MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
3
NỘI DUNG
4
I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
4
1.1. Quan niệm về văn hóa
4
1.2. Quan niệm về văn hóa tộc người
6
1.2.1. Quan niệm về tộc người
6
1.2.2. Quan niệm về văn hóa tộc người
9
1.2.3. Các dạng thức của văn hóa tộc người
10
II. THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI VĂN HĨA CÁC DÂN TỘC THIỂU
SỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
11
2.1. Sự biến đổi của ngôn ngữ tộc người
11
2.2. Biến đổi về văn hóa vật thể
12
2.3. Biến đổi về văn hố phi vật thể
13
III. CÁC XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC
THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
16
3.1. Xu hướng giữ gìn, kế thừa và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc
phù hợp với điều kiện phát triển mới
3.2. Xu hướng tiếp biến văn hóa thơng qua giao lưu trong nước và hội
nhập quốc tế
3.3. Xu hướng suy giảm bản sắc văn hóa các DTTS, đặc biệt là văn hóa
phi vật thể
16
17
18
KẾT LUẬN
21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
23
2
MỞ ĐẦU
Các tộc người trong tiến trình lịch sử của mình đều sáng tạo một phức
hợp văn hố tạo nên nét riêng (bản sắc) của mình, góp phần làm phong phú văn
hóa Việt Nam đa tộc người. Q trình tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
đã và đang tạo ra một sân chơi chung, trong đó sự phát triển của các các quốc
gia về kinh tế, xã hội và văn hóa có sự gắn kết với sự phát triển của khu vực và
thế giới. Dù muốn hay hay khơng, dù nhìn từ góc độ nào, thì văn hóa quốc gia
cũng như văn hóa tộc người đều bị ảnh hưởng, chi phối của q trình đó.
Có thể thấy một mặt, sự tác động của tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế
đang mở ra cho mỗi quốc gia dân tơc cơ hội để khai thác những gì tốt nhất cho
sự phát triển. Đây cũng là cơ hội để văn hóa mỗi dân tộc tự khẳng định mình.
Khơng thể phủ nhận được sự làm giàu văn hóa nhân loại từ những bản sắc văn
hóa của từng dân tộc và từng tộc người, khi những di sản văn hóa riêng đó được
UNESCO cơng nhận di sản văn hóa thế giới. Q trình đó cũng đang tạo điều
kiện cho mỗi quốc gia, dân tộc cơ hội tiếp nhận chuyển giao về khoa học công
nghệ phục vụ cho sáng tạo, bảo quản, quảng bá văn hóa, phát triển cơng nghiệp
văn hóa… Nhưng mặt khác cũng cho thấy, tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế cũng đưa đến nguy cơ làm xói mịn, thậm chí triệt tiêu sự khác biệt văn
hóa dân tộc. Sự cảnh báo hãy coi “xâm lăng về văn hóa là sự xâm lăng cuối
cùng và triệt để nhất” không là ngoại lệ đối với dân tộc quốc gia nào.
Trong bối cảnh đó, văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam cũng đang
diễn ra một quá trình hội nhập giữa văn hóa truyền thống và hiện đại, giữa văn
hóa tộc người và văn hóa quốc gia, văn hóa quốc tế rất mạnh mẽ, rộng khắp và
tất yếu thì việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống các tộc
người thiểu số ở Việt Nam là nhiệm vụ cần thiết và cấp bách. Với ý nghĩa đó,
tơi lựa chọn vấn đề “Tìm hiểu các yếu tố tác động và xu hướng biến đổi văn
hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam” làm đề tài tiểu luận của mình.
3
NỘI DUNG
I- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Quan niệm về văn hóa
Chủ nghĩa Mác xít quan niệm: Văn hóa là tồn bộ những giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong
quá trình lịch sử của mình.
Hồ Chí Minh thể hiện quan niệm về Văn hóa qua một số ghi chép ở trang
cuối cùng của tập thơ “Nhật ký trong tù” (1942-1943) như sau: “Ý nghĩa của
văn hóa: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng
tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo,
văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và
các phương thức sử dụng, toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn
hóa”. Từ nhận thức ấy, Hồ Chí Minh đưa ra khái niệm về văn hóa: “Văn hóa là
sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi
người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với những nhu cầu của đời sống và địi hỏi
của sự sinh tồn”. Có thể nói, đây là một cách tiếp cận văn hóa từ ý nghĩa khái
quát, đặc trưng nhất của nó, một định nghĩa cơ đọng và chính xác về văn hóa.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa là xuất phát từ cách tiếp cận mác-xít và
rất gần gũi với nhận thức hiện đại, khi coi văn hóa khơng chỉ đơn thuần là đời
sống tinh thần của con người - xã hội mà từ trong bản chất của mình, nó chính là
linh hồn, sức mạnh trường tồn của cả dân tộc, là sức sống vươn lên của thời đại.
Văn hóa khơng phải là toàn bộ đời sống con người xã hội, mà là phần cốt tử, là
tinh hoa được chưng cất, kết tụ nên cái bản chất, bản sắc, tính cách của dân tộc,
của thời đại. Nó được xuất phát từ cuộc sống, từ năng lực, trình độ và phương
thức sống của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng. Và đến lượt mình, văn hóa hiện diện
trong mọi hoạt động từ suy tư đến hành động thực tế, từ hoạt động cá nhân đến
những vận động xã hội, từ hoạt động vật chất đến những sáng tạo tinh thần
4
những phát minh, sáng chế, tạo ra những giá trị mới của sản xuất vật chất, khoa
học - kỹ thuật - công nghệ, văn học - nghệ thuật.
Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hóa UNESCO đã thừa nhận
khái niệm do Ph.Mây-ơ (F. Mayor) nguyên Tổng Giám đốc của tổ chức này
đưa ra là khái niệm chung, chính thức của cộng đồng quốc tế về văn hóa năm
1970: “Văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân
tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng,
phong tục, tập quán, lối sống và lao động”.
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 5 (khóa VIII),
Đảng ta khẳng định: Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh
thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước
và giữ nước…, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh
thế giới để khơng ngừng hồn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên
tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc.
Như vậy ta thấy, tuy được dùng theo nhiều nghĩa khác nhau, nhưng suy cho
cùng, khái niệm văn hố bao giờ cũng có thể qui về hai cách hiểu chính: theo
nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng.
Theo nghĩa hẹp, văn hoá được giới hạn theo chiều sâu hoặc theo chiều rộng,
theo không gian hoặc theo thời gian… Giới hạn theo chiều sâu, văn hóa được hiểu
là những giá trị tinh hoa của nó (nếp sống văn hố, văn hoá nghệ thuật…). Giới
hạn theo chiều rộng, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị trong từng lĩnh vực
(văn hoá giao tiếp, văn hoá kinh doanh…). Giới hạn theo khơng gian, văn hố
được dùng để chỉ những giá trị đặc thù của từng vùng (văn hoá Tây Nguyên, văn
hoá Nam Bộ…). Giới hạn theo thời gian, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị
trong từng giai đoạn (văn hố Hồ Bình, văn hố Đơng Sơn…).
Theo nghĩa rộng, văn hoá thường được xem là bao gồm tất cả những gì do
con người sáng tạo ra.
Chính với cách hiểu rộng này, văn hoá đã trở thành đối tượng của văn hoá
học (culturology, culture studies, science of culture) - khoa học nghiên cứu về văn
5
hóa. Trong lĩnh vực này, khởi đầu từ định nghĩa của E.B.Tylor trong cuốn Văn
hoá nguyên thuỷ (Primitive culture) xuất bản ở London năm 1871, đến nay đã có
rất nhiều định nghĩa khác nhau. Vào năm 1952, hai nhà nhân học người Mỹ là A.
Kroeber và C. Kluckhohn đã viết một cuốn sách chuyên bàn về các định nghĩa
văn hóa nhan đề: Văn hóa - tổng luận phê phán các quan niệm và định nghĩa
(Culture: a critical review of concepts and definitions), trong đó đã dẫn ra và phân
tích 164 định nghĩa về văn hoá. Trong lần xuất bản thứ hai của cuốn sách này, số
định nghĩa văn hoá đã tăng lên đến trên 200. Cịn hiện nay thì số lượng định nghĩa
về văn hóa khó mà biết chính xác được, có người bảo là 400, có người nói là 500,
lại có người quả quyết rằng chúng lên đến con số nghìn.
1.2. Quan niệm về văn hóa tộc người
1.2.1. Quan niệm về tộc người
Tộc người và vấn đề tộc người là điểm xuất phát quan trọng trong nghiên
cứu văn hóa tộc người. Cùng với việc tiếp cận từ các khoa học liên ngành/đa
ngành khác, khi nghiên cứu văn hóa tộc người không thể không gắn với quan
điểm của dân tộc học. Hầu hết các nhà chuyên môn đều thừa nhận rằng, đối
tượng của Dân tộc học là tất cả các dân tộc, dù ở bậc thang phát triển thấp hay
cao, thiểu số hay đa số, đã tồn tại trong quá khứ hay là đang tồn tại hiện nay,
nghiên cứu ngôn ngữ, văn hóa tộc người là một trong những nhiệm vụ cơ bản
của Dân tộc học.
Tiếp cận từ Dân tộc học là cơ sở quan trọng để nghiên cứu quá trình hình
thành, đặc trưng, vai trị của văn hóa tộc người đối với tiến trình lịch sử nhân
loại và quốc gia.
Trong thực tế của nghiên cứu khoa học và đời sống, khái niệm dân tộc
thường được dùng với hai nghĩa: dân tộc (quốc gia) và dân tộc (tộc người). Phân
biệt khái niệm dân tộc khơng những có ý nghĩa đối với nghiên cứu văn hóa tộc
người, mà cịn có ý nghĩa trong quan niệm về chính sách dân tộc.
Dân tộc (ethnie), dân tộc (tộc người) là khái niệm khoa học mới xuất hiện
từ cuối thế kỷ XIX (1896) được A.Fouillée (Alfred Jules Émile Fouillée) sử
6
dụng lại. Ban đầu thuật ngữ này được dùng để chỉ các nhóm tộc người hay đơn
vị tộc người, đến nửa đầu thế kỷ XX thuật ngữ này mới được sử dụng rộng rãi
trong giới khoa học.
Trong thực tiễn cũng như khoa học, dân tộc (nation) và dân tộc (ethnie) là
hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Nếu dân tộc (nation) phải là một cộng đồng
chính trị, cư dân sống chung trên một lãnh thổ, có chung một nhà nước, một
chính phủ, thống nhất về luật pháp; thì dân tộc (ethnie) là cộng đồng mang tính
tộc người. Các tộc người không nhất thiết phải cùng cư trú trên một lãnh thổ,
khơng nhất thiết có chung nhà nước và sinh hoạt kinh tế, cũng như không nhất
thiết phải chung sự thống nhất về luật pháp.
Tuy có nhiều góc độ tiếp cận khác nhau khi nghiên cứu, nhưng về cơ bản
có sự thống nhất trong quan niệm về tộc người (dân tộc - ethnie): Tộc người là
khái niệm chỉ các cộng đồng mang tính tộc người bất kỳ, bao gồm cả các cộng
đồng tộc người chủ thể của các quốc gia và các cộng đồng tộc người thiểu số
trong các quốc gia, vùng miền, khơng phân biệt đó là cộng đồng tộc người tiến
bộ hay cộng đồng tộc người đang trong quá trình phát triển.
Thực tế trong thế giới hiện đại, đang có nhiều quốc gia là quốc gia đa dân
tộc. Sự đang tồn tại của các loại hình cộng đồng dân tộc và cộng đồng tộc người
như hiện nay, rất cần có nhận thức về dân tộc quốc gia và dân tộc tộc người như
trên đây.
Các tiêu chí để xác định dân tộc (tộc người):
Trên thế giới đã tồn tại những quan điểm về các tiêu chí xác định dân tộc
(tộc người). Có thể tham khảo các quan điểm sau đây:
- Quan điểm của các nhà Dân tộc học Xô viết (áp dụng xác định thành phần
dân tộc ở Liên bang Cộng hịa XHCN Xơ viết):
1. Cùng cư trú trên một phạm vi lãnh thổ nhất định;
2. Cùng nói một ngơn ngữ;
3. Có chung các đặc điểm văn hóa;
7
4. Có cùng ý thức dân tộc (ý thức tự giác tộc người).
- Quan điểm của các nhà nghiên cứu Trung Quốc, họ vẫn dựa theo quan
niệm của J.V.Stalin (áp dụng xác định thành phần dân tộc ở Trung Quốc), cho
rằng: Dân tộc là một cộng đồng người ổn định được hình thành trong lịch sử có
chung ngơn ngữ, lãnh thổ, đời sống kinh tế, cùng chung một tố chất tâm lý biểu
hiện trong cùng một văn hóa. Trong đó có hai vấn đề tiên quyết: Dân tộc là một
phạm trù lịch sử của thời đại tư bản chủ nghĩa đang lên, trước đó khơng thể có
dân tộc; và thiếu một trong 4 yếu tố trên (lịch sử, ngôn ngữ, lãnh thổ, tâm lý),
cũng khơng thể xác định đó là một dân tộc.
- Quan điểm có tính phổ biến trên thế giới, cho rằng có 5 tiêu chí để xác
định dân tộc (tộc người):
1. Cùng tiếng mẹ đẻ (ngôn ngữ tộc người thống nhất);
2. Cùng một khu vực lãnh thổ (lãnh thổ tộc người thống nhất);
3. Có nền kinh tế tộc người thống nhất;
4. Có các đặc trưng văn hóa tộc người thống nhất;
5. Có ý thức tự giác tộc người thống nhất...
Việt Nam là quốc gia đa sắc tộc, vấn đề tiêu chí xác định tộc người được
đặt ra từ nhiều thập kỷ trước. Các nhà khoa học Việt Nam thống nhất với quan
điểm cho rằng, có ba tiêu chí để xác định tộc người:
1. Có chung ngơn ngữ mẹ đẻ;
2. Có chung đặc điểm sinh hoạt văn hóa;
3. Có cùng ý thức tự giác tộc người (thể hiện ở tộc danh).
1.2.2. Quan niệm về văn hóa tộc người
Quan điểm biện chứng khẳng định rằng, sự tồn tại của con người và xã hội
là cuộc đấu tranh nhằm đáp ứng nhu cầu về vật chất và tinh thần trong cuộc sống
của mình. Đời sống vật chất và đời sống tinh thần là hiện tượng phổ quát của xã
hội loài người nói chung và các tộc người.
8
Sự vận động về mặt vật chất và tinh thần của chủ thể tộc người luôn luôn
gắn với thời gian và khơng gian cụ thể. Q trình quan hệ với tự nhiên và xã hội,
các tộc người đã sáng tạo những sản phẩm có giá trị, đồng thời qua đó thể hiện
mình trước tự nhiên và xã hội. Văn hóa chính là sự thể hiện mình theo một cách
riêng, trong điều kiện cụ thể của một chủ thể văn hóa. Trong trường hợp này,
một trong những định nghĩa văn hóa sau đây đáp ứng được các ý nghĩa khi tiếp
cận nghiên cứu văn hóa tộc người: “Văn hóa là tổng thể sống động của các hoạt
động sáng tạo trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỷ, các hoạt động sáng
tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”. Trong mối liên hệ với
văn hóa tộc người, văn hóa trước hết là những sáng tạo giá trị mang tính nhân
sinh, là yếu tố để phân biệt đặc tính riêng của các cộng đồng dân tộc.
Trong quá trình vận động, trước cả khi nhà nước xuất hiện, các tộc người
ln có ý thức xây dựng và bảo vệ tộc danh và ý thức tộc người cũng như kinh
tế và văn hóa của cộng đồng mình. Văn hóa chính vì vậy không những là yếu tố
cấu thành tộc người, bao gồm tri thức, tín ngưỡng, đạo đức, nghệ thuật, luật
pháp, tập quán, sinh hoạt..., mà còn thể hiện bản sắc của nhiều cộng đồng có
chung tộc danh. Những sáng tạo đó thể hiện năng lực con người với tính cách là
thành viên của cộng đồng xã hội, nhằm đáp ứng những nhu cầu đời sống và
những đòi hỏi của sự sinh tồn.
Từ sự phân tích trên đây, khái niệm văn hóa tộc người được hiểu như sau:
Văn hóa tộc người là tổng thể sống động các giá trị văn hoá vật thể và phi vật
thể do các cộng đồng tộc người sáng tạo ra trong tiến trình lịch sử, thể hiện bản
sắc tộc người, là bộ phận hữu cơ của văn hóa quốc gia.
Sự hình thành văn hóa tộc người là một giai đoạn lịch sử đặc biệt trong tiến
trình phát triển của nhân loại. Văn hóa tộc người là cội nguồn, nền tảng hình
thành và phát triển văn hóa quốc gia, văn hóa nhân loại. Bởi nói đến văn hóa tộc
người là nói đến tổng thể các yếu tố về tiếng nói, chữ viết, sinh hoạt văn hóa vật
9
chất và văn hóa tinh thần, các sắc thái tâm lý và tình cảm, phong tục và lễ nghi...
căn cứ để phân biệt tộc người này với tộc người khác.
1.2.3. Các dạng thức của văn hóa tộc người
Một số dạng thức cơ bản của văn hóa tộc người:
- Nhà nghiên cứu văn hóa Ngơ Đức Thịnh phân chia các dạng thức văn hóa
ở Việt Nam như sau: (1) Văn hóa cộng đồng (bao gồm văn hóa tộc người; văn
hóa quốc gia; văn hóa làng; văn hóa gia đình, gia tộc và dịng họ; văn hóa tơn
giáo tín ngưỡng; văn hóa nghề nghiệp); (2) Văn hóa cá nhân; (3) Văn hóa vùng
lãnh thổ; (3)Văn hóa sinh thái...
Theo quan điểm trên, văn tộc người là một trong sáu dạng thức quan trọng
của văn hóa cộng đồng. Quan điểm này cũng phân chia văn hóa tộc người Việt
Nam thành các dạng thức dựa trên căn cứ chính là theo nhóm ngơn ngữ:
+ Nhóm Việt - Mường
+ Nhóm Mơn-Khơme
+ Nhóm Tày-Thái
+ Nhóm Nam Đảo (Austronésien)
+ Nhóm Hmơng-Dao
+ Nhóm Tạng-Miến.
- Cũng có thể phân chia các dạng thức văn hóa tộc người dựa trên căn cứ
về nhu cầu và hình thức tồn tại của các sản phẩm sáng tạo. Văn hóa tộc người sẽ
được phân chia dưới hai dạng thức: Văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể của
tộc người. Đây là những giá trị cơ bản của văn hóa tộc người, kết quả tư duy và
lao động sáng tạo của các cộng đồng tộc người trong quá trình lịch sử tồn tại và
phát triển.
Sự phân chia các dạng thức văn hóa tộc người có ý nghĩa quan trọng trong
nghiên cứu giá trị, bản sắc văn hóa tộc người, đặc biệt nghiên cứu mối quan hệ
10
giữa văn hóa tộc người trong q trình hình thành và phát triển nền văn hóa
quốc gia dân tộc.
II. THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta phát triển trong bối cảnh của
phát triển thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường đã khơi
dậy mọi tiềm năng sáng tạo, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội,
tạo thêm nhiều giá trị văn hóa mới, làm giàu thêm bản sắc văn hóa dân tộc,
nhưng đồng thời cũng nảy sinh những mặt tiêu cực, có nguy cơ hủy hoại bản sắc
văn hóa dân tộc quốc gia cũng như bản sắc văn hóa tộc người. Có nhiều yếu tố
tác động đến sự biến đổi của văn hóa tộc người.
Sự biến đổi văn hóa tộc người ở nước ta mới được xét ở ba phương diện
chủ yếu: ngôn ngữ tộc người, văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể.
2.1. Sự biến đổi của ngôn ngữ tộc người
Trong xu thế tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế tồn diện hiện nay, sự
biến đổi văn hóa các dân tộc trước hết là biến đổi về ngôn ngữ tộc người. Nhiều
cơng trình nghiên cứu cho rằng, có ba phương thức chủ yếu tác động đến sự thay
đổi này, đó là: chính sách, truyền thơng và thị trường.
Tiếng Kinh được xác định là tiếng phổ thông và được sử dụng làm ngơn
ngữ hành chính. Sự biến đổi về ngơn ngữ tộc người như hiện nay sẽ ảnh hưởng
lớn đến quá trình sáng tạo, trao truyền và hưởng thụ văn hóa của đồng bào.
Học sinh không những học tiếng phổ thông, mà đội ngũ giáo viên
là người dân tộc cũng có số lượng rất ít. Tuy Nhà nước ta đã có chủ trương bổ
sung đội ngũ trợ lý ngôn ngữ cho các trường tiểu học, nhưng kết quả vẫn hạn
chế và thực tế chưa đáp ứng được yêu cầu. Bộ Giáo dục - Đào tạo đã có chương
trình xây dựng chữ viết cho các tộc người, chữ viết này được đưa vào giảng dạy
từ tiểu học. Trên thực tế, chương trình này đã hạn chế phần nào hiện tượng phổ
thơng hóa về ngôn ngữ, và cũng tạo điều kiện cho người dân sáng tạo văn hóa
nghệ thuật, bảo vệ, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình…
Điều đáng nói đây chỉ mới là chương trình thử nghiệm, chưa phổ biến.
11
Cùng với chính sách ngơn ngữ của Nhà nước như đã nêu trên đây, truyền
thơng cũng có tác động khơng nhỏ. Trên các hệ thống thông tin đại chúng
ở nước ta, tiếng phổ thông được dùng để chuyển tải các thông tin vẫn là ngôn
ngữ chủ yếu. Tiếng các dân tộc thiểu số mới chỉ được sử dụng còn, rất hạn chế
trong các chương trình phát thanh, truyền hình của Trung ương và địa phương.
Hơn nữa, chỉ có một số tiếng các dân tộc là được lựa chọn và sử dụng trong các
chương trình truyền thơng. Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước việc phủ sóng hầu khắp của phát thanh và truyền hình đã tăng cường tính
tiếp cận thơng tin của người dân, nhưng vì ngơn ngữ truyền thơng bằng tiếng các
dân tộc cịn q ít, nên cũng hạn chế đến bảo tồn giá trị văn hóa các dân tộc.
Q trình phát triển kinh tế thị trường của đất nước cũng tạo điều kiện
cho người dân của các dân tộc thiểu số tiếp cận với những thơng tin, dịch
vụ kinh tế và văn hóa, nhưng việc giao dịch chủ yếu trên thị trường vẫn bằng
tiếng phổ thơng. Khi trao đổi hàng hóa, hầu hết người dân tộc thiểu số, đặc biệt
là bà con nông dân vẫn phải sử dụng tiếng Kinh.
Mặt hạn chế của thực tế này cũng ảnh hưởng lớn đến việc bảo tồn, phát
huy giá trị văn hóa các dân tộc.
2.2. Biến đổi về văn hóa vật thể
Cùng với biến đổi về ngơn ngữ, sự biến đổi văn hóa vật chất của các dân
tộc thiểu số dễ nhận thấy nhất là về kiến trúc nhà ở, trang phục và tập quán ăn
uống…
Về nhà ở: Trong vài chục năm trở lại đây, xuất hiện xu hướng trong đời
sống các dân tộc, đó là bỏ nhà sàn, làm nhà đất, nhà ngói, nhà tầng... như nhà
của người Kinh. Hoặc vẫn làm nhà sàn, nhưng có cải tiến. Hoặc trong một gia
đình, làm cả nhà đất và nhà sàn. Nhiều nơi, ngói hố nhà ở đã trên 50%. Nhiều
dân tộc thiểu số có tập quán làm nhà Rơng, nhà Gươi (nơi sinh hoạt văn hố và
dạy nghề truyền thống của cộng đồng), nhưng giờ đây, tập quán đó đang bị thay
đổi.
Về trang phục: Việc chối bỏ trang phục truyền thống của dân tộc mình từ
lâu đã trở thành hiện tượng phổ biến của các dân tộc thiểu số, nhất là các dân tộc
12
sinh sống ở vùng thấp. Một số dân tộc và những người già vẫn sử dụng trang
phục truyền thống hàng ngày, một số khác, chỉ dùng trong những ngày lễ hội,
tết. Có nơi, trong ngày cưới, cả cơ dâu và chú rể đem theo một bộ trang phục
truyền thống, để trước lúc bước qua cửa nhà chồng (hoặc vợ) thì mặc vào khi
đứng trước bàn thờ tổ tiên (theo phong tục). Sau khi làm lễ trình diện trước bàn
thờ tổ tiên xong, họ lại thay âu phục. Nhiều đám cưới, cả cô dâu và chú rể đều
không sử dụng trang phục dân tộc, mà ăn mặc hoàn toàn theo lối “tây hóa”.
Cũng có trường hợp, do trao đổi hàng hố, nên trong trang phục có hiện
tượng ảnh hưởng giữa các dân tộc. Ví dụ, ở vùng Tây Bắc Việt Nam, trang phục
của nhiều dân tộc chịu ảnh hưởng sâu sắc của người Thái. Biến đổi trong trang
phục có nhiều nguyên nhân. Chưa kể đến nguyên nhân tâm lý, kinh tế thị trường
đã đáp ứng nhu cầu trang phục truyền thống may sẵn bằng vải màu thay cho
may bằng vải dệt và thêu hoa văn truyền thống, giá cả rẻ hơn nhiều. Hơn nữa
trang phục như người Kinh cũng giản tiện, dễ mua bán.
Về ăn uống: Những năm gần đây, lĩnh vực này đã có sự thay đổi cơ bản.
Điều này được thể hiện qua các loại thực phẩm được chọn để tạo đồ ăn, thức
uống và cách chế biến cũng như tập tục ăn uống. Các cư dân Tày, Thái, trước
đây chủ yếu ăn xôi nếp, nay chuyển sang ăn cơm tẻ. Các loại gia vị và thực
phẩm công nghiệp, như mì chính, bột canh, mì ăn liền… ngày càng được dùng
phổ biến. Trong khi đó nhiều món ăn và một số loại bánh đã khơng cịn nữa,
hoặc chỉ xuất hiện trong những dịp lễ, tết.
Sự biến đổi này cũng có nguyên nhân do kinh tế phát triển, đời sống
đồng bào được nâng cao, nhất là về nhu cầu lương thực, thực phẩm. Kinh tế thị
trường đã tạo điều kiện cho sự trao đổi hàng hóa đa dạng hơn. Mặt khác, cũng
có sự tác động do mở rộng giao lưu giữa các dân tộc về mọi phương diện, dẫn
đến ảnh hưởng qua lại cả hai bên đối với nhiều lĩnh vực văn hóa trong đó có tập
quán ăn uống.
2.3. Biến đổi về văn hoá phi vật thể
So với văn hoá vật thể, sự biến đổi trong văn hoá phi vật thể diễn ra
tương đối chậm hơn. Tuy vậy, trước sự tác động của kinh tế thị trường và truyền
13
thơng tồn cầu, trong phong tục tập qn, lễ hội, văn học dân gian… đã có thay
đổi khá rõ nét.
Về phong tục tập quán: Nhiều hủ tục lạc hậu, có ảnh hưởng đến sản xuất
và sức khoẻ cộng đồng đã bị bãi bỏ dần dần . Nhiều phong tục, tập quán tốt đẹp
được coi trọng và khuyến khích (ví dụ: tổ chức mừng thọ, cầu sức khoẻ cho
người già, mừng trẻ sơ sinh tròn ngày, đầy tháng… trở thành mối quan tâm
chung của cộng đồng làng bản.
Về văn hoá dân gian: Trước hết là các lễ hội dân gian. Các lễ hội này có
vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống tinh thần các dân tộc thiểu số. Tổ chức
lễ hội là dịp sinh hoạt cộng đồng, có tác dụng giải toả tinh thần, gắn kết các
thành viên, đoàn kết trong họ, trong bản. Các dân tộc Việt Nam có rất nhiều lễ
hội. Ví dụ: hội hạn khuống của người Thái, hội pồn pôông (chơi hoa) của người
Mường, hội sản sán (cịn gọi là gàu tào) của người Hmơng, hội cầu mưa của
người Pà Thẻn, hội trở về cội nguồn của người Lơ Lơ, hội rng poọc của người
Giáy...
Gần đây, các lễ hội được khôi phục và tổ chức hàng năm, thu hút khá
nhiều dân tộc các bản làng đến tham dự. Nhưng đáng tiếc, có khá nhiều lễ hội đã
bị mất đi, hoặc khơng cịn ngun ý nghĩa ban đầu của nó. Phần lớn các lễ hội
ngày càng bị đơn giản hố và hiện đại hố, thậm chí là hội nào cũng na ná giống
nhau, ít hấp dẫn. Người trẻ biết rất ít về các lễ hội.
Có hiện tượng thâm nhập những yếu tố văn hoá ngoại lai tiêu cực
ngồi ý muốn của cộng đồng đang làm xói mòn đi yếu tố truyền thống. Trước
1945, ở Việt Nam, chỉ một vài dân tộc thiểu số có chữ viết riêng, như: Thái,
Dao, Tày, Ê đê, Ba na... Còn hơn một nửa dân tộc thiểu số chưa có chữ viết. Vì
thế nền văn hố của các dân tộc chủ yếu là truyền miệng. Người già kể truyện cổ
tích, đọc thơ, kể sử thi cho con cháu nghe. Các tác phẩm văn học dân gian được
giữ gìn và lưu truyền theo con đường này.
Trong những thập kỷ gần đây, nhờ có sự phát triển của các phương tiện
thông tin đại chúng, nhiều hình thức sinh hoạt văn hố mới, như: nghe đài, xem
phim, xem các chương trình truyền hình... đã trở thành nhu cầu phổ biến của đại
14
đa số cư dân. Việc sinh hoạt và trao truyền các giá trị văn hố như trước đây
khơng cịn hấp dẫn nữa. Lớp trẻ đã dần quen với những hình ảnh “chú mèo
máy Đô rê môn”, với “thuỷ thủ mặt trăng”, “chuột Mickey”... mà không thể biết
đến nàng Slao cải, chàng Báo luông và những nhân vật khác trong truyện cổ tích
của dân tộc mình.
Về các làn điệu dân ca: Mỗi dân tộc đều có những làn điệu dân ca riêng
của mình với nhiều bài hát khác nhau. Phần lớn là những bài ca trữ tình, ca ngợi
tình yêu quê hương đất nước, tình u nam nữ. Người Tày có then, lượn (lượn
slương, lượn cọi, lượn nàng ới), phong slư, phuối pác, phuối rọi, cị lẩu, vén
eng. Người Mường có thường rang. Người Hmơng có gầu phềnh. Người Dao
có páo dung. Người Sán Chay có slình ca. Người Sán Dìu có soọng cơ... Xưa
kia, hát dân ca, nhất là hát giao duyên và hát ru là khá phổ biến trong đời sống
hàng ngày. Nhưng ngày nay, các bài hát cổ truyền đã dần dần mai một, thậm chí
nhiều nơi, các chị khơng cịn biết hát ru nữa.
Ở khu vực Trường Sơn - Tây Nguyên Việt Nam, trường ca (còn gọi sử
thi) là nét độc đáo trong văn học dân gian. Những trường ca được lưu truyền
bằng hình thức sinh hoạt đặc sắc là kể khan, thì giờ đây sinh hoạt kể sử thi hầu
như khơng cịn tồn tại trong đời sống thường ngày của cộng đồng dân tộc. Nhiều
người thường xuyên nghe hát dân ca qua máy thu thanh, hay xem ở các chương
trình truyền hình. Các cơ gái, chàng trai người dân tộc thiểu số đến chợ tình
thường mang theo cassette (phiên âm là cát-xét) phát ra tiếng khèn, hay những
làn điệu dân ca tỏ tình, thay cho chính mình hát.
Về các loại nhạc cụ: Nhiều dân tộc có hàng chục loại nhạc cụ khác nhau.
Ví dụ người Khơ Mú có mbring, rbang, thằm đao đao, đàn mơi, pi tơm, phi tot,
tịn mu, tót mạ boi, ho rơ, sừng cum, brưng tnếch... Người Tây Nguyên có dàn
cồng chiêng - đã được cơng nhận di sản văn hố thế giới. Các loại nhạc cụ được
phục vụ chủ yếu cho các hoạt động tơn giáo, tín ngưỡng và cả trong đời sống
hàng ngày. Hiện nay, nhiều loại nhạc cụ dân tộc đã bị mai một, người biết sử
dụng nhạc cụ dân gian cũng ngày càng ít hơn. Sự tác động của kinh tế thị
trường cũng đã biến nhiều nhạc cụ dân tộc trở thành hàng hoá được bày bán tại
15
các quầy hàng phục vụ khách du lịch. Còn những nhạc cụ hiện đại, như ghi- ta,
oóc-gan... đang dần thay thế các nhạc cụ dân gian.
Thực tế trên cho thấy q trình tồn cầu hóa và hội nhập đã và đang
tác động sâu sắc đến sự phát triển bền vững văn hóa của các dân tộc thiểu số.
Về mặt tích cực, q trình đó đã tạo nên sự giao lưu văn hóa mạnh mẽ chưa từng
có trong lịch sử đất nước nói chung. Kết quả khơng thể phủ nhận là văn hóa của
các dân tộc phong phú hơn. Trong văn hóa mỗi dân tộc đều in dấu ảnh hưởng
của văn hóa dân tộc khác. Điều đáng nói là sự biến đổi này hồn tồn tự nguyện,
khơng xảy ra xung đột văn hóa. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, sự xói
mịn thậm chí nguy cơ mất đi giá trị và bản sắc văn hóa của các dân tộc, đặc biệt
là các dân tộc thiểu số. Chính điều này đang làm giảm đa dạng trong nền văn
hóa quốc gia, văn hóa vùng, và sự phát triển bền vững văn hóa các dân tộc.
III. CÁC XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU
SỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Xu hướng giữ gìn, kế thừa và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc
phù hợp với điều kiện phát triển mới
Trong dịng chảy tồn cầu hóa, bảo tồn văn hóa truyền thống các DTTS là
nhằm lưu giữ tính đa dạng của văn hóa Việt Nam, làm phong phú kho tàng văn
hóa thế giới, tăng cường khai thác nguồn tài nguyên văn hóa, thúc đẩy phát triển
kinh tế đất nước, nâng cao lịng tự hào, tự tơn dân tộc, chống lại những âm mưu
phá hoại, chia rẽ của các lực lượng thù địch. Việt Nam đã có nhiều cố gắng, và đã
đạt được những kết quả lớn trong việc bảo tồn, kế thừa và phát huy nền văn hóa
truyền thống của các DTTS: kiểm kê, sưu tầm di sản văn hóa phi vật thể; bảo tồn
tiếng nói và chữ viết; xây dựng thí điểm làng văn hóa các dân tộc gắn với phát
triển du lịch sinh thái; tổ chức các lễ hội truyền thống đặc sắc (ngày hội văn hóa
và thể thao các dân tộc, liên hoan cồng chiêng, liên hoan ca múa nhạc dân gian,
triển lãm trang phục các dân tộc). Việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống của các DTTS, phục dựng các lễ hội các nghề thủ công truyền thống
và ẩm thực dân tộc lồng với các hoạt động du lịch đã góp phần phát triển kinh tế
tại các địa phương, đem lại thu nhập cho chính các chủ thể văn hóa và góp phần
16
quảng bá rộng rãi văn hóa các DTTS trong nước và ngồi nước.
3.2. Xu hướng tiếp biến văn hóa thơng qua giao lưu trong nước và hội
nhập quốc tế
Sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ, quá trình tồn cầu
hóa và hội nhập quốc tế, sự phát triển kinh tế của đất nước đã tạo điều kiện để văn
hóa các DTTS tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại để phát triển văn hóa theo
hướng tích cực, hiện đại và phù hợp hơn với tâm lý, tập quán đồng bào DTTS.
Đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các DTTS được cải thiện và
từng bước được nâng lên đã góp phần tạo mơi trường lành mạnh cho văn hóa
phát triển. Nhiều bản (bn, ấp, làng) đã xây dựng được quy ước, hương ước,
phục hồi nhiều giá trị văn hóa truyền thống; nhiều phong tục, luật tục được
nghiên cứu, vận dụng vào việc điều hành, quản lý xã hội, góp phần tích cực
trong việc xây dựng nếp sống văn minh và xây dựng đời sống văn hóa lành
mạnh. Q trình xây dựng đời sống văn hóa mới, đặc biệt phong trào xây dựng
gia đình văn hóa, bản (bn, ấp, làng) văn hóa, đạt được những kết quả tích cực,
góp phần phát huy truyền thống cần cù, nâng cao đời sống tinh thần, hình thành
lối sống mới của đồng bào các dân tộc.
Việc đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa được chú trọng. Các địa
phương quan tâm đến xây dựng thiết chế văn hóa, từ trung tâm văn hóa cấp tỉnh
quy mơ lớn, nhà văn hóa cấp huyện đến nhà văn hóa xã, nhà văn hóa cộng đồng
hoặc cơ sở sinh hoạt cộng đồng ở bản (buôn, bon, ấp, làng)... tạo môi trường
thuận lợi cho văn hóa dân tộc phát triển, góp phần nâng cao một bước đời sống
văn hóa tinh thần của đồng bào các DTTS.
Tuy nhiên, hiện nay đời sống vật chất, tinh thần của một bộ phận đồng bào
các DTTS ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo…còn thấp; sự chênh lệch
mức sống, trình độ dân trí và điều kiện hưởng thụ văn hóa, giáo dục, chăm sóc
sức khỏe giữa thành thị với nông thôn, giữa đồng bào các dân tộc tại chỗ với các
nhóm dân cư khác khơng những không thu hẹp mà ngày càng cách xa hơn.
Nguyên nhân của tình trạng này là do: mơi trường cho văn hóa phát triển chưa
17
thật sự hấp dẫn; việc xây dựng các quy chế văn hóa ở cơ sở cịn mang tính
khn mẫu; hệ thống nhà sinh hoạt cộng đồng còn đơn điệu; hoạt động văn hóa,
văn nghệ ở cơ sở chủ yếu để trình diễn, chứ khơng phải để nâng cao trình độ và
mức hưởng thụ các giá trị truyền thống của nhân dân các dân tộc; sự phổ cập
các phương tiện truyền thông thiếu định hướng.
3.3. Xu hướng suy giảm bản sắc văn hóa các DTTS, đặc biệt là văn hóa
phi vật thể
Trong quá trình đổi mới, xuất hiện nguy cơ nhiều giá trị văn hóa truyền
thống của các DTTS bị mai một, lãng quên. Trong số 54 dân tộc Việt Nam, có
những dân tộc chỉ có số dân dưới mười nghìn người như Pà Thẻn, Cờ Lao, Lô
Lô, Mảng, Lự, Cống, Bố Y, La Ha, La Hủ... Thậm chí một số dân tộc chỉ có số
dân dưới một nghìn người như Si La (Lai Châu), Pu Péo (Hà Giang), Ơ Đu
(Nghệ An), Rơ Măm, Brâu (Kon Tum)... Những dân tộc này khó có khả năng và
điều kiện tự bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa của mình.
Thách thức đầu tiên phải kể đến là khả năng đánh mất ngơn ngữ truyền
thống, linh hồn của văn hóa dân tộc, cũng là phương tiện để chuyển tải, trao
truyền nghệ thuật, phong tục tập quán của các tộc người.
Quá trình phát triển kinh tế-xã hội sẽ phá vỡ cấu trúc hạ tầng kinh tế cũ,
kéo theo sự thay đổi của văn hóa. Các lễ hội văn hóa dân gian được xem như là
bản sắc độc đáo và vốn quý có nguy cơ ngày càng mai một. Một loạt tập tục, lễ
hội bị phá bỏ; nhiều nhạc cụ dân tộc bị thất thốt cùng với việc sinh hoạt văn
hóa dân gian bị suy giảm. Bên cạnh đó, âm nhạc, vũ đạo, trang phục (vốn được
coi là bản sắc của đồng bào DTTS) cũng đứng trước nguy cơ thất truyền. Giống
như đàn bầu của người Việt, tính tẩu (của người Tày, Thái), đàn tơ rưng, cồng
chiêng (của các DTTS ở Tây Nguyên), khèn (của người Mơng), những nhạc cụ
điển hình của các dân tộc, hiện nay có ít người biết sử dụng. Tương tự, các loại
hình nghệ thuật (múa sạp, múa chiêng của đồng bào Mường, Thái; múa trống,
múa xúc tép của dân tộc Cao Lan; múa chèo thuyền, múa hoa sen của đồng bào
Khmer Nam Bộ...), những di sản văn hóa tinh thần đặc biệt của các dân tộc,
18
đang dần ít xuất hiện.
Trước sự phát triển nóng của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, kỹ thuật làm
thủ cơng các sản phẩm dân gian truyền thống cũng có nguy cơ tiêu vong. Các
mặt hàng sản xuất bằng thủ công (vốn là niềm tự hào, là minh chứng cho óc
sáng tạo, sự khéo léo của người Việt Nam, như: dệt thổ cẩm; thêu hoa văn; chế
tác nhạc cụ dân tộc bằng chất liệu đá, đồng, tre, nứa.) hiện nay do thiếu đầu ra,
lại vấp phải sự cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp bán sẵn hàng loạt, nên
dần bị mai một, lãng quên.
Quá trình phát triển thời gian qua đã làm cho văn hóa vật chất các tộc
người có nhiều thay đổi. Ở Tây Nguyên, người Ê Đê, người Mnơng, Gia Rai...
khơng cịn sử dụng trang phục truyền thống, kiến trúc nhà cửa cũng mô phỏng
theo kiến trúc của người miền xi. Đối với văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên,
giá trị văn hóa bậc nhất Tây Nguyên, việc bảo tồn và gìn giữ cịn gặp khá nhiều
khó khăn. Việc chuyển đổi tập quán canh tác làm nương rẫy sang trồng cây
công nghiệp (cà phê, cao su, ca cao.) đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
nhưng dẫn đến sự suy giảm những sinh hoạt cồng chiêng gắn với hoạt động sản
xuất truyền thống. Không gian buôn làng, khu nhà mồ, bến nước... (khơng gian
văn hóa cồng chiêng) đã bị thu hẹp hoặc thay thế bằng nhà xây kiên cố, giếng
khoan. Đời sống và sinh hoạt hiện đại làm thay đổi nhận thức về tính thiêng và
tính cộng đồng của văn hóa cồng chiêng, nhiều hộ gia đình đã bán đi những bộ
chiêng, ché quý.
Ở vùng Tây Bắc, điều kiện cuộc sống cịn khó khăn; tỷ lệ hộ thuộc diện đói
nghèo cịn cao; khả năng tự bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống của đồng
bào rất hạn chế; có dân tộc ngay cả tiếng nói, chữ viết, trang phục. cũng bị mai
một, thậm chí bị mất hẳn; có dân tộc đã khơng cịn tồn tại mơ hình cư trú, làng
bản truyền thống. Trong quá trình tiếp xúc, giao lưu với các dân tộc khác, những
đặc trưng văn hóa của họ có sự giao thoa, mai một. Các dân tộc ít người (như:
Kháng, Mãn, Khơ Mú...) đang có nguy cơ bị “Thái hóa”. Các dân tộc ở vùng
biên giới với Trung Quốc lại có nguy cơ bị “Hán hóa”, “Choang hóa”. Cịn các
19
dân tộc vùng ven đô thị, ven đường giao thông lại có nguy cơ “Kinh hóa”.
Người Hà Nhì ở Ý Tý (Lào Cai), Mường Tè (Lai Châu) bỏ trang phục truyền
thống của dân tộc mình và mặc trang phục của người Hà Nhì (Trung Quốc) sản
xuất bằng vải cơng nghiệp. Tương tự như vậy, người Mông, Dao ở biên giới
vùng Tây Bắc cũng bỏ trang phục sản xuất thủ công để mua trang phục bằng
nguyên liệu sản xuất theo phương pháp công nghiệp [1].
Sự mai một về bản sắc văn hóa tộc người cịn thể hiện ở chỗ số nghệ nhân
giỏi về âm nhạc truyền thống đã mất đi, lớp trẻ rất ít biết sử dụng nhạc cụ của
cha ơng để lại, nhiều thanh niên không thuộc một bài, một làn điệu dân ca.
Khi đạo Tin Lành thâm nhập vào vùng DTTS, nhiều giá trị văn hóa truyền
thống bị chối bỏ. Các cuộc bạo loạn chính trị năm 2001, 2004 ở Tây Nguyên và
năm 2011 ở Mường Nhé, Điện Biên (vùng Tây Bắc), có nhiều nguyên nhân
(khách quan và chủ quan, bên trong và bên ngồi, về kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội), nhưng ở góc độ văn hóa, đó là sự “xung đột” giữa văn hóa truyền thống
và văn hóa ngoại lai.
20
KẾT LUẬN
Xu thế tồn cầu hóa là điều kiện thuận lợi cho các nước phát triển cũng
như các nước kém phát triển, đang phát triển phải nhập khẩu, tiếp cận, sử dụng
những thành tựu của khoa học công nghệ, thành quả trên các lĩnh vực khác… để
hiện đại hóa. Trong q trình này, cũng có những ảnh hưởng dẫn đến những
nguy cơ bị áp đặt bởi các cường quốc với những điều kiện có thể gây tổn hại đến
sự phát triển của các quốc gia nhỏ, yếu và Việt Nam cũng khơng ngoại lệ.
Giao lưu văn hóa và sự hội nhập giữa các cộng đồng vốn là quy luật
chung của sự phát triển văn hóa nhân loại. Tuy nhiên, hơn bất cứ thời kỳ nào
trong lịch sử, ngày nay thế giới đang bước vào kỷ nguyên mới với sự giao lưu và
hội nhập vơ cùng sống động. Nó là một động lực thúc đẩy sự phát triển văn hóa
và rộng hơn nữa là sự phát triển xã hội. Mọi sự đóng kín, đoạn tuyệt hay cản trở
giao lưu, sự biệt lập giữa các cộng đồng đều làm mất đi sinh lực, sức sống và
thậm chí dẫn tới sự thối hóa về mọi mặt của cộng đồng. Thực tế các tộc người
như Chứt, Thổ, các nhóm thiểu số quen gọi là “Xá lá vàng” sinh sống ở vùng núi
giáp giới giữa nước ta và Lào,... đã chứng minh điều đó.
Tuy nhiên, để giao lưu và hội nhập thực sự trở thành động lực thúc đẩy
sự phát triển văn hóa và xã hội của một cộng đồng, thì bản thân văn hóa của mỗi
cộng đồng ấy phải bảo tồn và phát huy bản sắc, sắc thái văn hóa của mình. Bởi
vì, một cộng đồng với bản sắc riêng như vậy, một mặt, sẽ là cơ sở, “vốn liếng”
để giao lưu, khiến cộng đồng người đó khơng những khơng bị “hịa tan”, đồng
hóa, mà cịn làm phong phú thêm nền văn hóa của chính mình; mặt khác, trong
sự giao lưu ấy, mỗi nền văn hóa sẽ đóng góp những tinh hoa, sắc thái riêng của
mình vào kho tàng chung của văn hóa nhân loại. Chúng ta đã từng chứng kiến
trong quá trình hình thành và phát triển văn hóa của mình, người Việt đã chủ
động tiếp thu những ảnh hưởng văn hóa của các tộc người láng giềng như: Môn
- Khmer, Tày - Thái cổ, Nam Đảo, sau này cả văn hóa Hán và văn hóa phương
Tây nữa. Cho nên có thể nói, văn hóa tộc Việt là một thí dụ điển hình chứng
21
minh vai trò của giao lưu, hội nhập với sự hình thành và phát triển của một nền
văn hóa là như thế nào.
Nói sự hội nhập ở đây là sự hội nhập giữa các tộc người trong một quốc
gia, hội nhập quốc gia với quốc tế. Đó cũng là biểu hiện của mối quan hệ giữa
bộ phận và toàn thể trong một hệ thống. Một cộng đồng nào tách mình ra khỏi
hệ thống tức là sẽ tự làm mất đi những khả năng, động lực của xu hướng phát
triển chung. Tất cả các dân tộc trong quốc gia Việt Nam, dân tộc thiểu số hay đa
số, không tự phát triển riêng rẽ, mà hòa vào một xu hướng phát triển chung của
cả quốc gia. Đó là bài học rút ra từ sự nghiệp giải phóng dân tộc trước kia, cũng
như sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay. Đây là vấn đề có ý nghĩa
sống cịn, đặc biệt là với nước ta, một quốc gia nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu
vừa thoát ra từ cuộc chiến tranh kéo dài, nay còn đang “ngỡ ngàng” và chậm
bước so với sự phát triển nhanh chóng của các quốc gia trong khu vực và trên
thế giới.
Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số ở nước ta trong
điều kiện hiện nay là tạo điều kiện, khai thác những nhân tố nội lực của sự phát
triển. Sự phát triển kinh tế-xã hội đất nước nói chung và vùng DTTS nói riêng
trong những năm đổi mới đã thúc đẩy văn hóa các DTTS phát triển, góp phần
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần các DTTS. Các xu hướng biến đổi văn
hóa DTTS, một mặt, làm cho các dân tộc xích lại gần nhau, củng cố tính thống
nhất trong quan hệ dân tộc ở Việt Nam, mặt khác, gây ra những biến đổi theo
hướng tiêu cực, làm tăng thêm mâu thuẫn dân tộc, tác động xấu đến quá trình
phát triển bền vững kinh tế-xã hội đất nước, thậm chí dẫn đến xung đột dân tộc.
Vì vậy, cần có những giải pháp đồng bộ để khơng chỉ xây dựng văn hóa và con
người vùng DTTS, mà cịn bảo đảm sự phát triển đất nước một cách bền vững.
22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Bình, Một số vấn đề về tộc người và dân tộc ở Việt Nam, Tạp chí
Nghiên cứu văn hóa, Số 2 (Trường Đại học văn hóa Hà Nội).
2. Từ Chi (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người, Nxb Văn
hóa - Thông tin, H.1996.
3. GS,TS. Phan Hữu Dật (2001), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách
liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay, Nxb CTQG, H.2001.
4. Lê Sĩ Giáo (chủ biên), Hoàng Lương, Lê Ngọc Thắng (2010), Dân tộc
học đại cương, Tập II, Nxb GDVN. 2010.
5. Ngô Văn Lệ, Nguyễn Văn Tiệp, Nguyễn Văn Diệu (1998): Văn hóa các
dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb GD.1998.
6. Hồng Lương (2005), Văn hóa các dân tộc Tây Bắc, Việt Nam, Trường
Đại học VHHN.2005.
7. Ngô Đức Thịnh (2006), Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt
Nam, Nxb KHXH.2006.
8. Lê Ngọc Thắng (2009), Văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Nam Bộ, Việt
Nam, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia, H, 2009.
9. Ngơ Đức Thịnh (2006), Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt
Nam, Nxb KHXH. 2006.
23