Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

(TIỂU LUẬN) TIỂU LUẬN đề tài QUAN điểm của CHỦ NGHĨA mác LÊNIN về vấn đề dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (429.83 KB, 22 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TPHCM
KHOA ĐÀO TẠO CHẤT LƯỢNG CAO

------oOo------

BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI:
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN VỀ VẤN
ĐỀ DÂN TỘC
GV: PGS.TS. ĐỒN ĐỨC HIẾU
TÊN NHĨM: NHĨM 12
TÊN
HUỲNH HỮU THẮNG (Nhóm trưởng)

MÃ SỐ SINH VIÊN
21147029

VŨ XUÂN AN

21147165

ĐỖ THANH AN KHANG

21147199

VÕ HỒNG LONG

21147207

ĐÀO TẤN KIỆT



21147204

NGUYỄN ĐĂNG KHƠI

21147203

2

0


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG............................................................................................................2
I - Nội dung các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc:.........................2
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc:..........................................2
2.

Hai xu hướng khách quan của sự phát triển quan hệ dân tộc:.......................4

3.

Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin:.............................................5

4.

Quan hệ dân tộc ở Việt Nam.............................................................................6

II - Vận dụng, liên hệ ở Việt Nam:...............................................................................6

1. Thực trạng vấn đề quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay:...............................6
a) Địa bàn sinh sống của các dân tộc thiểu số:...................................................6
b) Văn hóa, đời sống, kinh tế của các dân tộc thiểu số:.....................................7
2. Quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng..........................................................8
a) Quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về dân tộc và giải quyết quan hệ
dân tộc:....................................................................................................................8
b) Chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước Viêt Nam phát triển vùng } dân tộc
thiểu số và miền n~i:.............................................................................................11
c) Những thành tựu cơ bản trong việc thực hiện chính sách dân tộc:............13
d) Một số giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng và thực thi chính sách dân
tộc trong thời gian tới:..........................................................................................14
PHẦN KẾT LUẬN.........................................................................................................16

1

2

0


PHẦN MỞ ĐẦU
Trong học phần “Chủ nghĩa xã hội khoa học”, ta đã được tìm hiểu nhiều về các vấn đề xã
hội như sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân, chủ nghĩa xã hội trong thời kì q độ,
liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,... Mỗi chương bài
học gắn liền với tình hình xã hội cũng như con đường chính trị mà nước ta hướng đến và
thực hiện. Vấn đề dân tộc là một trong những điểm quan trọng trong học phần này. Loài
người cùng với chiều dài lịch sử phát triển của nhân loại hình thành các loại hình cộng
đồng dân cư từ thấp đến cao. Dân tộc được xem là bậc cao nhất trong quá trình phát triển
cộng đồng xã hội của loài người. Trên thế giới có rất nhiều dân tộc cùng sinh sống, tồn
tại. Qua hàng nghìn năm vận động, mối quan hệ giữa các dân tộc được xây dựng trong

nhiều điều kiện khác nhau và mang những nét đặc trưng cơ bản. Vì vậy, việc nghiên cứu
về vấn đề dân tộc trong xã hội là một điều vô cùng cần thiết. Chủ nghĩa Mác – Lênin đã
nghiên cứu vấn đề dân tộc một cách có hệ thống cơ sở khoa học, lý luận sắc bén, đầy đủ
nhằm làm rõ vấn đề dân tộc và được ứng dụng vào học tập để học sinh, sinh viên có thể
tiếp cận lý luận xã hội một cách chính xác. Với tất cả những lý do trên, việc nghiên cứu
và tổng kết lại kiến thức sau một kỳ học tập môn “Chủ nghĩa xã hội khoa học” là điều rất
quan trọng. Vì vậy, em đã chọn đề tài “Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc
và vấn đề dân tộc ở Việt Nam hiện nay” để làm vấn đề nghiên cứu.

2

2

0


PHẦN NỘI DUNG
I - Nội dung các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc:
1.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, dân tộc là quá trình phát triển lâu dài

của xã hội lồi người, trải qua các hình thức cộng đồng từ thấp đến cao, bao gồm: thị tộc,
bộ lạc, bộ tộc, dân tộc. - Thị tộc là hình thức cộng đồng xã hội đầu tiên trong lịch sử loài
người, bao gồm tập hợp một số người cùng chung huyết thống và có ràng buộc về kinh tế
(quan hệ sản xuất). Các quan hệ sản xuất bao gồm quyền sở hữu công cộng về các tư liệu
sản xuất (như đất đai, đồng cỏ, rừng núi, sơng ngịi, cơng cụ sản xuất...). Các thành viên
trong thị tộc cùng lao động chung, sử dụng các công cụ lao động chung và hưởng thụ sản
phẩm làm ra theo lối bình quân. - Bộ lạc là một hình thức tổ chức xã hội theo kiểu nhóm

xã hội trong lịch sử phát triển của loài người. Bộ lạc nguyên thủy là tập hợp dân cư được
tạo thành từ nhiều thị tộc do có quan hệ huyết thống hoặc quan hệ hơn nhân liên kết với
nhau, trong đó có một thị tộc gốc tạo thành bộ lạc gọi là bào tộc. - Bộ tộc là một hình thức
tổ chức cộng đồng dân cư được hình thành từ sự liên kết của nhiều bộ lạc và liên minh các
bộ lạc trên cùng một vùng lãnh thổ nhất định và thường có quan hệ máu mủ nhất định
(huyết tộc). Đứng đầu một bộ tộc thường là một tộc trưởng hay tộc chủ. - Dân tộc là một
hình thức tổ chức xã hội cộng đồng phát triển nhất theo lịch sử phát triển của xã hội loài
người. Dân tộc là một cộng đồng người chia sẻ ngơn ngữ, văn hóa, sắc tộc, nguồn gốc
hoặc lịch sử. Khái niệm dân tộc thường được dùng với hai nghĩa:
* Xét về nghĩa thứ nhất, dân tộc hay quốc gia dân tộc là cộng đồng người ổn định, bền
vững hợp thành nhân dân của một quốc gia, là cộng đồng chính trị - xã hội có những
đặc trưng cơ bản sau đây:
- Có chung phương thức sinh hoạt kinh tế là đặc trưng quan trọng nhất và là cơ sở để
liên kết các bộ phận, các thành viên của dân tộc, tạo nên nền tảng vững chắc. - Có
lãnh thổ chung ổn định khơng bị chia cắt là địa bàn sinh tồn, phát triển của cộng
đồng dân tộc.
- Có sự quản lý của một nhà nước, nhà nước – dân tộc độc lập. - Có ngơn ngữ
chung của quốc gia là công cụ giao tiếp trong cộng đồng xã hội (bao gồm ngôn ngữ
3

2

0


nói và ngơn ngữ viết)
- Có nét tâm lý biểu hiện qua nền văn hóa dân tộc và tạo nên bản sắc riêng. Ví dụ:
Các quốc gia dân tộc như Việt Nam, Nga, Mỹ, Ba Lan,... Xét về nghĩa thứ hai, dân
tộc là một tộc người, là cộng đồng người cụ thể có những mối liên hệ chặt chẽ, bền
vững, được hình thành lâu dài trong lịch sử và có ba đặc trưng cơ bản như sau:

- Cộng đồng về ngơn ngữ (bao gồm ngơn ngữ nói và ngơn ngữ viết; hoặc chỉ riêng
ngơn ngữ nói). Đây là tiêu chí cơ bản để phân biệt các tộc người khác nhau và là vấn
đề luôn được các dân tộc tôn trọng và gìn giữ.
- Cộng đồng về văn hóa. Văn hóa bao gồm văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể ở
mỗi tộc người phản ánh truyền thống, lối sống, phong tục, tập qn, tín ngưjng, tơn
giáo của tộc người đó. Trong sinh hoạt văn hóa có những nét đặc thù so với những
cộng đồng khác. Đặc biệt, lịch sử phát triển của các tộc người gắn liền với truyền
thống văn hóa của họ.
- Ý thức tự giác tơc người là tiêu chí quan trọng nhất để phân định mơ l t tơc
l người
và có vị trí quyết định đối với sự tồn tại và phát triển c l ủa mỗi tôc người.
l
Đặc trưng
nổi bât là các tô l c người tự ý thức về nguồn gốc, tô l c danh l của dân tơc mình; cịn
là ý thức tự khẳng định sự tồn tại và phát triển của l mỗi tơc người dù cho có những
tác đơ l ng làm thay đổi địa bàn cư trú, lãnh l thổ, hay tác đông ảnh hưởng của giao
lưu kinh tế, văn hóa… l Ví dụ: Việt Nam ta có 54 dân tộc anh em như dân tộc Kinh,
Tày, Nùng, Chăm, Hmông, Pa cô,... Như vậy, xét về nghĩa thứ nhất, dân tộc là toàn
bộ nhân dân một nước, là quốc gia dân tộc, cịn theo nghĩa thứ hai thì dân tộc là bộ
phận của một quốc gia, là cộng đồng xã hội theo nghĩa là các tộc người. Thực chất,
hai vấn đề này tuy khác nhau nhưng lại gắn bó rất mật thiết với nhau và không thể
tách rời nhau.
2.

Hai xu hướng khách quan của sự phát triển quan hệ dân tộc:
Nghiên cứu về dân tộc và phong trào dân tộc trong chủ nghĩa tư bản, V.I.Lênin đã

phân tích và chỉ ra hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc: Xu hướng thứ nhất,
cộng đồng dân cư muốn tách ra để hình thành cộng đồng dân tộc độc lập. Nguyên nhân là
4


2

0


do sự chín muồi về ý thức dân tộc, sự thức tỉnh về quyền sống của mình, các cộng đồng
dân cư đó muốn tách ra để thành lập các quốc gia dân tộc độc lập. Xu hướng này biểu
hiện thành phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc để tiến tới thành lập quốc gia dân
tộc độc lập và có tác động nổi bật trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản. Xu hướng thứ
hai, các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở nhiều quốc gia muốn liên
hiêp lại với nhau. l Sự phát triển của lực lượng sản xuất, của giao lưu kinh tế, văn hóa
trong chủ nghĩa tư bản đã tạo nên mối liên hệ quốc gia và quốc tế mở rộng giữa các dân
tộc, xóa bỏ sự biệt lập, khép kín, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau.
Trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc, sự vận động của hai xu hướng trên gặp rất nhiều
khó khăn, trở ngại. Xu hướng các dân tộc xích lại gần nhau trên cơ sở tự nguyện và bình
đẳng bị chủ nghĩa đế quốc phủ nhận, thay vào đó là những khối liên hiệp với sự áp đặt,
thống trị của chủ nghĩa đế quốc nhằm áp bức, bóc lột các dân tộc cịn nghèo nàn và lạc
hậu.
Khi nghiên cứu về dân tộc, quan hệ dân tộc và những xu hướng phát triển của nó,
chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng, chỉ trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, khi tình
trạng áp bức giai cấp, tình trạng người bóc lột người bị thủ tiêu thì tình trạng áp bức dân
tộc cũng bị xóa bỏ.
Trong thời đại ngày nay, hai xu hướng này diễn ra với những biểu hiên l rất đa dạng
và phong phú. Ngày nay, xu hướng xích lại gần nhau thể hiên ở sự liên minh của các l dân
tôc trên cơ sở lợi ích chung về kinh tế, về chính trị, văn hố, qn sự… để hình thành các
hình thức liên minh đa dạng, như liên minh khu vực: ASEAN, EU… Tóm lại, dân tộc và
quan hệ dân tộc trong tiến trình xây dựng xã hội chủ nghĩa là một nội dung quan trọng
trong toàn bộ nội dung của sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Xã hội mới từng bước tạo ra
những điều kiện để xây dựng quan hệ hợp tác giữa các dân tộc. Sự phát triển mọi mặt của

từng dân tộc gắn với sự phát triển của cả cộng đồng các dân tộc. Sự tăng cường tính thống
nhất các dân tộc trở thành một q trình hợp quy luật. Tuy nhiên, tính cộng đồng chung,
tính thống nhất vẫn trên cơ sở giữ gìn và phát huy tinh hoa, bản sắc của từng dân tộc.
3.

Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin:
5

2

0


Dựa vào kinh nghiêm của phong trào cách mạng thế giới và thực tiễn l cách mạng
Nga trong viêc giải quyết vấn đề dân tô l c những năm đầu thế kỷ l XX, V.I.Lênin đã khái
quát Cương lĩnh dân tơc như sau: ”Các dân tộc tồn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự
quyết, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại” .
Một là: Các dân tộc hồn tồn bình đẳng
Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc, khơng phân biệt dân tộc lớn hay nhỏ,
trình độ phát triển cao hay thấp. Các dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền
bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và phải được thực hiện trong thực
tế, trong đó việc khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa giữa các
dân tộc do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản. Trong quan hệ giữa các quốc gia - dân tộc,
quyền bình đẳng dân tộc gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng
tộc, chủ nghĩa bá quyền nước lớn; chống sự áp bức, bóc lột của các nước tư bản phát triển
đối với các nước lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế. Mọi quốc gia đều bình đẳng trong
quan hệ quốc tế. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự
quyết và xây dựng mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các dân tộc.
Hai là: Các dân tộc được quyền tự quyết.

Đó là quyền làm chủ của các dân tôc, tự quyết định lấy vận mệnh của dân tơc mình,
quyền tự lựa chọn chế đơ cl hính trị và con đường phát triển kinh tế - xã hội của dân tơc
mình.Quyền tự quyết dân tôc bao gồm quyền tách ra thành lập một quốc gia dân tộc độc
lập, đồng thời có quyền tự nguyện liên hiệp với dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng. Quyền
tự quyết dân tộc khơng đồng nhất với quyền của các dân tộc thiểu số trong một quốc gia
đa tộc người, thủ đoạn của các thế lực phản động lợi dụng chiêu bài “dân tộc tự quyết” để
can thiệp vào công việc nội bộ của các nước, hoặc kích động địi li khai dân tộc. Khi xem
xét giải quyết quyền tự quyết của dân tộc, cần đứng vững trên lập trường của giai cấp
công nhân: ủng hộ các phong trào dân tộc tiến bộ, kiên quyết đấu tranh chống lại những
mưu toan lợi dụng quyền dân tộc tự quyết làm chiêu bài để can thiệp vào công việc nội bộ
các nước, đòi ly khai chia rẽ dân tộc.
Ba là: Liên hiêp công nhân tất cả các dân tộc
6

2

0


Liên hiệp công nhân các dân tộc phản ánh sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc và
giải phóng giai cấp; phản ánh sự gắn bó chặt chẽ giữa tinh thần của chủ nghĩa yêu nước
và chủ nghĩa quốc tế chân chính.
Đồn kết giai cấp cơng nhân các dân tộc có ý nghĩa lớn lao đối với sự nghiệp giải
phóng dân lộc. Nó có vai trị quyết định đến việc xem xét, thực hiện quyền bình đẳng dân
tộc và quyền dân tộc tự quyết. Đồng thời, đây cũng là yếu tố tạo nên sức mạnh bảo đảm
cho thắng lợi của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa đế quốc.
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở lý luận quan trọng để các
Đảng cộng sản vận dụng thực hiện chính sách dân tộc trong q trình đấu tranh giành độc
lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

4.

Quan hệ dân tộc ở Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, được xem như một đại gia đình gồm 54 dân

tộc anh em sinh sống khắp nơi trên toàn lãnh thổ, từ miền núi đến miền xuôi, từ vùng
đồng bằng đến miền duyên hải.
Về ngơn ngữ, Việt Nam có ngơn ngữ chung là tiếng Việt – chữ Quốc ngữ. Bên cạnh
đó, các dân tộc thiểu số khác có ngơn ngữ riêng của dân tộc mình vẫn được giữ gìn, lưu
truyền cho các thế hệ con cháu. 54 dân tộc sinh sống tại Việt Nam chia theo ngơn ngữ thì
có 8 nhóm gồm: nhóm Việt - Mường ( ngữ hệ Nam Á), nhóm Tày – Thái, nhóm Kadai,
nhóm Mơn – Khmer, nhóm H’mơng – Dao, nhóm Nam đảo, nhóm Hán, nhóm Tạng –
Miến.
Với nhiều nét đa dạng trong văn hóa, lối sống, xã hội, dân tộc Việt Nam có những đặc
điểm nổi bật như sau:
Thứ nhất: Có sự chênh lêch về số dân giữa các tộc người.
Dân tộc chiếm đa số là dân tộc Kinh ( 86% tổng dân số), các dân tộc còn lại chỉ
chiếm 14% tổng dân số, phân bố rải rác trên phạm vi cả nước. Tỷ lệ số dân giữa các dân
tộc cũng khơng đồng đều, có dân tộc với số dân lớn l hơn 1 triêu người (Tày, Thái,
Mường, Khmer, H’mơng, Nùng...), nhưng có l dân tộc với số dân chỉ vài ba trăm (Si la, Pu
7

2

0


péo, Rơ măm, Brâu, Ơ đu). Với số liệu được thống kê chi tiết cùng với tình hình thực tế
cho thấy một số dân tộc chỉ có đến vài trăm người sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc tổ
chức đời sống thường ngày, việc bảo tồn tiếng nói và văn hóa dân tộc cũng như việc duy

trì và phát triển nịi giống. Vì vậy, việc phát triển số dân hợp lý cho các dân tộc thiểu số,
đặc biệt là một số dân tộc thiểu số rất ít người đang được Đảng và Nhà nước quan tâm, hỗ
trợ hết mức thơng qua các chính sách tiến bộ giúp đj các dân tộc thiểu số này.
Thứ hai: Các dân tộc cư tr- xen kẽ nhau.
Nước ta với bề dày lịch sử hình thành cùng với sự giao lưu các nước trong khu vực
nên đã trở thành nơi chuyển cư của nhiều dân tộc ở khu vực Đơng Nam Á. Tính chất
chuyển cư như vậy đã tạo nên bản đồ cư trú của các dân tộc trở nên phân tán, xen kẽ và
làm cho các dân tộc ở Việt Nam không l có lãnh thổ tộc người riêng. Vì vậy, khơng có một
dân tộc nào ở Việt Nam cư trú tập trung và duy nhất trên một địa bàn.
Đặc điểm này môt mặt tạo điều kiện thuận lợi để các dân tộc tăng cường hiểu biết
lẫn nhau, mở rộng giao lưu giúp đj nhau cùng phát triển và tạo nên một nền văn hóa
thống nhất trong đa dạng. Mặt khác, do có nhiều tộc người sống xen kẽ nên trong quá
trình sinh sống cũng dễ nảy mâu thuẫn, xung đột tạo kẽ hở để các thế lực thù địch lợi
dụng vấn đề dân tộc phá hoại an ninh chính trị và sự thống nhất của đất nước.
Trong thời đại hiện nay, các dân tộc trong nước cùng với sự dẫn dắt của Nhà nước
đã trở thành một thể thống nhất hữu cơ giữa các dân tộc và quốc gia trên mọi mặt của đời
sống xã hội ngày càng được củng cố.
Thứ ba: Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam phân bố chủ yếu ở địa bàn có :vị trí chiến
lược quan trọng.
Mặc dù chỉ chiếm 14% dân số, nhưng 53 dân tộc thiểu số Việt Nam lại cư trú trên ¾
diện tích lãnh thổ và ở những vị trí trọng yếu của quốc gia cả về kinh tế, an ninh, quốc
phòng, mơi trường sinh thái – đó là vùng biên giới, hải đảo, vùng sâu vùng xa của đất
nước. Môt số dân tộc có quan hê l dịng tộc với các dân tộc ở các nước láng giềng và khu
vực. Ví dụ: dân tộc Thái, dân tộc H’mông, dân tộc Khmer, dân tộc Hoa… do vậy, các thế
lực phản động thường lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá cách mạng Việt Nam.
Đây là một trong những vấn đề đáng lo ngại của Đảng và Nhà nước cần phải khắc
8

2


0


phục triệt để “ý nghĩ thù địch, phản động” không có cơ sở. Vì thế, Nhà nước rất mực quan
tâm đến đời sống của người dân sống tại các vùng biên giới, mở các lớp học dạy chữ,
nâng cao kiến thức và ý thức cho các làng bản, tạo nhiều công ăn việc làm cho người
dân...
Thứ tư: Các dân tộc ở Viêt Nam có trình độ phát triển khơng đều
Các dân tộc ở nước ta cịn có sự chênh lệch khá lớn về trình đơ l phát triển kinh tế,
văn hố, xã hội. Về phương diện xã hội, trình đơ ltổ chức đời sống, quan hê xã hội của các
dân tộc thiểu số khác nhau. Về phương diện kinh tế, có thể phân loại các dân tộc thiểu số
Việt Nam ở những trình đơ l phát triển rất khác nhau: Một số ít các dân tộc cịn duy trì
kinh tế chiếm đoạt,dựa vào khai thác tự nhiên; tuy nhiên, đại bộ phận các dân tộc ở Việt
Nam đã chuyển sang phương thức sản xuất tiến bộ, tiến hành công nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nước. Về văn hóa, trình độ dân trí, trình độ chun mơn kỹ thuật của nhiều dân
tộc thiểu số còn thấp.
Thứ năm: Các dân tộc Viêt Nam có truyền thống đồn kết gắn bó lâu : đời trong
cộng đồng dân tộc - quốc gia thống nhất
Đây là đặc trưng vô cùng quan trọng và thể hiện được tinh thần yêu nước truyền
thống của dân tộc Việt Nam ta bao đời nay. Đặc trưng này được hình thành qua quá trình
cải biến tự nhiên là đời sống con người gắn với nền kinh tế trồng lúa nước (một kết cấu
nông thôn bền chặt đã sớm xuất hiện) và nhu cầu phải hợp sức, hợp quần để cùng đấu
tranh chống ngoại xâm nên dân tôc Việt Nam đã hình thành từ rất sớm và tạo ra độ kết
dính cao giữa các dân tộc
Đoàn kết dân tộc trở thành truyền thống quý báu của các dân tộc Việt Nam, là một
trong những nguyên nhân và động lực quyết định mọi thắng lợi của dân tộc trong các giai
đoạn lịch sử; đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược để giành độc lập thống nhất Tổ quốc. Bên
cạnh những mặt tích cực, nước ta vẫn có đối mặt với hiện tượng tiêu cực trong quan hệ
dân tộc. Các thế lực thù địch, phản động dùng nhiều âm mưu, thủ đoạn để chia rẽ và can
thiệp vào nội bộ nước nhà. Vì vậy, để thực hiện thắng lợi chiến lược xây dựng và bảo vệ

vững chắc Tổ quốc Việt Nam, các dân tộc thiểu số cũng như đa số đều dốc sức phát huy
nội lực, giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc nâng cao cảnh giác, kịp thời
9

2

0


đập tan mọi âm mưu và hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.

II - Vận dụng, liên hệ ở Việt Nam:
1.

Thực trạng vấn đề quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay:
Mặc dù Việt Nam ủng hộ Tuyên bố về quyền của người bản địa (UNDRIP), Chính

phủ khơng đồng nhất khái niệm người dân tộc thiểu số với người bản địa. Thay vào đó,
Chính phủ dùng thuật ngữ “dân tộc thiểu số” để chỉ chung cho những người không thuộc
dân tộc Kinh, thể hiện chủ trương “thống nhất trong đa dạng” của Chính phủ. Giữa các
dân tộc thiểu số cũng có rất nhiều điểm khác biệt. Trong số đó, người Hoa (dân tộc Hán)
có nhiều đặc điểm văn hóa tương đồng với văn hóa Việt Nam, họ cũng đóng vai trị quan
trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Vì vậy, người Hoa thường khơng được ghi nhận là một
“dân tộc thiểu số” ở Việt Nam dù tổng số người dân tộc Hoa chỉ đứng ở vị trí thứ 5 ~ 6
trong bảng thống kê dân số.
a)

Địa bàn sinh sống của các dân tộc thiểu số:
Đồng bào các dân tộc thiểu số thường tập trung vào các vùng núi và vùng sâu vùng


xa, tuy nhiên họ cũng phân bố rải rác trên toàn lãnh thổ Việt Nam do chiến tranh và nhập
cư. Các dân tộc thiểu số sinh sống ở khu vực thành thị thường sung túc hơn các dân tộc
thiểu số sống ở khu vực nơng thơn. Nhiều làng, xã có tới 3-4 dân tộc thiểu số khác nhau
cùng sinh sống. Vị trí địa lý đóng một vai trị quan trọng trong các tập tục văn hóa của các
dân tộc thiểu số, song cũng đồng thời tạo ra những rào cản trong việc tiếp cận cơ sở hạ
tầng và các dịch vụ công như y tế và giáo dục. Khả năng tiếp cận cơ sở vật chất cơ bản tại
những địa bàn người dân tộc thiểu số sinh sống chủ yếu vẫn còn hạn chế. 72% dân tộc
thiểu số khơng có nhà vệ sinh đạt chuẩn, và hơn ¼ số hộ dân tộc thiểu số không được tiếp
cận với nguồn nước hợp vệ sinh. Tỉ lệ hộ có điện sinh hoạt tương đối cao ở Việt Nam, tuy
nhiên phần lớn các hộ sinh sống tại khu vực nông thôn và vùng núi chưa được sử dụng
điện lưới, gây nên tình trạng mất cân đối trong đời sống đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy
còn thiếu thốn về điều kiện giáo dục so với đồng bào Kinh, các dân tộc thiểu số đều có đại
10

2

0


diện với vai trị cán bộ và cơng chức trong các cấp chính quyền, đặc biệt là cấp tỉnh và
thành phố. Tuy nhiên, trình độ văn hóa, đặc biệt là tỷ lệ biết chữ có khác biệt lớn giữa các
nhóm dân tộc thiểu số. Tỷ lệ trung bình cho 53 dân tộc thiểu số là 79,8%, tuy nhiên con số
này biến thiên từ mức thấp nhất là 34,6% với dân tộc La Hủ, tới cao nhất là các dân tộc
Thổ, Mường, Tày và Sán Dìu đạt 95%. Tỷ lệ người lao động là dân tộc thiểu số đã qua
đào tạo bằng 1/3 của cả nước. Một trong những rào cản của giáo dục ở vùng cao chính là
khoảng cách địa lý. Nhiều học sinh người dân tộc thiểu số phải đi một quãng đường xa để
tới trường phổ thông, thường rơi vào khoảng từ 9 km thậm chí lên tới 70 km. Thêm vào
đó, người được đi học chủ yếu vẫn là nam giới, do tư tưởng lỗi thời “trọng nam khinh nữ”
vẫn còn tồn tại ở đồng bào dân tộc thiểu số.
b)


Văn hóa, đời sống, kinh tế của các dân tộc thiểu số:
Đối với các dân tộc thiểu số sống ở vùng cao, rừng đóng vai trị quan trọng tới đời

sống kinh tế của người dân. Người H’mông, Thái, Dao đỏ, Vân Kiều, Ja Rai, Ê Đê, và Ba
Na sinh sống trên nhiều tỉnh thành trên cả nước vẫn nương tựa vào rừng cộng đồng. Họ
có những khu rừng thiêng phục vụ mục đích về tâm linh tín ngưjng cũng như người Kinh
có đền thờ và nhà thờ dịng họ. Luật tục cũng quy định những khu rừng đầu nguồn, rừng
nguồn nước nơi người dân thờ Thần Nước. Ngoài ra cịn có các khu rừng khai thác sản
phẩm chung của cả làng bản, ví dụ như dược liệu, củi, và vật liệu để làm đồ thủ cơng.
Hình thức quản lý rừng truyền thống theo cộng đồng đóng vai trị quan trọng trong phong
tục tập quán cũng như sinh kế của các dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Ngoài sản xuất lâm
nghiệp, sản xuất nông nghiệp là sinh kế với nhiều dân tộc thiểu số. Cả hai hình thức canh
tác lâm nghiệp và nơng nghiệp đều cần có đất. Tuy nhiên các dân tộc thiểu số vẫn còn gặp
nhiều khó khăn về quyền đất đai để duy trì hoạt động sản xuất và sinh hoạt văn hóa.
Trong nỗ lực bảo vệ sinh kế và khuyến khích bảo vệ mơi trường, một số cộng đồng đã
được chính phủ giao đất để họ tiếp tục quản lý rừng truyền thống theo cộng đồng. Tuy
nhiên, việc làm này chưa được phổ biến rộng rãi. Năm 2015, chỉ có 26% tổng diện tích
đất rừng được giao cho các hộ, và chỉ có 2% được giao cho cộng đồng quản lý. Thêm vào
đó, mặc dù Luật Đất đai thừa nhận quyền sở hữu đất đai theo luật tục, đất đai phần lớn
vẫn thuộc sự quản lý của Chính phủ, và Luật Dân sự khơng thừa nhận cộng đồng như một
11

2

0


pháp nhân. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực nhằm cải thiện bất bình đẳng giới ở Việt Nam, vấn
đề này vẫn còn tồn tại và ảnh hưởng đặc biệt tới cộng đồng dân tộc thiểu số. Cần có nhiều

chương trình cụ thể hơn hướng tới đối tượng phụ nữ dân tộc thiểu số. Ví dụ, liên quan tới
đất đai cần có những biện pháp để giúp cải thiện sự chủ động và tự tin cho phụ nữ dân tộc
thiểu số. Một ví dụ khác, để tăng cường tiếp cận các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe
sinh sản, giáo dục và các dịch vụ khác cần được cung cấp dưới hình thức dễ tiếp cận, nhất
là về ngơn ngữ vì phần lớn người dân tộc thiểu số khơng nói tiếng Việt, và phụ nữ dân tộc
thiểu số có tỷ lệ biết chữ thấp hơn so với nam giới.
2.

Quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng

a)

Quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về dân tộc và giải quyết quan hệ dân
tộc:
Trong mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng và Nhà nước ta coi việc giải quyết đúng đắn

vấn đề dân tộc là nhiệm vụ có tính chiến lược nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, cũng
như tiềm năng của từng dân tộc và đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội XII
khẳng định: “Đoàn kết các dân tộc có vị l trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của
nước ta. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tơn trọng,
đồn kết giải quyết hài hịa quan hê giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, tạo
chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu
số... Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống l kỳ thị dân tộc, nghiêm trị những âm
mưu hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc”.
Quan điểm cơ bản của Đảng ta về vấn đề dân tộc thể hiện ở các nội dung sau:
- Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời
cũng là vấn đề cấp bách hiên nay của cách mạng Việt Nam
- Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tương trợ, giúp nhau
cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiên thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa

hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vê l Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc.
12

2

0


- Phát triển tồn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, hội và an ninh -quốc phịng trên địa
bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã
hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi dưjng nguồn nhân
lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những
giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển
chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất.
- Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi, trước hết,
tập trung vào phát triển giao thơng và cơ sở hạ tầng, xóa đói giảm nghèo; khai thác
có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi đôi với bảo vệ bền vững môi
trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường của đồng bào các dân
tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và sự giúp đj của các
địa phương trong cả nước.
- Công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân, của các cấp, các ngành và tồn bơ hệ thống chính trị”.
Trong lịch sử hào hùng của dân tộc ta, dân tộc đa số và các dân tộc thiểu số đều
cùng chung sức, gắn bó với nhau trải qua biết bao nhiêu trận chiến khốc liệt, vững
tin vào cách mạng mà mọi người hướng đến. Những điều đó đã được ghi chép trong
các văn kiện lịch sử, được chứng minh trong các tác phẩm văn học nổi tiếng như
“Việt Bắc” của Tố Hữu, “Tây Tiến” của Quang Dũng, ...
Ngày nay, chính sách dân tộc của Đảng đã được thể chế bằng Hiến pháp, luật pháp
và bằng các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Hiến pháp nước CHXHCN Việt

Nam năm 1992 đã ghi:
“Nhà nước CHXHCN Việt Nam, Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh
sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết tương
trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có
quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập
qn, truyền thống và văn hố tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển
mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu
số” - Điều 5, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, 1992.
13

2

0


Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Hiến pháp, các bộ luật như Bộ Luật Dân sự, Luật
Hôn nhân gia đình, Luật Giáo dục, Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân,… đều thể hiện rõ
quyền bình đẳng của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Đồng thời với việc thể chế bằng
Hiến pháp và pháp luật, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước được cụ thể hoá trong
chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, trong các chương trình, dự án đầu tư phát
triển cho vùng dân tộc và miền núi, trong các chính sách, các quy định cụ thể ở tất cả các
lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội,… đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
Bước vào thời kỳ đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, chính sách dân tộc của Đảng đã được thể hiện ở các Nghị
quyết Đại hội Đảng. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã chỉ rõ: “Thực hiện tốt các
chính sách dân tộc bình đẳng, đồn kết, tương trợ gi~p đỡ nhau cùng phát triển, xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, phát triển sản xuất hàng hoá, chăm lo đời
sống vật chất và tinh thần, xố đói giảm nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn làm giàu và
phát huy bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc”.
Tiếp theo, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X đã khẳng định: “Vấn đề dân tộc và

đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta.
Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tôn trọng và gi~p đỡ
nhau cùng tiến bộ...”.
Các quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề dân tộc và giải quyết dân tộc
đã được chỉ rõ qua các nội dung quan điểm chính thức cùng với các văn bản quy phạm
pháp luật rõ ràng. Điều đó cho thấy Đảng, Nhà nước Việt Nam rất quan tâm đến vấn đề
dân tộc, luôn đặt vấn đề dân tộc vào trong những luận điểm, chính sách cần được cải thiện
những mặt tiêu cực và phát huy những mặt tích cực mà trước nay vẫn ln giữ gìn.
b)

Chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước Viêt Nam phát triển vùng } dân tộc
thiểu số và miền n~i:
Chính sách dân tộc cơ bản của Đảng và Nhà nước ta được thể hiện cụ thể ở những

điểm sau:
Về chính trị: thực hiện bình đẳng, đồn kết, tơn trọng, giúp nhau cùng l phát triển
giữa các dân tộc. Chính sách dân tộc góp phần nâng cao tính tích cực chính trị của cơng
14

2

0


dân; nâng cao nhân thức của đồng bào các dân tộc thiểu số về tầm quan trọng của vấn đề
dân tộc, đoàn kết các dân tộc, thống nhất mục tiêu chung là độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, dân giàu, nước lmạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Về kinh tế: nơi dung, nhiệm vụ kinh tế trong chính sách dân tộc là các chủ trương,
chính sách phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng đồng bào l các dân tộc thiểu số nhằm
phát huy tiềm năng phát triển, từng bước khắc phục khoảng cách chênh lêch giữa các

vùng, giữa các dân tộc. Thực hiện các nội dung kinh tế thơng qua các chương trình, dự án
phát triển kinh tế ở các vùng dân tôc thiểu số, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở
miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ địa cách mạng.
Về văn hóa: xây dựng nền văn hóa Viêt Nam tiên tiến đâ lm đà bản sắc l dân tơc. Giữ
gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các tộc người, l phát triển ngôn ngữ, xây
dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, nâng cao trình độ văn hóa cho nhân dân các dân tơc. Đào
tạo cán bộ văn hóa, xây dựng mơi trường, thiết chế văn hóa phù hợp với điều kiên của các
tộc người trong quốc gia đa dân tộc. Đồng thời, mở rộng giao lưu văn hóa với các quốc
gia, các l khu vực và trên thế giới. Đấu tranh chống tệ nạn xã hội, chống diễn biến hịa
bình trên mặt trân tư tưởng- văn hóa ở nước ta hiện nay.
Về xã hội: thực hiên chính sách xã hội, đảm bảo an sinh xã hội trong vùng đồng bào
dân tộc thiểu số. Từng bước thực hiện bình đẳng xã hội, cơng l bằng thơng qua viêc thực
hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, dân số, y tế, giáo dục trên
cơ sở chú ý đến tính đặc thù mỗi vùng, mỗi dân tộc. Phát huy vai trị của hê lthống chính
trị cơ sở và các tổ chức chính trị - xã hội ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số.
Về an ninh quốc phòng: tăng cường sức mạnh bảo vệ tổ quốc trên cơ sở đảm bảo ổn
định chính trị, thực hiện tốt an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Phối hợp chặt chẽ các
lực lượng trên từng địa bàn. Tăng cường l quan hê qn
l
dân, tạo thế trận quốc phịng tồn
dân trong vùng đồng bào dân tộc sinh sống.
Xuất phát từ những quan điểm trên, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội vùng dân
tộc thiểu số tập trung vào những nội dung chủ yếu sau:
- Xố đói giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào dân tộc thiểu số, trọng
15

2

0



tâm là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, trong những năm trước mắt tập
trung trợ giúp đồng bào nghèo, đồng bào các dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn.
- Phát triển sản xuất hàng hố phù hợp với đặc điểm, điều kiện từng vùng dân tộc.
Khuyến khích đồng bào các dân tộc khai thác tiềm năng, thế mạnh của địa
phương làm giàu cho mình và đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới, đẩy
mạnh cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
- Ưu tiên đặc biệt phát triển giáo dục và đào tạo, coi trọng đào tạo cán bộ và đội
ngũ trí thức dân tộc thiểu số.
- Kế thừa và phát huy những giá trị văn hố truyền thống của các dân tộc thiểu số
góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam đa dạng, phong phú, giàu bản sắc dân
tộc.
Để đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc và miền núi, nâng cao dần
mức sống của đồng bào các dân tộc, trong những năm đổi mới vừa qua và nhất là giai
đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương chính sách ưu tiên đối
với đồng bào dân tộc thiểu số một cách đồng bộ và toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực đời
sống xã hội. Đồng thời, đã triển khai thực hiện nhiều chương trình, dự án đầu tư phát triển
trên địa bàn miền núi, vùng đồng bào dân tộc như: Chương trình trồng mới 5 triệu ha
rừng, Chương trình xố đói giảm nghèo, Chương trình phát triển kinh tế – xã hội các xã
đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa (Chương trình 135),…
Với sự quan tâm sâu sắc, chăm lo đầy đủ, cụ thể của Đảng và Nhà nước, cùng với
tinh thần nỗ lực, cố gắng của đồng bào các dân tộc, tình hình kinh tế – xã hội vùng đồng
bào dân tộc đã có bước chuyển biến, tiến bộ đáng kể, cuộc sống của bà con dân tộc thiểu
số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa được cải thiện rõ rệt, quyền của các dân tộc thiểu số
được bảo đảm đầy đủ và toàn diện.
c)

Những thành tựu cơ bản trong việc thực hiện chính sách dân tộc:

Nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, cùng sự nỗ lực vươn lên của đồng bào các

dân tộc, trong những năm qua, tình hình kinh tế-xã hội vùng dân tộc đã có những chuyển
biến quan trọng, quyền bình đẳng giữa các dân tộc ngày càng được thể chế hóa và thực
16

2

0


hiện trên thực tế các lĩnh vực của đời sống. Các địa phương vùng dân tộc thiểu số và miền
núi đều đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bình quân các tỉnh vùng Tây Bắc tăng
8,4%, các tỉnh vùng Tây Nguyên tăng 8,1%, các tỉnh vùng Tây Nam Bộ tăng 7,3%. Tỷ lệ
hộ nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn giảm bình qn 3-4%/ năm. Đây là những con số
biết nói đã thể hiện được mặt tích cực trong đời sống người dân ở các vùng dân tộc nghèo
khó thơng qua các chính sách ưu tiên của Nhà nước.
Bên cạnh đó, việc ưu tiên đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thiết yếu
đã có nhiều điểm khởi sắc như: giao thơng, nước dùng trong sinh hoạt và sản xuất, điện,
thông tin liên lạc, trạm xá, trường học, cơ sở y tế đã làm thay đổi rõ rệt bộ mặt nông thôn
tại các vùng quê nghèo, vùng dân tộc thiểu số sống tại miền núi.
Ðến nay đã có 98,4% số xã có đường ô tô đến trung tâm; hơn 98% số hộ dân tộc
thiểu số được sử dụng điện lưới quốc gia;hơn 90% số xã được phủ sóng phát thanh,
truyền hình; 100% số xã có hạ tầng viễn thơng; 100% số xã có trường lớp mầm non, tiểu
học, trung học cơ sở; 99,3% số xã có trạm y tế.
Sự nghiệp phát triển giáo dục, đào tạo nhân lực cho các dân tộc thiểu số có nhiều
tiến bộ. Các trẻ em đã được đến trường học tập, vui chơi. Nhà nước khuyến khích cùng
với các chính sách đãi ngộ thiết thực dành cho các giáo viên tình nguyện lên vùng cao dạy
học. Bước đầu đã đạt nhiều thành tựu trong việc xóa nạn mù chữ, phổ cập kiến thức cho
người dân tộc thiểu số.

Đời sống văn hóa, tinh thần của các dân tộc thiểu số có nhiều khởi sắc , các giá trị
văn hóa dân tộc truyền thống vẫn được giữ gìn, bảo tồn và phát triển. Đồng thời, các tập
tục lạc hậu, lỗi thời, vô nhân đạo ở một số dân tộc thiểu số đã được bãi bỏ.
Lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe vùng dân tộc thiểu số được cải thiện, góp phần
nâng cao sức khỏe, thể trạng và chất lượng dân số.
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong vùng dân tộc và miền núi
có chuyển biến tốt, dịch vụ trợ giúp pháp lý đang tiếp cận với người dân.
Bình đẳng giới từng bước được tạo lập giúp người phụ nữ nâng cao nhận thức, vươn
lên phát huy vai trị của bản thân trong gia đình và xã hội.
Trong thời chiến, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta có tác dụng cổ vũ,
17

2

0


khích lệ tinh thần cách mạng của đồng bào dân tộc thiểu số kháng chiến, làm nên thắng
lợi lịch sử của dân tộc, thì trong thời kỳ đổi mới, chính sách ấy có ý nghĩa củng cố khối
đại đồn kết dân tộc, tạo ra khối sức mạnh tổng hợp để thực hiện mục tiêu cơng nghiệp
hố, hiện đại hố, ổn định tình hình an ninh, chính trị của đất nước.
d)

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng và thực thi chính sách dân tộc
trong thời gian tới:
Từ nhu cầu thực tiễn của cơng tác dân tộc, địi hỏi Đảng và Nhà nước ta tiếp tục xây

dựng và hoàn thiện chủ trương, đường lối, chính sách về vấn đề dân tộc, cơng tác dân tộc
trong tình hình hiện nay. Để làm tốt nhiệm vụ này, cần tập trung thực hiện một số giải
pháp cơ bản sau:

Một là, tăng cường cơng tác tun truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc, nhất là Nghị quyết số 24-NQ/TW,
ngày 12-3-2003, của Hội nghị Trung ương 7 khóa IX, “Về công tác dân tộc”; Kết luận số
65-KL/TW, ngày 30-10-2019, của Bộ Chính trị, về “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về cơng tác dân tộc trong tình
hình mới” và Nghị định số 05/2011/NĐ-CP, ngày 14-1-2011, của Chính phủ, “Về công
tác dân tộc”. Bồi dưjng, nâng cao nhận thức cho đồng bào các dân tộc thiểu số tích cực
thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về vấn đề dân tộc, công tác dân
tộc. Đặc biệt động viên, khuyến khích đồng bào phát hiện những điểm chưa hợp lý, chưa
phù hợp trong các chính sách dân tộc để kiến nghị với các cấp xây dựng và hoàn thiện các
chính sách dân tộc.
Hai là, hồn thiện các văn bản pháp luật về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc, trong
đó sớm xây dựng và ban hành Luật Dân tộc. Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy,
chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước về công tác dân tộc từ Trung ương
đến địa phương; đào tạo, bố trí, sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác
dân tộc ở các cấp.
Ba là, xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các chính sách dân tộc phải phù hợp
với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, đặc trưng văn hóa của từng vùng, miền, đặc điểm
18

2

0


của từng dân tộc, từng địa phương. Trong tổ chức thực hiện các chính sách dân tộc cần có
sự phân loại cụ thể để thực hiện có trọng điểm, hiệu quả, dứt điểm, nhất là đối với những
chính sách quan trọng, cấp bách, phù hợp với khả năng tiếp nhận và sự chuẩn bị ở mỗi
dân tộc, mỗi địa phương, đồng thời đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Bốn là, nâng cao hiệu quả thực hiện các chính sách dân tộc là cơng việc quan trọng,

cơ bản, thường xuyên, lâu dài, đòi hỏi phải được tiến hành có lộ trình, kiên trì, nhất qn
và khơng ngừng đổi mới, hồn thiện. Các chính sách dân tộc được xây dựng và ban hành
phải là động lực trực tiếp thúc đẩy bình đẳng, đồn kết giữa các dân tộc và phát huy vai
trò, tiềm năng thật sự của mỗi dân tộc.

19

2

0


PHẦN KẾT LUẬN
Trên cơ sở kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc, Đảng và Nhà
nước ta đã vận dụng triệt để vào con đường xây dựng đất nước theo chế độ xã hội chủ
nghĩa bình đẳng – văn minh – phát triển. Đảng và Nhà nước hiểu rất rõ tầm quan trọng
của tinh thần đồn kết, gắn bó giữa các dân tộc trong quốc gia, có tác động mạnh mẽ
đến nền kinh tế - chính trị - văn hóa – xã hội của đất nước. Đảng và Nhà nước ta luôn
nhất quán thực hiện chính sách bình đẳng dân tộc, các tộc người ở Việt Nam đều bình
đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, thậm chí chúng ta có nhiều chính sách ưu tiên cho đồng
bào dân tộc thiểu số. Bên cạnh những mặt tích cực đang được nâng cao trong q trình
đất nước tiến lên cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa, chúng ta khơng được chủ quan mà lơ
là cảnh giác, phịng thủ để đập tan những phần tử phản quốc. Vì vậy, chúng ta cần hiểu
đúng đắn, sâu sắc, đầy đủ tư tưởng của V.I.Lênin để đấu tranh chống lại âm mưu lợi
dụng, cái gọi là quyền dân tộc tự quyết của các thế lực thù địch để chống phá Việt Nam.
Hiện nay, đất nước ta đang phải chống chọi, đẩy lùi cơn sóng dịch bệnh Covid-19 lần
thứ ba. Dân tộc đa số hay dân tộc thiểu số đều chung tay phòng chống dịch bệnh, hỗ trợ
nhu yếu phẩm cần thiết đến các vùng trung tâm của dịch bệnh như TP. Hồ Chí Minh, Hà
Nội, các tỉnh Đơng và Tây Nam Bộ. Hình ảnh cậu bé người dân tộc Pa Kơ ở Quảng Trị
cùng người thân góp vào quỹ hỗ trợ miền Nam chống dịch gây xôn xao mạng xã hội bởi

tinh thần tương thân, tương ái của đồng bào ta. Ngồi ra, cịn rất nhiều câu chuyện ấm
lịng giữa tâm bão đại dịch làm xích lại tình đồn kết, thương yêu của dân tộc Việt Nam.
Bởi thế, ông cha ta vẫn thường dạy con cháu thế hệ đời sau rằng: “Ăn quả nhớ kẻ trồng
cây”. Dù mai sau này Việt Nam sẽ cùng sánh vai với các cường quốc năm châu thì 54
dân tộc anh em vẫn một lịng một dạ cùng đắp xây, phát triển quê hương Việt Nam vững
bền.
20

2

0


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2019, Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, NXB Chính Trị
Quốc Gia Sự Thật, Hà Nội
2. Khơng có tên tác giả, 30/06/2020, Dân tộc thiểu số ở Việt Nam,
OpenDevelopmentVietnam
Đọc từ: />3. Vy Xuân Hoa, 10/12/2008, Chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước trong việc đảm bảo
quyền của các dân tộc thiểu số Việt Nam (nhân kỷ niệm 60 năm ngày Nhân quyền thế giới
- ngày 10/12), Trang tin điện tử Ủy ban Dân tộc
Đọc từ: />4. Vietnam Plus, 02/12/2020, Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về cơng tác
dân tộc, Mega Story
Đọc từ: />5. Khơng có tên tác giả, Vấn đề dân tộc và những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc, Loigiaihay.com
Đọc từ: 2

21

2


0



×