưng lại
không công bằng khi đổ hết tội lỗi cho kinh tế thị trường. Một cách đánh giá
khác là nêu lên khá nhiều thành tựu của sự nghiệp phát triển văn hóa, xem đó là
yếu tố cơ bản (điều đó là cần thiết) nhưng lại thiếu thiện chí với những ai nhận
xét, phản biện ngược chiều. Chẳng hạn như việc nhiều nhà nghiên cứu văn hóa
tâm huyết cảnh báo xu hướng chối bỏ các hoạt động văn hóa dân gian truyền
thống, hay sự đồng hóa tự nhiên theo xu hướng Kinh hóa là một thực trạng khó
cưỡng nổi trong một bộ phận người dân tộc thiểu số cần phải xem xét một cách
thấu đáo, nhưng không dược sự quan tâm của nhiều người. Xem ra cách nhận xét
Trang 9
trung dung về những biến đổi văn hóa có vẻ sống lâu nhất vì nó làm cho mọi
người vừa lịng vì cảm thấy dễ chịu. Cách này được bảo kê bằng cái gọi là “tư
duy biện chứng” nhưng thật ra đó là một trong nhiều kiểu “tránh đạn” tốt nhất,
tránh né sự va chạm dễ nhất.
Sự biến đổi của văn hóa hay sự tha hóa của con người, suy cho cùng cũng
chỉ là một bởi lẽ hai khái niệm con người và văn hóa khơng thể tách rời nhau.
Các dân tộc thiểu số là những chủ thể của những nền văn hóa vơ cùng đa dạng và
sự đa dạng đó đã làm nên tiềm năng văn hóa vơ cùng độc đáo của văn hóa Việt
Nam. Điều quan trọng là sự đa dạng đó có mất đi, bị bào mịn hay được bồi đắp
trước những biến đổi văn hóa mạnh mẽ hiện nay. Có một thực tế là có nhiều nhà
nghiên cứu văn hóa (dù khơng phải là người dân tộc thiểu số) thật sự đau xót
trước những mất mát của văn hóa các dân tộc thiểu số thì chính cộng đồng văn
hóa đó lại có vẻ như khơng quan tâm nhiều lắm, ngoại trừ một bộ phận người
già, nghệ nhân, trí thức các dân tộc thiểu số... Cách diễn đạt này có thể gây tổn
thương cho những người yêu mến văn hóa, ý thức rất rõ về văn hóa của dân tộc
mình, nhưng khơng đến nỗi ngộ nhận khi hiện nay có nhiều người dân tộc thiểu số
sống theo lối sống của người Kinh, đặc biệt là lớp trẻ. Điều này cũng xảy ra đối
với lớp trẻ Việt Nam khi sống trong mơi trường tồn cầu hóa, khi họ bị lây nhiễm
lối sống phương Tây ở khía cạnh tiêu cực và đối lập với văn hóa truyền thống.
Sự đan xen của giá trị, bản sắc văn hóa với sự mất mát vốn di sản văn hóa
ở các dân tộc thiểu số Việt Nam đang diễn ra từng ngày, từng giờ trong nếp nghĩ,
lối sống, ứng xử, đặc biệt là ở các dân tộc thiểu số bản địa. Ngày càng có nhiều
người dân tộc thiểu số sống theo lối sống của người Kinh khơng cịn là điều mới
mẻ nữa, và điều đó khơng có gì là sai lầm, nhưng sẽ thế nào nếu như họ khơng
cịn tâm thức và ý thức tộc người. Việc lớp trẻ giờ đây mặc quần jean, nhuộm tóc
đỏ, chơi nhạc rốc hay híp hop… hồn tồn không đồng nghĩa với việc nhận định
Trang 10
họ đã bị Tây hóa, Hàn hóa, bởi bản chất tồn cầu hóa đã tạo cơ hội được chia sẻ
và tiếp biến các giá trị, các lối sống khác nhau. Điều cốt lõi là trong q trình hịa
nhập, giao lưu, bản sắc của dân tộc hay tộc người có bị đồng hóa hay được bồi
đắp để hình thành nên các lớp văn hóa, truyền thống văn hóa. Q trình đó, thực
trạng đó ngày càng cho thấy, sự nhận diện vấn đề phát triển văn hóa các dân tộc
thiểu số ở Việt Nam hiện nay không thật sự dễ dàng!
3. Định hướng, chủ trương của Đảng đối với vấn đề bảo tồn, phát huy
văn hóa các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay
Trong Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi
mới (1986-2016) nhận định: Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chính sách về văn
hóa trong đó ít nhiều liên quan đến vấn đề văn hóa dân tộc thiểu số. Những định
hướng, chính sách đó đã thể hiện bước tiến về nhận thức lý luận của Đảng về văn
hóa nói chung và văn hóa dân tộc thiểu số nói riêng. Trong đó nhận thức lý luận
về vai trị to lớn của văn hóa, xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội,
vừa là mục tiêu, vừa là động lực, là nguồn lực nội sinh quan trọng của phát triển;
về những đặc trưng cơ bản của văn hóa dân tộc và những định hướng lớn về chủ
trương, giải pháp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bàn sắc dân
tộc… được thể hiện trong các văn kiện của Đảng từ năm 2006 về trước, đặc biệt
là Nghị quyết Trung ương năm khóa VIII, đến nay, về cơ bản, vẫn còn nguyên
giá trị. Từ Đại hội IX đến Đại hội XI, trực tiếp là Hội nghị Trung ương mười
khóa IX ban hành Kết luận “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương năm
khóa VIII “về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc” và Hội nghị Trung ương chin khóa XI ban hành Nghị quyết “về xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước”, Đảng ta tiếp tục bổ sung, phát triển, làm sâu sắc hơn một số vấn
đề lý luận về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam.
Trang 11
Xác định tính chất của nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam mà chúng ta phấn
đấu xây dựng, trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, hội nhập quốc tế, Đảng ta nhấn mạnh các đặc trưng: dân tộc, nhân văn,
dân chủ, khoa học. Những đặc trưng này là sự phát triển, hoàn thiện các đặc
trưng dân tộc, khoa học, đại chúng đã được Đảng ta xác định trong Đề cương về
văn hóa Việt Nam năm 1943; kết tinh những giá trị văn hóa, con người Việt Nam
trong thời kỳ mới. Bên cạnh đó, các định hướng, chính sách như: Nghị quyết số
23-NQ/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ
thuật trong thời kỳ mới hay định hướng phát triển, đề án phát triển đội ngũ trí
thức trong đó đều định hướng phát triển văn học nghệ thuật, đội ngũ văn nghệ
sỹ, trí thức thuộc các dân tộc thiểu số…
Việc Đảng và Nhà nước ta quan tâm đề ra những chủ trương, chính sách
bảo tồn phát huy văn hóa dân tộc thiểu số có tác dụng tích cực đối với việc kế
thừa, phát triển truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc thiểu số, đồng thời thúc
đẩy bình đẳng, đồn kết, tiến bộ toàn dân tộc. Tuy nhiên, trong quá trình thực
hiện, các cấp chính quyền và người dân bản địa đã gặp khơng ít khó khăn trong
việc cân bằng giữa phát triển kinh tế với bảo tồn văn hóa, gìn giữ sự phong phú
đa dạng của văn hóa dân tộc thiểu số.
4. Một số giải pháp bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc thiểu số
- Phát triển bền vững trên cơ sở dung hòa giữa kinh tế và văn hóa: Cần tận
dụng tối đa ưu thế sinh thái tự nhiên và tài nguyên văn hóa của dân tộc thiểu số,
tìm kiếm điểm giao nhau giữa bảo tồn văn hóa dân tộc và phát triển kinh tế, dung
hịa giữa kinh tế và văn hóa. Việt Nam có 54 dân tộc, mỗi dân tộc đều có văn hóa
vật chất và tinh thần đặc sắc của riêng mình. Những phong tục độc đáo đó có sức
hấp dẫn vơ cùng lớn với con người sinh sống trong xã hội có nhịp sống gấp gáp
Trang 12
như hiện nay. Một số khu vực dân tộc thiểu số có nguồn tài ngun sinh thái tốt,
mơi trường sinh thái sơn thủy hữu tình, những thứ mà vùng phát triển khơng có
được, nơi đây lại có. Những điểm này sẽ cung cấp điều kiện tìm kiếm điểm giao
nhau giữa bảo tồn văn hóa dân tộc và phát triển kinh tế.
- Kết hợp giữa khai thác văn hóa và phát triển: Cần tăng cường nhận thức
kinh tế của dân tộc thiểu số, đem phong tục văn hóa dân gian dân tộc tiếp cận thị
trường, áp dụng phương thức đưa và lợi dụng vốn của cá nhân, doanh nghiệp vào
công tác bảo tồn, khai thác văn hóa; biến nghệ thuật dân gian dân tộc thành
nguồn tài sản, kết hợp văn hóa truyền thống dân tộc thiểu số và phát triển kinh tế
hữu cơ, đồng thời từng bước phát triển thành điểm tựa của kinh tế văn hóa. Bên
cạnh đó, cần khai thác du lịch một cách hợp lý trên cơ sở thúc đẩy khai thác, bảo
tồn những giá trị văn hóa truyền thống; khiến cho tinh hoa văn hóa dân tộc được
tôi luyện, truyền bá và phát triển rộng rãi, giúp cho nền du lịch hiện đại và xã hội
dân tộc thiểu số tìm được điểm giao nhau, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển bền
vững. Văn hóa dân tộc thiểu số đã qua quy hoạch khoa học, quản lý thích hợp sẽ
khiến ngành du lịch hiện đại và xã hội dân tộc thiểu số tìm được tiếng nói chung
khiến nó vượt qua q trình cơng nghiệp hóa, trực tiếp bước vào xã hội hậu cơng
nghiệp hóa.
- Kết hợp khai thác văn hóa và những hình thức truyền thơng: Khai thác
phong tục dân tộc thiểu số, hình thức sinh hoạt, âm nhạc, vũ đạo… chế tác thành
phim điện ảnh, truyền hình; xuất bản nhiều tác phẩm có đề tài văn hóa dân tộc
thiểu số. Lợi dụng sức hấp dẫn của văn học nghệ thuật, sự thịnh hành của âm
nhạc vũ đạo, tính sinh động của mạng internet, các tác phẩm phim ảnh… khiến
người dân có thêm hiểu biết về văn hóa dân tộc thiểu số, kích phát niềm u
thích của họ với văn hóa dân tộc thiểu số, từ đó khiến họ ủng hộ thậm chí đầu tư
vào hạng mục bảo tồn, phát triển văn hóa dân tộc thiểu số.
Trang 13
- Giáo dục trong nhà trường phải đưa môn học kế thừa văn hóa dân tộc
vào nội dung giảng dạy: Việc bảo tồn văn hóa dân gian dân tộc cần bắt đầu từ
giáo dục, muốn xây dựng một vùng đất giàu chất dinh dưỡng để tiến hành bảo
tồn, kế thừa, phát triển văn hóa dân gian dân tộc, bắt buộc phải đưa văn hóa dân
gian dân tộc vào nội dung giảng dạy, đặc biệt là ở khu vực dân tộc thiểu số, cần
mở những mơn học liên quan, duy trì chế độ giáo dục song ngữ. Từng bước đầu
tư thêm cho bảo tồn văn hóa, đẩy mạnh cơng tác nghiên cứu văn hóa dân tộc,
thúc đẩy tiến trình lập pháp của bảo tồn văn hóa dân tộc. Về vấn đề này, tác giả
Tơ Ngọc Thanh đã từng có ý kiến: “Đưa thêm vào chương trình giáo dục phổ
thơng những kiến thức về văn hóa các tộc người Việt Nam. Khơi phục việc dạy
chữ dân tộc trong các trường trước đây do chiến tranh nên bị bỏ dở. Đồng thời,
nghiên cứu việc tạo bộ chữ cho các tộc người chưa có chữ viết”. Bên cạnh đó,
cần tiếp tục thúc đẩy cơng tác điều tra chỉnh lý văn hóa dân gian dân tộc.
- Bồi dưỡng ý thức về giá trị văn hóa dân tộc, đẩy mạnh tuyên truyền bảo
tồn văn hóa dân tộc: Chúng ta cần làm rõ hơn về vai trò to lớn và lâu dài của văn
hóa trong phát triển kinh tế, nhận thức rằng văn hóa cũng là sức sản xuất. Đẩy
mạnh tuyên truyền bảo tồn văn hóa trong q trình khai thác, động viên tồn xã
hội quan tâm bảo tồn và khai thác văn hóa dân tộc, giúp đồng bào dân tộc thiểu số
biết rằng văn hóa có thể tạo ra lợi nhuận, vừa có lợi cho việc sáng tạo và phát triển
kinh tế bền vững, vừa có lợi cho việc xây dựng văn hóa xã hội tại khu vực này...
Trang 14
KẾT LUẬN
Việt Nam vốn là một quốc gia đa dân tộc từ thời dựng nước. Sự đa dạng
và thống nhất về văn hóa đã tồn tại như là một đặc tính của nền văn hóa Việt. Nó
là một nhân tố quan trọng góp phần tạo nên sức mạnh Việt Nam - một quốc gia
được xây dựng trên nền tảng của một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng bao
gồm những tinh hoa của văn hóa cộng đồng các dân tộc.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc bảo tồn và phát
huy di sản truyền thống của cộng đồng các dân tộc, việc khôi phục các giá trị cũ
đang được Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư cả về mặt chính sách và các
nguồn lực hỗ trợ. Nước ta, một mặt chấp nhận mơ hình phát triển đa văn hóa của
các tộc người, một mặt có những chính sách hợp lý để tạo sự liên kết, thống nhất.
Bên cạnh đó,chúng ta cần nhận thức thật rõ vai trị của chủ thể văn hóa dân tộc
thiểu số để “khơi dậy tinh thần, văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc...
Chính họ sẽ là người viết từng trang lịch sử tiếp theo của dân tộc mình”. Đó là
quan điểm, chủ trương hồn tồn đúng đắn. Đây cũng là hướng đi cần thiết đảm
bảo cho sự phát triển thống nhất trong đa dạng - một kiểu phát triển bền vững.
Trang 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
PGS.TS Nguyễn Thị Hương, Bài giảng Văn hóa tộc người;
2.
GS.TS. Phùng Hữu Phú (chủ biên): Phát triển văn hóa sức
mạnh nội sinh của dân tộc trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế, Nxb Chính trị Quốc giá, Hà Nội , 2016.
3.
Ngơ Đức Thịnh, Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt
Nam, Nxb khoa học xã hội Hà Nội, 2006;
4.
Ngô Đức Thịnh, Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt
Nam, Nxb khoa học xã hội Hà Nội, 1993;
5.
Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TP. Hồ
Chí Minh;
6.
Một số tài liệu trên internet.
Trang 16