Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Tiếp cận một số vấn đề về nhận thức khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.27 KB, 13 trang )

Tiếp cận một số vấn đề về nhận thức khoa học

Lý luận nhận thức được coi là h ọc thuyết về khả năng nhận thức của con
người, về sự xuất hiện và phát triển của nhận thức cũng như v ề con đường,
phương pháp nhận thức... Từ trước đến nay, vấn đề nhận thức luôn là một
trong nh ững bộ phận cơ bản của khoa h ọc triết học. Hiện tại, vấn đề nhận
thức khoa học vẫn đang tiếp tục được nghiên cứu, bổ sung và phát tri ển
nhằm giúp cho con người ngày càng hoàn thi ện hơn nh ững tri thức của mình
về bức tranh th ế giới hiện thực, và do vậy, tiến gần hơn đến chân lý.

Lịch sử phát triển của triết học cho thấy, vấn đề nhận thức khoa học được đặt ra
từ rất sớm, đầu tiên là trong tri ết học Hy - La cổ đại, khoảng thế kỷ VI - IV
TCN. Tuy nhiên, trong th ời kỳ cổ đại, do những hạn chế về các phương tiện,
phương pháp nh ận thức cũng như khả năng của mình, nhận thức của con người
đối với thế giới khách quan cịn gi ản đơn, mang tính phỏng đoán ho ặc chỉ dựa
vào suy lý. Lu ận bàn về vấn đề nhận thức khoa học mới chỉ là bước đầu, làm cơ
sở cho sự phát triển, hoàn thiện lý luận về nhận thức sau này.
Đến thời trung cổ, người ta đã cố gắng tìm cách giải thích thế giới thơng qua
tính tích cực của nhận thức con người. Tuy nhiên, việc giáo dục trí tuệ khi đó
cịn là sự độc quyền của các cha cố và có xu hướng thiên về thần học. Điều này
dẫn đến khó tránh kh ỏi cách đặt vấn đề: phải chăng có th ể nhận thức được
"Thượng đế" và linh hồn của con người là linh hồn của "Chúa"? ... Do v ậy,
trong suốt thời kỳ trung cổ, tri thức lý luận và các phương pháp nh ận thức khoa
học gần như không xuất phát từ thực tiễn, không gắn với thực tiễn sản xuất.
Phủ nhận tính phi khoa học của triết học kinh vi ện, nhận thức luận cổ điển đã
giải thích thế giới bằng phương pháp nghiên c ứu thực nghiệm, phương pháp duy
lý. Cantơ đi xa hơn khi ông dùng c ả những yếu tố biện chứng lẫn siêu hình c ủa


phương pháp "tiên nghi ệm" để lý giải thế giới. Mặc dù có nhi ều đóng góp về vấn
đề nhận thức luận, song Phoiơbắc coi sự khác nhau gi ữa nhận thức cảm tính và


nhận thức lý tính chỉ đơn thuần về mặt số lượng, tư duy chỉ là sự tập hợp giản
đơn những tri thức cảm tính. Với phương pháp bi ện chứng tư biện duy tâm,
Hêgen đã cung cấp một công cụ vĩ đại phục vụ cho quá trình nhận thức. Song,
trong phương pháp c ủa ơng, phép biện chứng chỉ là phương ti ện mang tính tư
biện, duy tâm đ ể giúp cho vi ệc "tha hoá" của "ý niệm tuyệt đối".
Có thể nói rằng, do hạn chế về mặt lịch sử và khoa học, nhận thức luận trước
Mác cịn nhiều thiếu sót; về cơ bản, nó mới dừng lại và được coi như m ột công
cụ để giải thích thế giới, mà chưa th ấy được nhiệm vụ lớn hơn là cải tạo thế giới
hiện thực.
Khắc phục những thiếu sót của triết học trước đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa
ra những quan đi ểm, nguyên t ắc có tính n ền tảng về lý luận nhận thức, thực hiện
bước ngoặt cách mạng trong lý lu ận nói chung và lý lu ận nhận thức nói riêng.
C.Mác cho rằng, khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy v ật, kể cả chủ
nghĩa duy vật của Phoiơbắc, là đã khơng thấy được vai trị của thực tiễn cũng
như của chủ thể nhận thức; rằng, đối với nó, các "... sự vật, hiện thực, cái cảm
giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực
quan, chứ khơng được nhận thức là hoạt động cảm giác của con ngư ời, là thực
tiễn, không được nhận thức về mặt chủ quan"(1). Với ông, thực tiễn là tiêu
chuẩn của chân lý và "v ấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới
chân lý khách quan khơng, hồn tồn khơng ph ải là một vấn đề lý luận mà là
một vấn đề thực tiễn"(2); rằng, đời sống xã hội, về bản chất, là có tính th ực tiễn.
Như vậy, nhận thức khoa học đã được C.Mác coi như m ột hình thức hoạt động
đặc thù, một quá trình ph ản ánh tích cực về hiện thực thơng qua nh ững chủ thể
xã hội và là sự thu nhận tri thức vào ý thức con người.
V.I.Lênin đã k ế tục tư tưởng vĩ đại của C.Mác và Ph.Ăngghen, phát tri ển sâu sắc
lý luận nhận thức nói chung và nh ận thức khoa học nói riêng như m ột bộ phận
cấu thành hệ thống triết học mácxít hồn chỉnh. Ơng cho rằng, nhận thức là sự
phản ánh giới tự nhiên bởi con người, bao gồm cả một chuỗi những sự trừu



tượng, sự cấu thành, sự hình thành các khái ni ệm, quy luật...; rằng, "nhận thức
là quá trình, xâm nhập (của trí tuệ) vào giới tự nhiên..." và nó "... là s ự tiến gần
mãi mãi và vô t ận của tư duy đến khách thể..."(3). Đặc biệt, trong Chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa kinh nghi ệm phê phán, V.I.Lênin đã chỉ ra những vấn đề cơ
bản nhất của nhận thức khoa học, như đối tượng nhận thức, khả năng nhận thức
thế giới khách quan của con người và biện chứng phức tạp của quá trình nh ận
thức(4). Điều đó đã khẳng định vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường duy
vật biện chứng. Hơn thế, trong khi khái quát v ề nhận thức khoa học và khả năng
nhận thức của con người đối với thế giới khách quan, V.I.Lênin đã phê phán sâu
sắc các quan đi ểm duy vật siêu hình, duy tâm, thuy ết khơng thể biết... liên quan
đến vấn đề này.
Lý luận nhận thức trong tri ết học Mác - Lênin là một trong những thành quả vĩ
đại của khoa học triết học và nó ti ếp tục được các nhà tri ết học mácxít sau này
vận dụng, phát tri ển. Nhà tri ết học Nga V.I.Cúpx ốp chỉ ra rằng, nhận thức khoa
học có thể chia thành k ết quả nhận thức và q trình thu nh ận tri thức đó(5).
Nếu tiếp cận nhận thức khoa học như một q trình thì nó được bắt đầu từ việc
thu thập những sự kiện. Song, sự tích luỹ các sự kiện khoa học khơng diễn ra
một cách tự phát, mà là ho ạt động có mục đích, có k ế hoạch và có ý thức. Bởi
vì, trên thực tế, trước khi tri ển khai việc nghiên cứu một vấn đề nào đó, nhà
khoa học đã chủ động xác định cần phải thu thập những sự kiện, tài liệu nào, ở
đâu và sử dụng các phương ti ện, phương pháp gì đ ể đạt được mục tiêu đề ra v.v..
Xét về tư duy khoa học, nhận thức khoa học là hình thái có tính tr ừu tượng và
khái qt cao nhất, nhằm mục đích tìm ki ếm, phát hi ện các nguyên lý, sơ đ ồ
khoa học mới có tính tổng qt hơn, sâu s ắc hơn. Nhìn một cách tổng qt, có
thể thấy rằng, nhận thức khoa học được hình thành m ột cách tự giác và mang
tính trừu tượng, khái quát ngày m ột cao; đồng thời, nó thể hiện tính năng đ ộng,
sáng tạo của tư duy trừu tượng. Theo đó, những thuộc tính, kết cấu, những mối
quan hệ bản chất, những quy luật của thế giới khách quan được phản ánh dưới
dạng lơgíc trừu tượng. Mục đích của hoạt động nhận thức khoa học là hướng tới
nắm bắt được cái có tính quy lu ật, cái bản chất chứ không dừng lại ở cái bề

ngoài, cái ng ẫu nhiên, cái đơn nh ất của đối tượng được nhận thức.


Tựu trung lại, theo quan điểm mácxít, nhận thức khoa học được tiếp cận với tư
cách một loại hình nhận thức đạt đến trình độ cao, khác với nhận thức thơng
thường. Nó là q trình phản ánh tự giác, tích cực, sáng tạo hiện thực khách
quan của con người thông qua thực tiễn; nhằm đạt tới hệ thống tri thức đúng
đắn về tự nhiên, xã h ội và các lĩnh vực cụ thể khác, nâng cao khả năng tư duy
và hiệu quả hoạt động thực tiễn của con người.
Nhận thức khoa học có cấu trúc phức tạp và có thể tiếp cận từ nhiều góc độ;
chẳng hạn, theo nguồn gốc, trình độ, các vịng khâu ho ặc theo các giai đo ạn của
quá trình nh ận thức... Ti ếp cận cấu trúc nhận thức khoa học từ các thành tố của
nó, như tri thức khoa học, phương pháp tư duy khoa h ọc, khả năng vận dụng
khoa học hệ thống tri thức vào thực tiễn... là một trong những cách ti ếp cận cơ
bản, hệ thống và toàn di ện nhất.
Tri thức khoa học.
Con người cải biến tự nhiên thông qua ho ạt động thực tiễn của mình. Ho ạt động
đó ngày càng tr ở nên tự giác vì nó được dẫn dắt, chỉ đạo bởi "bộ não thông
minh", bởi tri thức khoa học. Trong lịch sử triết học, tri thức ln được đề cao.
Hêraclít đã coi tri th ức là mặt trời thứ hai; Ph.Bêcơn đưa ra quan ni ệm cho rằng,
tri thức là sức mạnh, sức mạnh là tri thức và do vậy, con người cần phải thống
trị, làm chủ thế giới tự nhiên và khả năng đó thực hiện được hay không phụ
thuộc vào sự hiểu biết của con người. Và, theo Ph.Ăngghen, trư ớc khi nghiên
cứu những sự biến đổi của một đối tượng nào đó, cần phải sơ bộ tiếp nhận dù chỉ
là một số tri thức về đối tượng đó.
Với tư cách thành t ố của nhận thức khoa học, tri thức bao gồm toàn bộ những
hiểu biết sâu sắc, phong phú và đa d ạng của con người về thế giới khách quan.
Nó bao hàm tri thức - nguồn, tri thức - tiền đề và tri thức - kết quả của quá
trình nhận thức. Khác với nhận thức thông thường, tri thức trong nhận thức khoa
học phải đúng đắn, chân th ực và phản ánh sự nhận thức ngày càng sâu sắc hơn

về thế giới khách quan. Tri th ức khoa học có thể được tiếp cận ở nhiều lĩnh vực,
phạm vi, v.v.. Song, xét v ề trình độ phản ánh qua các giai đo ạn của quá trình


nhận thức, tri thức khoa học như một chỉnh thể bao gồm các cấp độ trực quan
khoa học, kinh nghiệm khoa học, lý luận khoa học.
Tri thức trực quan khoa học là kết quả của quá trình nh ận thức và phản ánh trực
tiếp thế giới khách quan c ủa chủ thể. Nội hàm của nó phản ánh các m ặt, các bộ
phận bên ngoài s ự vật, hiện tượng, thơng qua các hình th ức cảm giác, tri giác,
biểu tượng. Cảm giác là cơ sở nền tảng cho các giai đo ạn nhận thức tiếp theo,
như V.I.Lênin kh ẳng định: "Tiền đề đầu tiên của lý luận về nhận thức chắc chắn
là ở chỗ cho rằng cảm giác là nguồn gốc duy nhất của hiểu biết của chúng
ta"(6). Tri thức trực quan khoa h ọc không đồng nhất với trực quan "thuần" cảm
tính. Cảm giác, tri giác, bi ểu tượng với tư cách thành t ố của trực quan khoa học
đã vượt qua cái giới hạn "cảm tính thuần tuý" để thể hiện một trình đ ộ khoa học
của nhận thức. Bởi vậy, như nhận định của Gcki, "khơng có cơ s ở nào để phủ
định sự phản ánh cảm tính, coi thường vai trị của nó như là nấc thang đặc thù
của nhận thức, mà nó có ý nghĩa cơ b ản, trong s ự hình thành tư duy khoa
học"(7).
Kinh nghiệm khoa học là những tri thức khoa học được đúc kết trực tiếp trong
quá trình lao đ ộng sản xuất, hoạt động chính trị - xã hội hoặc thực nghiệm khoa
học dưới sự chỉ đạo của nhận thức lý tính. "Trong kinh nghi ệm, cái quan trọng
chính là trí tu ệ mà người ta dùng để tiếp xúc với hiện thực. Một trí tuệ vĩ đại
thực hiện được những kinh nghi ệm vĩ đại, và thấy được cái gì là quan trọng
trong sự vận động mn vẻ của các hiện tượng"(8). Kinh nghi ệm khoa học là sự
tiếp tục với chất lượng mới của trực quan khoa học, nó dựa trên cơ sở cảm tính
nhưng đồng thời là điều kiện của nhận thức lý luận, là cầu nối giữa thực tiễn với
lý luận khoa học.
Lý luận khoa học là trình độ cao của nhận thức khoa học, mang tính trừu tượng,
khái quát cao, ph ản ánh đối tượng nghiên cứu bằng cách "tước bỏ" những mặt,

những thuộc tính khơng bản chất. Nó là kết quả của q trình nh ận thức, trong
đó chủ thể nhận thức đạt đến bản chất, quy luật bên trong của sự vật, hiện tượng
và dựa vào đó, xây d ựng các giả thuyết, lý thuy ết khoa học và dự báo khoa học.


Những hình thức cơ bản nhất của lý luận khoa học bao gồm: khái ni ệm, phán
đoán, suy lý.
Như vậy, với tư cách là b ộ phận cấu thành của nhận thức khoa học, tri thức
khoa học bao gồm nhiều tầng bậc, trình độ khác nhau, song có m ối quan hệ
thống nhất biện chứng với nhau. Trong đó, tri t hức trực quan khoa học và kinh
nghiệm khoa học phải có sự dẫn dắt của lý luận khoa học. Tri thức trực quan
khoa học là cơ sở trực tiếp hình thành kinh nghi ệm khoa học, và đến lượt nó,
kinh nghiệm khoa học lại là cơ sở trực tiếp hình thành lý luận khoa học. Sự gắn
bó hữu cơ của tri thức khoa học thuộc mọi cấp độ luôn dựa trên cơ sở thực tiễn.
Trong hệ thống tri th ức, xét từ góc độ các khoa học, tri thức triết học đương
nhiên là có tính ch ất nền tảng về mặt lý luận. Nó "có kh ả năng vũ trang cho các
nhà khoa học thế giới quan và phương pháp lu ận tối ưu để người ta có th ể xử lý
mối quan hệ giữa cái đã bi ết và cái chưa biết nhằm tiếp tục chiếm lĩnh nh ững bí
ẩn vơ tận của thế giới"(9). Đặc biệt, đối với các khoa học, phép bi ện chứng duy
vật trở thành công cụ, phương pháp phổ biến của nhận thức khoa học.
Phương pháp tư duy khoa h ọc là thành ph ần cơ bản trong cấu trúc của nhận thức
khoa học, giữ vai trò trực tiếp quy định hiệu quả quá trình ti ếp nhận, hình thành,
phát triển và phát huy tri th ức khoa học. Những người theo chủ nghĩa duy tâm
coi phương pháp tư duy như m ột phạm trù thuần tuý chủ quan, là t ổng hợp các
quy tắc do lý trí con người tự ý đặt ra để "tiện" cho hoạt động nhận thức. Trái
lại, theo quan đi ểm duy vật biện chứng, phương pháp tư duy là nh ững cách thức
chung nhất của tư duy trong ti ếp cận hiện thực, nghiên cứu các đối tượng trong
sự vận động, phát tri ển, biến hố khơng ngừng của nó. Phương pháp tư duy khoa
học phải được hiểu như m ột hệ thống tổng hợp các cách thức, biện pháp tư duy
nhất định và được tổ chức, sắp xếp sao cho có thể phối hợp được với các tri th ức

"nền", tri thức tiền đề. Nó đóng vai trị như các cơng c ụ, phương ti ện cho hoạt
động nhận thức, sáng tạo những tri thức khoa học mới từ hệ thống tri th ức khoa
học đã có.
Đề cập đến vấn đề phương pháp tư duy trong nh ận thức khoa học không th ể
không quan tâm tới những đặc tính sáng t ạo của nó, như tính đ ộc lập, tính phê


phán, tính mềm dẻo, linh ho ạt, kiên định..., cũng như làm rõ các hình th ức của
tư duy như khái ni ệm, phạm trù, phán đoán... Phương pháp tư duy khoa h ọc còn
chứa đựng các thao tác tư duy khoa h ọc bảo đảm cho nhận thức đi từ hiện tượng
đến bản chất, từ bản chất ít sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn, từ nhận thức cảm
tính đạt tới nhận thức lý tính, từ nhận thức kinh nghiệm tới lý luận khoa học.
Vai trò của thao tác tư duy khoa h ọc được thể hiện ở tất cả các giai đoạn khác
nhau, đặc biệt là giai đo ạn tư duy trừu tượng trong quá trình nhận thức khoa
học.
Hệ thống phương pháp tư duy khoa h ọc bao gồm các phương pháp lý thuy ết và
phương pháp th ực nghiệm. Trong các phương pháp lý thuy ết ngày càng được sử
dụng rộng rãi hiện nay, cần phải chú ý phương pháp trừu tượng hoá và k hái qt
hố, bởi đó là một trong nh ững cơng cụ chủ yếu để nhận thức chân lý, nh ằm
nâng cao hiệu quả hoạt động của con người. Các phương pháp gi ả định - suy
diễn, phương pháp ti ền đề - kết luận, phương pháp thu ật toán - toán học khơng
ngừng được nghiên cứu và hồn chỉnh thêm. Các phương pháp h ệ thống - cấu
trúc, hình th ức hố và mơ hình hố... ngày càng có vai trị quan tr ọng trước sự
phát triển mạnh mẽ của khoa học hiện đại. Mặc dù vai trò của phương pháp lý
thuyết ngày càng tăng lên, song khơng vì th ế mà ý nghĩa của các phương pháp
thực nghiệm (quan sát, thí nghi ệm, đo đạc) bị suy giảm. Trong nhi ều trường
hợp, nhất là đối với khoa học tự nhiên, các phương pháp th ực nghiệm cịn đóng
vai trị ki ểm tra, thẩm định tính chân th ực của các kết luận hoặc giả thuyết khoa
học được rút ra nhờ phương pháp lý thuy ết. Thậm chí, một số thực nghiệm cụ
thể nào đó cịn có th ể quyết định một hướng nghiên cứu, hoặc một lý thuyết

khoa học đang hình thành. Trình đ ộ thực nghiệm sẽ ngày càng tinh vi, ph ức tạp
với các dụng cụ, phương tiện ngày càng hiện đại. Cùng với sự phát triển của
nhận thức khoa học, đặc biệt trong khoa h ọc - cơng nghệ hiện đại, trình độ thực
nghiệm cũng như các phương ti ện, cơng cụ của hoạt động đó sẽ phát tri ển hiện
đại hơn và hữu ích hơn đ ối với nhận thức của con người.
Khả năng vận dụng hệ thống tri thức vào thực tiễn là một thành tố đặc biệt quan
trọng, một bộ phận không th ể thiếu trong cấu trúc của nhận thức khoa học. Nhờ


nó, các thành phần khác mới bộc lộ hết giá trị hiện thực của mình. Con đư ờng
biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan như
V.I.Lênin đã chỉ rõ, đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư
duy trừu tượng đến thực tiễn. Con người khám phá, tìm hi ểu thế giới hiện thực
khơng phải chỉ vì muốn biết nó là cái gì, như th ế nào..., mà hơn th ế, trước hết và
chủ yếu là để cải tạo, biến đổi cái "vật tự nó" thành cái "v ật cho ta" dựa trên
những hiểu biết, tri thức đã có về nó. Sự phê phán của C.Mác rằng, "các nhà
triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song v ấn đề là cải
tạo thế giới"(10) chính là với ý nghĩa như v ậy.
Nhận thức khoa học là một q trình mà mục đích của nó là đạt tới chân lý. Một
kết luận hay giả thuyết khoa học chỉ được coi là đúng đ ắn, là chân lý khi nó
được xác nhận bởi thực tiễn. Trong quan hệ với nhận thức, thực tiễn không chỉ
là cơ sở của nhận thức mà còn là tiêu chuẩn của chân lý. Thông qua th ực tiễn,
nhận thức phát huy được vai trò chỉ đạo hoạt động của con người trong cải tạo
hiện thực khách quan; đồng thời, được kiểm nghiệm, bổ sung, phát triển ngày
càng hoàn thi ện. Tuy nhiên, không ph ải mọi sự vận dụng tri thức khoa học vào
thực tiễn đều được bao hàm trong phạm trù nhận thức khoa học. Sự áp đặt, gán
ghép một lý thuyết nào đó vào cu ộc sống một cách thô thi ển, cứng nhắc không
những không đem l ại hiệu quả, mà cịn bộc lộ tính phản khoa học trong quá trình
nhận thức.
Các thành tố trên đây của nhận thức khoa học có mối liên hệ thống nhất, biện

chứng, tác động qua lại và chuyển hoá lẫn nhau, thúc đ ẩy nhau phát tri ển. Trong
đó, nếu tri thức nền là cơ sở ban đầu, nguồn "dự trữ năng lượng" cần thiết cho
các thành tố sau, thì phương pháp tư duy khoa h ọc là "hệ công cụ" cần thiết để
"giải phẫu" những tri thức đang có và ti ếp tục tìm kiếm chân lý; đồng thời, khả
năng vận dụng đúng đắn hệ thống tri thức vào thực tiễn là thành tố "hoạt
hoá" các tri thức khoa học đã được tiếp nhận, làm cho nh ận thức khoa học thực
sự xuất phát từ thực tiễn và quay trở lại phục vụ hoạt động thực tiễn. Việc phát
huy vai trò của nhận thức khoa học trong hoạt động thực tiễn thực chất là q
trình phát triển, hồn thi ện các thành tố của nhận thức khoa học, song ph ải bảo


đảm sự thống nhất chặt chẽ giữa chúng, bởi sự vận động, biến đổi của mỗi thành
tố không tách rời cấu trúc tổng thể của nhận thức khoa học.
Nhận thức khoa học khơng chỉ có cấu trúc phức tạp mà cịn có những đặc trưng
riêng so với nhận thức thơng thư ờng. Điều này được biểu hiện ở chỗ:
Thứ nhất, nhận thức khoa học mang tính khách quan, thơng qua m ột q trình
được định hướng tự giác, tích cực, sáng t ạo nhằm tiếp cận chân lý.
Xuất phát từ bản thân khách th ể và đối tượng nghiên cứu chứ không phải từ ý
muốn chủ quan, nhận thức khoa học phản ánh trung thành các s ự vật, hiện
tượng, q trình của hiện thực khách quan. Q trình đó d ựa vào sự thật và lý trí
con người chứ không phải là những ảo tưởng chủ quan và thông tin sai l ệch. Mặt
khác, nhận thức khoa học không diễn ra một cách tức thì hoặc có thể đạt ngay
kết quả trọn vẹn, mà nó là m ột quá trình biện chứng phức tạp dựa trên cơ sở
thực tiễn. Đồng thời, nó xa l ạ với những biểu hiện giản đơn, theo công th ức
cứng nhắc, bất biến, hoặc có tính thụ động và lệ thuộc như trong nhận thức
thơng thường.
Nhận thức khoa học địi hỏi con người phải ln có m ục tiêu xác định, có trí tuệ,
khả năng quan sát, ghi nh ớ và tưởng tượng sáng t ạo, có năng l ực trừu tượng hố,
khái qt hố và v ận dụng thực tiễn... Có như v ậy, chủ thể nhận thức mới có thể
nắm bắt được cái bản chất, quy luật bị che lấp trong sự hỗn độn của các hiện

tượng ngẫu nhiên, m ới chủ động trong các hoạt động thực tiễn dựa trên những
tri thức mới, đúng đắn về đối tượng.
Thứ hai, nhận thức khoa học mang tính h ệ thống, có luận cứ và sự sáng tạo tri
thức khoa học mới.
Tính hệ thống của nhận thức khoa học, thực chất là tính hệ thống - chủ thể, suy
đến cùng là hình ảnh chủ quan của tính hệ thống - khách thể. Nó được thể hiện
trong tất cả các giai đoạn, các thành t ố thuộc cấu trúc của nhận thức khoa học
như mục đích, phương pháp, phương ti ện... S ản phẩm đặc thù của nhận thức
khoa học gồm hệ thống các khái ni ệm, phạm trù, nguyên lý, quy lu ật phản ánh


hiện thực khách quan trong m ột chỉnh thể toàn vẹn, ln có s ự chuyển hố và
khơng phải là bất biến.
Nhận thức khoa học cịn mang tính có lu ận cứ và được chứng minh, đi ều này
trước hết được thể hiện qua sự kiểm tra bằng thực nghiệm và thực tiễn. Ngồi
ra, nó cịn có thể được chứng minh bằng các tiêu chí lơgíc h ợp thành hệ chuẩn
riêng do nhận thức khoa học tạo ra nhằm chế định các phương thức chứng minh.
Nhận thức nói chung và nh ận thức khoa học nói riêng đ ều là q trình ph ản ánh
biện chứng, tích cực, tự giác và sáng t ạo thế giới khách quan vào đầu óc của con
người. Tuy nhiên, nó không thu ần tuý chỉ là sự "dựng lại", trình bày lại những
gì thế giới khách quan đã có, v ốn có. Hơn th ế, nhận thức khoa học luôn gắn với
sự sáng tạo, với việc khám phá t ừ đối tượng (các hiện tượng, quá trình, quy lu ật,
"các điểm nút trong một màng lưới") những tri thức khoa học mới - cái mà nhận
thức thông thường không th ể đạt được. Nhận thức khoa học hiện đại có thể và
cần phải được xem xét với tư cách kết quả của toàn bộ quá trình phát sinh, phát
triển của hoạt động tư duy, khơng ch ỉ chứa đựng những tri thức đã có trong lịch
sử mà chính là từ đó tiếp tục sáng tạo nên các tri thức khoa học mới. Với tinh
thần đó, V.I.Lênin cho rằng, khơng nên coi h ệ thống lý luận của C.Mác là cái
"đã xong xuôi h ẳn và bất khả xâm phạm"(11).
Thứ ba, nhận thức khoa học ln địi hỏi u cầu cao về tính trừu tượng hố,

khái qt hố và cụ thể hố.
Q trình đi từ nhận thức tiền khoa học đến nhận thức khoa học phải thông qua
các thao tác tư duy, đ ặc biệt là sự trừu tượng hoá, khái quát hoá. Khi tr ừu tượng
hố một vài thuộc tính hay các m ối liên hệ trong một loạt khách thể, nhất định
sẽ tạo ra điều kiện để khái quát hoá nh ằm xác định phức hợp các thuộc tính vào
một lớp chung, thể hiện ra như cái chung trong m ột loạt khách thể riêng. Tuy
nhiên, trừu tượng hố, khái qt hố khơng ph ải là mục đích cuối cùng mà chỉ là
những bước đưa chủ thể đến chỗ nhận thức cái cụ thể. Chúng thể hiện một trình
độ cao hơn của nhận thức khoa học và nhờ đó, chủ thể nhận thức mới có thể đạt
tới quan niệm tồn vẹn, chính xác v ề bản chất của khách thể nghiên cứu.


Thứ tư, nhận thức khoa học đặt ra yêu cầu cao trong sử dụng ngôn ngữ, phương
pháp và phương tiện.
Để nghiên cứu, phản ánh đúng đắn khách thể, nhận thức khoa học không ch ỉ sử
dụng ngôn ngữ tự nhiên (hệ thống ký hiệu âm thanh và sau đó là ch ữ viết), mà
cịn phải sử dụng và khơng ngừng phát tri ển ngôn ngữ chuyên biệt (là hệ thống
ký hiệu bổ trợ được tạo ra bằng cách riêng trên cơ s ở của ngôn ng ữ tự nhiên
được chuyên mơn hố). Ở trình độ lý luận, chủ thể nghiên cứu khách th ể một
cách gián ti ếp thông qua "th ực nghiệm tư tưởng", nên t ất yếu phải có hệ thống
ngơn ngữ khoa học. Hệ thống ngơn ngữ này được xây dựng chặt chẽ, rõ ràng,
được sử dụng tương đối nhất qn, có tính chun mơn hố cao giúp nh ận thức
khoa học phản ánh ngày càng chính xác, đ ầy đủ đối tượng nghiên cứu nhờ vốn
từ hiện đại, phong phú, đa d ạng cùng với cấu trúc ngữ ngôn khoa học và tinh t ế.
Cùng với yêu cầu cao về ngôn ngữ, phương pháp nhận thức đóng vai trị to l ớn
trong nhận thức khoa học, nếu thiếu nó thì tư duy và kh ả năng nhận thức của con
người không thể phát tri ển. Tuy nhiên, trong nh ận thức khoa học, khơng có s ự
tồn tại của một phương pháp "vạn năng" có th ể cho phép ti ếp cận mọi chân lý.
Các phương pháp nh ận thức khoa học không nh ững được sử dụng phổ biến, mà
cịn được "chun hố".

Các phương t iện kỹ thuật có tính chun mơn hố s ử dụng trong nhận thức khoa
học đóng vai trị r ất quan trọng, đặc biệt là khi nh ận thức ở trình độ kinh nghiệm
hoặc trong hoạt động thực nghiệm khoa học. Hệ thống máy móc, trang thi ết bị là
cầu nối giữa chủ thể và khách thể nhận thức, trực tiếp tác động đến khách thể,
giúp quá trình nhận thức khoa học có hiệu quả hơn trong vi ệc khám phá nh ững
thuộc tính mới của đối tượng nghiên cứu, kể cả trong điều kiện khó khăn, ph ức
tạp. Xã hội và khoa học càng phát tri ển, các phương tiện kỹ thuật hiện đại với tư
cách những công cụ nhận thức ngày càng tham gia tr ực tiếp và hỗ trợ đắc lực
cho quá trình nghiên c ứu và tiếp nhận tri thức khoa học... Tuy nhiên, xét đ ến
cùng, chúng chỉ là những phương tiện làm gia tăng năng l ực nhận thức của con
người mà không thể thay thế con người trong quá trình nh ận thức.


Thứ năm, nhận thức khoa học có mối liên hệ chặt chẽ với thực tiễn và thực
nghiệm.
Nhận thức nói chung và nh ận thức khoa học nói riêng ln có m ối liên hệ chặt
chẽ, khăng khít v ới thực tiễn. Trong quan hệ đó, thực tiễn đóng vai trị là cơ s ở
chủ yếu, trực tiếp nhất của nhận thức; là động lực thúc đẩy sự phát tri ển của
nhận thức, của trí tuệ con người; là tiêu chu ẩn để kiểm tra chân lý. N ếu xa rời
thực tiễn, khơng dựa trên cơ sở thực tiễn thì khơng thể có nhận thức đúng đắn,
khơng thể có lý luận khoa học, và do vậy, hoạt động của con người khó vượt qua
giới hạn của sự mù quáng.
Thực nghiệm khoa học là một trong những hình thức cơ bản của hoạt động thực
tiễn, một trong các tiêu chu ẩn kiểm tra chân lý. Với tư cách là "sự chất vấn đối
với tự nhiên", phương pháp th ực nghiệm khoa học có vai trị quan tr ọng đối với
nhận thức khoa học, nghiên cứu khách thể bằng cách tác đ ộng trực tiếp vào
chúng. Căn cứ vào những kết quả mà phương pháp thực nghiệm mang lại, người
ta có đủ cơ sở vững chắc để khẳng định (xác nh ận) hay bác bỏ (phủ nhận) một
kết luận hoặc giả thuyết khoa học. Vì thế, nhận xét cho rằng, kiểu nhận thức
khoa học dựa vào lý trí và phương pháp th ực nghiệm có khả năng to lớn đối với

việc nhận thức và cải tạo thế giới(12), theo chúng tơi, là hồn tồn xác đáng.
Có thể nói rằng, cuộc cách m ạng khoa học công ngh ệ hiện đại đã tạo ra những
điều kiện mới và khả năng mới cho sự phát tri ển của nhận thức khoa học; đồng
thời, nó cũng đ ặt ra cho con người nói chung, mỗi chủ thể nhận thức nói riêng
những yêu cầu cao hơn v ề tri thức, trí tuệ.
Sự tiếp cận một số vấn đề về nhận thức khoa học có ý nghĩa to lớn trong vi ệc
phân biệt nhận thức khoa học với nhận thức thông thường, cũng như với các
thành phần trong cấu trúc của nó; đồng thời, góp phần ngăn ngừa, khắc phục
một số thiếu sót, sai lầm có thể mắc phải trong quá trình nh ận thức, như chủ
nghĩa kinh nghi ệm, nhận thức giản đơn, tư duy giáo đi ều. Qua đó, nó góp phần
vào q trình đổi mới tư duy, quá trình nh ận thức và vận dụng sáng t ạo chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong s ự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội của nước ta hi ện nay.


(*) Tiến sĩ, Học viện Chính trị Quân sự.(1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Tồn tập, t.3.
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.9.
(2) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.9 - 10.
(3) V.I.Lênin. Toàn tập, t.29. Nxb Ti ến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.207.
(4) Xem: V.I.Lênin. Sđd., t.18, tr.117.
(5) Xem: V.I.Cúpxốp. Vai trò của triết học trong nh ận thức khoa học, 1976 (Đỗ
Bá dịch). Học viện Chính trị Quân sự, tài liệu số TL - 5653, tr.6.
(6) V.I.Lênin. Toàn tập, t.18. Nxb Ti ến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.147.
(7) Đ.P.Goócki. Phép bi ện chứng của sự nhận thức khoa học. Tư liệu dịch, ký
hiệu T1138 (người dịch Đỗ Thiên Kính, hi ệu đính Tơ Duy Hợp), Phịng Thơng
tin và Tư li ệu, Viện Triết học, tr.15.
(8) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.20. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1994, tr.687.
(9) Nguyễn Duy Quý. Nhận thức thế giới vi mô. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
1999, tr.14.

(10) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.12.
(11) V.I.Lênin. Toàn tập, t.4. Nxb Ti ến bộ, Mátxcơva, 1978, tr.232.
(12) Xem: Hồng Đình Phu. Khoa học và cơng ngh ệ với các giá trị văn hoá. Nxb
Khoa học - kỹ thuật, Hà Nội, 1998, tr.119.



×