TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BỘ MƠN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
Tiểu luận cuối kỳ
***
TÌM HIỂU SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NHỮNG NÉT MỚI
TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA TƯ
BẢN HIỆN ĐẠI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN LỰC
LƯỢNG SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM TRONG CUỘC
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ 4
MÃ SỐ LỚP HP: LLCT120205_21_1_14
GVHD: TS. TRẦN THỊ THẢO
THỰC HIỆN: NHÓM 06
HỌC KỲ: 1 – NĂM HỌC: 2021 - 2022
Tp. Thủ Đức, tháng 12, năm 2021
1
0
0
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BỘ MƠN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
Tiểu luận cuối kỳ
***
TÌM HIỂU SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NHỮNG NÉT MỚI
TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA TƯ
BẢN HIỆN ĐẠI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN LỰC
LƯỢNG SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM TRONG CUỘC
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ 4
MÃ SỐ LỚP HP: LLCT120205_21_1_14
GVHD: TS. TRẦN THỊ THẢO
THỰC HIỆN: NHÓM 06
HỌC KỲ: 1 – NĂM HỌC: 2021 - 2022
Tp. Thủ Đức, tháng 12, năm 2021
0
0
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KỲ I NĂM HỌC 2021 - 2022
Nhóm: 06 (Lớp: LLCT120205_21_1_14)
Tên đề tài: Tìm hiểu sự ảnh hưởng của những nét mới trong sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản hiện đại đối với sự phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam
trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4
STT
HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN
MSSV
% HOÀN THÀNH
1
Phùng Xuân Hiếu
20119107
100%
2
Trần Văn Vũ
19147271
100%
3
Trần Võ Mạnh Đình
20104021
100%
4
Dương Tấn Đạt
19147186
100%
5
Nguyễn Trường Vũ
20144494
100%
6
Trịnh Huy Quân
19124306
100%
7
Võ Thanh Hồi
20143078
100%
8
Lê Hồng Phong
19143301
100%
9
Võ Thị Ngun Hạnh
20136072
100%
10
Đặng Đăng Khơi
19144270
100%
11
Nguyễn Hồng Việt
20126217
100%
Ghi chú:
- Tỷ lệ % = 100% Mức độ phần trăm của từng sinh viên tham gia.
- Trưởng nhóm: Nguyễn Hồng Việt
3
0
0
SĐT: 0373 633 117
Điểm số: ………………………………………………………………………….
Nhận xét của giáo viên:
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
Tp. Thủ Đức, ngày 16, tháng 12, năm 2021
Ký xác nhận của giảng viên
TS. Trần Thị Thảo
4
0
0
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
IT
Cơng nghệ thơng tin
GDP
Bình qn đầu người
FDI
Đầu tư trực tiếp ngước ngồi
USD
Đồng đơ la Mỹ
XNK
Xuất nhập khẩu
WTO
Tổ chức thương mại thế giới
FTA
Hiệp định thương mại tự do
ICT
Hạ tầng cơ sở thông tin
CNTB
Chủ nghĩa tư bản
5
0
0
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................................... 7
1. Lý do chọn đề tài.....................................................................................................................7
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...........................................................................................7
3. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................................7
4. Kết cấu đề tài...........................................................................................................................8
B. PHẦN NỘI DUNG............................................................................................................... 9
CHƯƠNG 1: NHỮNG NÉT MỚI TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA TƯ
BẢN HIỆN ĐẠI.........................................................................................................................9
1.1 Khái quát chủ nghĩa tư bản hiện đại......................................................................................9
1.2 Nét mới trong sự phát triển của lực lượng sản xuất............................................................ 10
1.2.1 Sự phát triển nhảy vọt của chủ nghĩa tư bản.............................................................. 10
1.2.2 Nền kinh tế đang có xu hướng chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức.13
1.3 Nét mới trong sự điều chỉnh quan hệ sản xuất và quản lý nhà nước.................................. 16
1.3.1 Sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất và quan hệ giai cấp............................................. 16
1.3.2 Thể chế quản lý kinh doanh trong nội bộ doanh nghiệp có những biến đổi lớn........18
1.3.3 Điều tiết vĩ mô của nhà nước ngày càng được tăng cường........................................19
1.3.4 Điều tiết và phối hợp quốc tế được tăng cường......................................................... 20
CHƯƠNG 2: SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NHỮNG NÉT MỚI TRONG SỰ PHÁT TRIỂN
CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC
LƯỢNG SẢN XUẤT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY..................................................................22
2.1 Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FDI)............................................................... 22
2.2 Các ngành kinh tế dựa trên hàm lượng tri thức phát triển.................................................. 23
2.3 Hội nhập kinh tế quốc tế..................................................................................................... 25
C. PHẦN KẾT LUẬN.............................................................................................................27
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................. 28
6
0
0
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ nghĩa tư bản hiện đại là một giai đoạn phát triển mới trong lịch sử phát
triển của chủ nghĩa tư bản, đó là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước với nhiều
đặc trưng mới được thể hiện rõ nét từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Chủ nghĩa
tư bản hiện đại làm cho bộ mặt xã hội có những bước phát triển mới.
Ngày nay lực lượng sản xuất đã có những bước phát triển mạnh mẽ dưới sự
tác động phát triển của kỹ thuật và công nghệ. Lực lượng sản xuất thay đổi về
tính chất và trình độ dẫn đến sự thay đổi về quan hệ sản xuất. Do đó trong các
nước chủ nghĩa tư bản, bản chất của nó cũng mang những đặc điểm mới.
Đề tài này sẽ làm rõ “Sự ảnh hưởng những nét mới trong sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản hiện đại, đối với sự phát triển lực lượng sản xuất ở Việt
Nam trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4”.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu đó là sự thay đổi của chủ nghĩa tư bản – sự nhảy vọt
trong lực lượng sản xuất – sự thay đổi trong quan hệ sản xuất.
Phạm vi nghiên cứu
+ Về mặt thời gian: Sau chiến tranh thế giới thứ 2 và ngày nay.
+ Về mặt không gian: Xã hội ở các nước tư bản phát triển như Âu – Mỹ.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp biện chứng duy vật là phương pháp cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin: Khi xem sét các hiện tượng và quá trình kinh tế phải đặt trong mối liên
hệ tác động qua lại lẫn nhau, thường xuyên vận động, phát triển không ngừng,
chứ không phải là bất biến
Phương pháp chuyên ngành và liên ngành.
Ngoài ra, kinh tế chính trị cịn sử dụng nhiều phương pháp khác như lơgíc và
lịch sử, phân tích và tổng hợp, các phương pháp tốn học, thống kê, mơ hình hố
các quá trình kinh tế được nghiên cứu, v.v..
Dùng các kiến thức của các chuyên ngành khoa học xã hội có liên quan.
7
0
0
4. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, tiểu luận
được chia làm 2 chương:
Chương 1. Những nét mới trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện
đại.
Chương 2. Sự ảnh hưởng của những nét mới trong sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản hiện đại đối với sự phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay.
8
0
0
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG NÉT MỚI TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA TƯ
BẢN HIỆN ĐẠI
1.1 Khái quát chủ nghĩa tư bản hiện đại
Chủ nghĩa tư bản hiện đại là một giai đoạn phát triển mới trong lịch sử phát
triển của chủ nghĩa tư bản. Đó là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước với
nhiều đặc trưng mới được thể hiện rõ nét từ sau chiến tranh thế giới thứ hai và
ngày càng phát triển nhanh các yếu tố tự phủ định biện chứng. Nhờ sử dụng các
tiến bộ khoa học cơn nghệ cùng với tính năng tự điều chỉnh quan hệ sản xuất,
chủ nghĩa tư bản hiện đại làm cho bộ mặt xã hội có những bước phát triển mới.
Tuy nhiên, sự thay đổi phát triển này không làm cho chủ nghĩa tư bản thay đổi
bản chất, khơng làm cho nó biến khỏi vũ đại lịch sử chủ nghĩa tư bản vẫn đang
tồn tại phát triển.
Chủ nghĩa tư bản hiện đại đã là chủ nghĩa tư bản nhân văn, nhân đạo, chủ
nghĩa tư bản có ý thức; trong đó, có những mục tiêu cao đẹp hơn chỉ là tìm kiếm
lợi nhuận, đã có cơ chế để giải quyết hài hịa lợi ích của các bên có liên quan
nhà nước, nhà tư bản, người lao động; việc xây dựng mơi trường văn hóa trong
doanh nghiệp, các cơng ty, tập đoàn kinh tế, trong cộng đồng xã hội và việc bảo
vệ môi trường được coi trọng.
Các xã hội tư bản hiện đại, được đánh dấu bằng sự phổ cập các quan hệ xã
hội dựa trên đồng tiền, một nhóm cơng nhân lớn và tồn hệ thống phải làm việc
để kiếm tiền, và một tầng lớp tư bản sở hữu các phương tiện sản xuất được phát
triển ở Tây Âu trong một q trình dẫn đến cuộc cách mạng cơng nghiệp. Các hệ
thống tư bản với mức độ can thiệp trực tiếp khác nhau của chính phủ đã trở nên
chiếm ưu thế trong thế giới phương Tây và tiếp tục lan rộng ra thế giới. Theo
9
0
0
thời gian, tất cả các nước tư bản đã trải qua sự tăng trưởng kinh tế nhất quán và
sự nâng cao mức sống của con người.
1.2 Nét mới trong sự phát triển của lực lượng sản xuất
1.2.1 Sự phát triển nhảy vọt của chủ nghĩa tư bản
Khái niệm: Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực thực tiễn được
dùng trong quá trình sản xuất của xã hội qua các thời kỳ nhất định, về mặt cấu
trúc thì lực lượng sản xuất của xã hội bao gồm hệ thống những tư liệu sản xuất
và sức lao động mà người ta dùng cho việc sản xuất.
Chỉ khi nào có sự thống nhất giữa tư liệu sản xuất và người lao động thì mới
là lực lượng sản xuất đúng nghĩa của nó.
Ví dụ: người cơng nhân đứng cạnh cái máy kéo đã chết máy thì chưa là lực
lượng sản xuất.
+ Người lao động với tư cách là chủ thể của quá trình sản xuất vật chất với
sức khỏe thể chất, kinh nghiệm, kỹ năng lao động, trình độ lao động là nhân tố
chủ yếu hàng đầu của lực lượng sản xuất.
+ Công cụ lao động: Là nhân tố quan trọng của lực lượng sản xuất, là khí
quan vật chất để nối dài, nhân lên sức mạnh của con người trong quá trình lao
động biến đổi thế giới tự nhiên, nó là ý thức đóng vai trị quyết định trong tư liệu
sản xuất.
Sự phát triển nhảy vọt về lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản hiện đại
được thể hiện trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất, cách mạng cơng nghệ thơng tin (IT) và công nghệ cao phát triển
mạnh mẽ. Cách mạng IT khởi nguồn từ các nước phát triển phương Tây là bước
nhảy vọt lớn mang tính lịch sử to lớn của phát triển khoa học kỹ thuật, là kết quả
sự tích luỹ khoa học kỹ thuật lâu dài của các nước tư bản chủ nghĩa. Mười mấy
năm gần đây, công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, trở thành ngành lớn nhất
và ngành tăng trưởng nhanh nhất, nửa cuối thập kỷ 90 của thế kỷ XX, ngành
công nghệ thông tin của Mỹ chiếm 8,3% trong GDP, đóng góp cho tăng trưởng
kinh tế trên 30%.
10
0
0
Cùng với sự lan rộng trên toàn cầu của cách mạng IT, các ngành công nghệ
cao mới khác như sinh học, vật liệu mới, nguồn năng lượng mới, hàng không vũ
trụ cũng đang phát triển mạnh mẽ, dự kiến cách mạng khoa học kỹ thuật sẽ bùng
nổ một cao trào mới do sự kết hợp giữa IT với công nghệ cao khác, đặc biệt là
công nghệ sinh học. Sự tiến bộ và những bước đột phá của khoa học kỹ thuật đã
mở ra không gian rộng lớn mới cho sự phát triển của sức sản xuất.
Thứ hai, giáo dục được tăng cường và tố chất của người lao động được nâng
cao rõ rệt.
Thứ ba, những thành quả khoa học kỹ thuật nhanh chóng chuyển hố vào
sản xuất, kinh doanh giúp tăng năng suất lao động, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Theo thống kê, vào năm 1820, trước cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần
thứ nhất, tỷ lệ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm của thế giới rất thấp, năm
đầu cơng ngun đến năm 1000 chỉ có 0,01%; từ năm 1000 đến năm 1820 là
0,22%; từ năm 1820 đến năm 1898 đạt 2.21%. Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai,
tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới nâng cao rõ rệt, từ năm 1950-1973, GDP thế
giới mỗi năm tăng 4,91%, từ năm 1973-1998 tăng 3,01%. Những năm 90 của
thế kỷ XX, nước Mỹ với sự thúc đẩy của cách mạng đã có được 10 năm phồn
vinh liên tục, trong khoảng thời gian từ năm 1996-2000 mức tăng trưởng GDP
bình quân hàng năm đạt trên 4%. Tiến bộ khoa học kỹ thuật thúc đẩy nâng cao
năng suất lao động. Từ năm 1995-2001 nâng suất lao động của các ngành phi
nông nghiệp ở Mỹ tăng trưởng bình quân hàng năm là 2,6%, gấp gần hai lần so
với khoảng thời gian từ 1973-1995 (1,39%), đây chính là kết quả áp dụng rộng
rãi cơng nghệ thơng tin.
Đứng trước sự phát triển nhanh chóng và tác động của Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, giai cấp cơng nhân Việt Nam có những thuận lợi đan xen với
khó khăn cơ bản:
Một là, về thuận lợi, giai cấp cơng nhân Việt Nam có số lượng đang tăng
lên.
11
0
0
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, hiện nay, tổng số công nhân nước ta
chiếm tỷ lệ khoảng 13% số dân và 24% lực lượng lao động xã hội, bao gồm số
công nhân làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong
nước; đang làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài; số lao động giản đơn trong
các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể. Dự báo đến năm 2020, giai cấp cơng
nhân có khoảng 20,5 triệu người. Cơng nhân trong doanh nghiệp ngồi nhà nước
và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi phát triển nhanh; ngược lại, công
nhân trong doanh nghiệp nhà nước ngày càng giảm về số lượng.
Trình độ học vấn và trình độ chun mơn, nghề nghiệp, chính trị của giai
cấp cơng nhân ngày càng được cải thiện. Số cơng nhân có tri thức, nắm vững
khoa học - công nghệ tiên tiến tăng lên. Công nhân trong các khu công nghiệp,
các doanh nghiệp khu vực ngồi nhà nước và có vốn đầu tư nước
ngồi được tiếp xúc với máy móc, thiết bị tiên tiến, làm việc với các chuyên
gia nước ngoài nên được nâng cao tay nghề, kỹ năng lao động, rèn luyện tác
phong công nghiệp, phương pháp làm việc tiên tiến. Lớp công nhân trẻ được đào
tạo nghề theo chuẩn nghề nghiệp ngay từ đầu, có trình độ học vấn, văn hóa,
được rèn luyện trong thực tiễn sản xuất hiện đại, sẽ là lực lượng lao động chủ
đạo, có tác động tích cực đến sản xuất cơng nghiệp, giá trị sản phẩm công
nghiệp, gia tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong tương lai.
Hai là, về khó khăn, trước yêu cầu của sự phát triển, giai cấp công nhân
nước ta còn nhiều hạn chế, bất cập. “Sự phát triển của giai cấp công nhân chưa
đáp ứng được yêu cầu về số lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ
năng nghề nghiệp của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh
tế quốc tế; thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công
nhân lành nghề; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế;
đa phần công nhân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống”.
Chúng ta đang ở trong giai đoạn cơ cấu “dân số vàng”. Tuy nhiên, quá trình
chuyển đổi cơ cấu kinh tế lại chưa tương thích với quá trình chuyển dịch cơ cấu
lao động. Để hướng đến một nền sản xuất công nghiệp hiện đại, số lượng giai
12
0
0
cấp công nhân lao động công nghiệp chỉ chiếm khoảng 24% lực lượng lao động
xã hội là tỷ lệ còn thấp.
Mặt bằng chung trình độ văn hóa và tay nghề của công nhân nước ta dù
được cải thiện, song vẫn cịn thấp, đã ảnh hưởng khơng thuận đến việc tiếp thu
khoa học - kỹ thuật, đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm.
1.2.2 Nền kinh tế đang có xu hướng chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh
tế tri thức
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất góp phần thúc đẩy chủ
nghĩa tư bản chuyển đổi từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp; cuộc
cách mạng công nghệ thông tin (IT) hiện nay đang thúc đẩy nền kinh tư bản chủ
nghĩa chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức.
Trong kinh tế tri thức, tri thức và kỹ thuật có vai trị cao hơn các yếu tố như
nguồn tài nguyên tự nhiên và vốn, trở thành yếu tố sản xuất quan trọng nhất.
Vận hành của kinh tế tri thức chủ yếu khơng cịn do người lao động cơ bắp
thao tác máy móc, mà chủ yếu do những người lao động trí óc trong các ngành
thiết kế, nghiên cứu phát triển cũng như truyền bá tri thức thúc đẩy. Nâng cao
tầm quan trọng của tri thức, biểu hiện ở chỗ tăng trưởng của tư bản vơ hình
(giáo dục, nghiên cứu, khai thác...) cao hơn tư bản hữu hình (xây dựng, máy
móc), hàm lượng tri thức tăng lên trong sản phẩm và dịch vụ.
Đối tượng sản xuất và tiêu thụ của kinh tế công nghiệp là kết tinh "nguồn tài
nguyên", còn đối tượng sản xuất và tiêu thụ của kinh tế tri thức là "kết tinh trí
thức".
Sáng tạo kỹ thuật và sáng tạo cơ chế đóng vai trị then chốt trong phát triển
kinh tế tri thức. Sáng tạo kỹ thuật là động lực bên trong thúc đẩy phát triển kinh
tế tri thức, có quan hệ mật thiết với chính sách khoa học kỹ thuật và sáng tạo cơ
chế. Sáng tạo cơ chế là vô cùng quan trọng đối với sự ra đời và phát triển của
kinh tế tri thức. Cơ chế hợp nhất ba loại hình xí nghiệp đầu tư rủi ro, doanh
nghiệp nhỏ cơng nghệ cao và thị trường cổ phiếu là động lực trực tiếp của nền
kinh tế mới.
13
0
0
Cùng với sự chuyển đổi loại hình kinh tế, kết cấu ngành nghề của chủ nghĩa
tư bản cũng được điều chỉnh và nâng cấp hơn, chuyển sang dịch vụ hoá và cơng
nghệ cao hố. Điều này thể hiện ở chỗ: trong ba ngành nghề lớn, vị trí của nơng
nghiệp hạ thấp, vị trí của dịch vụ, đặc biệt là ngành dịch vụ có liên quan đến
cơng nghệ mới được tăng lên.
Kinh tế tri thức là giai đoạn phát triển cao của lực lượng sản xuất, cao hơn so
với kinh tế công nghiệp và kinh tế nông nghiệp. Trong nền kinh tế tri thức, tri
thức đóng vai trị quyết định hàng đầu đối với phát triển kinh tế - xã hội.
Có thể khái quát đặc điểm của kinh tế tri thức ở những mặt sau:
Thứ nhất, tri thức là lực lượng sản xuất trực tiếp. Tri thức là nguồn lực vơ
hình to lớn, quan trọng nhất trong đầu tư phát triển, nền kinh tế dựa chủ yếu vào
tri thức. Nền kinh tế tri thức lấy tri thức là nguồn lực có vị trí quyết định nhất
của sản xuất, là động lực quan trọng nhất cho sự phát triển.
Thứ hai, nền kinh tế dựa ngày càng nhiều vào các thành tựu của khoa học công nghệ. Nếu trong nền kinh tế công nghiệp, sức cạnh tranh chủ yếu dựa vào
tối ưu hóa và hồn thiện cơng nghệ hiện có, thì trong nền kinh tế tri thức lại dựa
chủ yếu vào việc nghiên cứu, sáng tạo ra công nghệ mới, sản phẩm mới. Trong
nền kinh tế tri thức, cơ cấu sản xuất dựa ngày càng nhiều vào việc ứng dụng các
thành tựu của khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ chất lượng cao. Các
quyết sách kinh tế được tri thức hóa.
Thứ ba, cơ cấu lao động được chuyển dịch theo hướng ngày càng coi trọng
lao động trí tuệ. Trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu lao động chuyển dịch theo
hướng giảm số lao động trực tiếp làm ra sản phẩm, tăng số lao động trí tuệ. Lao
động trí tuệ chiếm tỷ trọng ngày càng cao. Nguồn nhân lực nhanh chóng được tri
thức hóa, sự sáng tạo, đổi mới, học tập trở thành nhu cầu thường xuyên đối với
mọi người. Học suốt đời, xã hội học tập là nền tảng của kinh tế tri thức.
Thứ tư, quyền sở hữu trí tuệ ngày càng trở nên quan trọng. Quyền sở hữu trí
tuệ là sự bảo đảm pháp lý cho tri thức và sự đổi mới sáng tạo sẽ tiếp tục được
tạo ra, duy trì và phát triển. Trong nền kinh tế tri thức, nguồn lực trí tuệ và
14
0
0
năng lực đổi mới là hai nhân tố then chốt để đánh giá khả năng cạnh tranh,
tiềm năng phát triển và sự thịnh vượng của một quốc gia. Các tài sản trí tuệ và
quyền sở hữu trí tuệ ngày càng trở nên quan trọng. Việc bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ được xem là một nguyên tắc cơ bản trong sự vận động và phát triển của nền
kinh tế tri thức.
Thứ năm, nền kinh tế tri thức là nền kinh tế tồn cầu. Nền kinh tế tri thức chỉ
được hình thành và phát triển khi lực lượng sản xuất xã hội đã phát triển ở trình
độ cao, phân cơng lao động mang tính quốc tế và theo đó là hệ thống sản xuất
mang tính kết nối giữa các doanh nghiệp các quốc gia trong một chuỗi giá trị sản
phẩm. Bởi vậy, nó mang tính tồn cầu hóa. Trong nền kinh tế tri thức, sự sản
sinh, truyền bá và sử dụng tri thức khơng cịn nằm trong phạm vi biên giới một
quốc gia. Nền kinh tế tri thức còn được gọi là nền kinh tế tồn cầu hóa nối mạng,
hay là nền kinh tế toàn cầu dựa vào tri thức.
Ngoài các đặc điểm trên, nền kinh tế tri thức còn là một nền kinh tế hướng
đến sự phát triển bền vững, thân thiện với môi trường; nền kinh tế làm thay đổi
cơ cấu xã hội và thang giá trị xã hội, làm xuất hiện các cộng đồng dân cư kiểu
mới, các làng khoa học, các công viên khoa học, vườn ươm khoa học...
Để phát triển kinh tế tri thức cần những tiền đề sau:
Một là, thể chế kinh tế và môi trường xã hội thuận lợi cho sáng tạo và sử
dụng tri thức. Thể chế kinh tế và môi trường xã hội thuận lợi, minh bạch cho
phép dòng chảy tự do của tri thức, đổi mới sáng
tạo công nghệ, hỗ trợ cơng nghệ - thơng tin và truyền thơng, khuyến khích
các chủ doanh nghiệp sáng tạo và sử dụng tri thức là trọng tâm của kinh tế tri
thức.
Hai là, hệ thống giáo dục - đào tạo có chất lượng. Hệ thống giáo dục - đào
tạo là điều kiện quan trọng để người dân có cơ hội được học tập, nghiên cứu
nâng cao năng lực sáng tạo, chia sẻ và sử dụng tri thức. Đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao. Nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hóa; sự sáng tạo, đổi
15
0
0
mới, học tập trở thành yêu cầu thường xuyên đối với mọi người và phát
triển toàn diện con người trở thành nhiệm vụ trung tâm của xã hội.
Ba là, hạ tầng cơ sở thông tin (ICT) hiện đại. Hạ tầng cơ sở thông tin là điều
kiện cần thiết để tăng cường sự trao đổi phổ biến và xử lý kiến thức. Công nghệ
thông tin được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực và thiết lập được các mạng
thông tin đa phương tiện. Thông tin trở thành tài nguyên quan trọng của nền
kinh tế tri thức.
Bốn là, hệ thống sáng tạo có hiệu quả. Mạng lưới các học viện, trường đại
học, trung tâm nghiên cứu, tổ chức chuyên gia, cố vấn, doanh nghiệp, các nhóm
cộng đồng là cần thiết để thu nhận được kho tri thức tồn cầu ln khơng ngừng
tăng, truyền bá và thích ứng chúng cho các nhu cầu của đất nước và sáng tạo ra
các tri thức mới cần thiết.
Năm là, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Với đặc trưng của nền kinh tế tri
thức, kết cấu hạ tầng cứng là quan trọng và cần thiết. Với tư cách là thành tố vật
chất của lực lượng sản xuất, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ln giữ
vai trị đặc biệt. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội xác lập sự đồng bộ trong hệ
thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nhằm tạo ra tiền đề cho sự hình thành các
trụ cột của nền kinh tế tri thức, tạo ra môi trường cho sự phát triển của hệ thống
sáng tạo từ đó mà thúc đẩy sự lan tỏa và sản sinh tri thức mới thay vì chỉ là ứng
dụng tri thức.
Kinh tế tri thức đã và đang trở thành xu hướng phát triển chung của kinh tế
thế giới, được nhiều quốc gia lựa chọn làm chiến lược phát triển, điển hình như:
Mỹ, Canada, Tây Âu, Nhật Bản, Singapore, Úc - nơi các yếu tố của nền kinh tế
tri thức ở mức khá cao, trong đó các ngành cơng nghiệp dựa trên tri thức đã
đóng góp trên 40% GDP; và đang hình thành tại một số quốc gia đang phát triển
như: Trung Quốc, Ấn Độ, Malaysia, Thái Lan…
1.3 Nét mới trong sự điều chỉnh quan hệ sản xuất và quản lý nhà nước
1.3.1 Sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất và quan hệ giai cấp
Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại được thể hiện ở những điểm sau:
16
0
0
Thứ nhất, quan hệ sở hữu cũng có những thay đổi, biểu hiện nổi bật là sự
phân tán quyền nắm cổ phiếu tăng lên.
Những năm 90 của thế kỷ XX, số lượng người dân nắm cổ phiếu và giá trị
cổ phiếu ở Mỹ đều tăng khá nhanh. Năm 1989 là 28% dân số Mỹ có cổ phiếu,
năm 1999 tới 48,2%, năm 1995 những người có trong tay cổ phiếu trị giá thấp
(5.000 USD trở xuống) đang giảm dần, còn những người có trong tay cổ phiếu
trị giá 50.000 USD trở lên tăng gấp đôi so với năm 1989, lên đến 18,4 triệu
người. Phân tán hóa quyền khống chế cổ phiếu có lợi cho cải thiện quan hệ giữa
chủ xí nghiệp và công nhân. Nhưng trên thực tế, công nhân là cổ đông nhỏ,
không thể cùng với nhà tư bản phân chia quyền lực, nên phân tán hóa quyền
khống chế cổ phiếu cũng không thể làm thay đổi địa vị làm thuê của người lao
động.
Thứ hai, kết cấu giai cấp cũng đã có những biến đổi lớn, các giai cấp, tầng
lớp, đoàn thể xã hội và tập đoàn cùng tồn tại và tác động lẫn nhau. Nổi bật nhất
là sự xuất hiện của tầng lớp trung lưu (hay còn gọi là giai cấp trung sản), chiếm
khoảng 40 – 50% dân số. Trên thực tế, phần lớn trong số này có cổ phiếu hoặc
một phần vốn, rất nhiều trong số họ là trí thức hoặc nhân viên chun ngành, có
địa vị nghề nghiệp khá tốt, đã khơng cịn là giai cấp vơ sản theo quan niệm
truyền thống nữa.
Thứ ba, cùng với sự tăng trưởng của sản xuất và sự điều chỉnh về quan hệ
sản xuất, thu nhập bằng tiền lương của người lao động cũng có được mức tăng
trưởng khá lớn.
Số liệu thống kê của Cục Điều tra dân số Liên bang Mỹ cho thấy, từ năm
1986-1993, thu nhập thực tế của số cơng nhân thuộc các doanh nghiệp tư nhân
ln có xu thế giảm; nhưng từ năm 1993 đến năm 1999 thì lại tăng lên 7,4%;
năm 1999 tỷ lệ nghèo khó giảm đến mức thấp nhất kể từ năm 1979.
→ Tất cả những điều này cho thấy, mâu thuẫn giai cấp trong xã hội tư bản
chủ nghĩa vẫn tồn tại nhưng nhờ những điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản về quan
hệ sản xuất, mà bắt nguồn từ quan hệ sở hữu, nên đã phần nào xoa dịu được tính
17
0
0
gay gắt của mâu thuẫn này. Những điều chỉnh đó nói lên rằng chủ nghĩa tư bản
muốn tồn tại và phát triển cũng phải lo giải quyết các vấn đề xã hội, giải quyết
mối quan hệ giữa tư bản và lao động, song song với sự phát triển nhanh chóng
của lực lượng sản xuất và cuộc đấu tranh bền bỉ của giai cấp công nhân.
1.3.2 Thể chế quản lý kinh doanh trong nội bộ doanh nghiệp có những biến
đổi lớn
Trong điều kiện mới của cách mạng khoa học kỹ thuật và kinh tế tri thức, thể
chế quản lý kinh doanh trong nội bộ các doanh nghiệp đã thực hiện các bước
điều chỉnh và cải cách lớn.
Thứ nhất, doanh nghiệp cải cách cơ chế quản lý, thiết lập cơ cấu tổ chức
hàng ngang và mạng lưới. Phương hướng cải cách là xoá bỏ hệ thống kiểu kim
tự tháp truyền thống như tập trung quá lớn quyền lực, đa tầng thứ và theo chiều
dọc, thay thế bằng hệ thống kiểu mạng lưới phân quyền, ít tầng thứ và theo
chiều ngang; nhằm giảm bớt khâu trung gian, thông tin thuận lợi, đơn giản trình
tự quyết sách; phát huy đầy đủ tính chủ động và trách nhiệm của tồn thể cơng
nhân, nhằm nâng cao hiệu quả công tác.
Thứ hai, dùng công nghệ cao cải cách cơ chế quản lý sản xuất. Để thích ứng
với những thay đổi từ thể chế sản xuất theo “đơn đặt hàng”, doanh nghiệp thiết
lập hệ thống sản xuất linh hoạt, hệ thống sản xuất bằng máy tính, chế độ cung
cấp thích hợp và cở chế phát triển theo nhu cầu (tức khâu sản xuất càng gần gũi
với khách hàng hơn).
Thứ ba, thực hiện cải cách quản lý lao động, lấy con ngưịi làm gốc, u cầu
đối với cơng nhân chủ yếu không phải là điều kiện về thể lực mà là phải có kỹ
năng và tri thức cao hơn, để họ phát huy tính chủ động và tính sáng tạo, từ đó
nâng cao năng suất lao động và tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp.
Thứ tư, thay đổi hình thức tổ chức doanh nghiệp, xuất hiện xu thế hai loại
hình lớn hố và nhỏ hố cùng hỗ trợ nhau tồn tại. Các doanh nghiệp lớn đã
không ngừng mở rộng ưu thế về quy mô, tăng cường sức mạnh thị trường của
18
0
0
công ty. Đồng thời, các doanh nghiệp nhỏ linh hoạt hơn, có tinh thần sáng tạo
hơn cũng được phát triển mạnh mẽ, làm cho kinh tế tư bản chủ nghĩa có sức
sống và hiệu quả cao.
1.3.3 Điều tiết vĩ mơ của nhà nước ngày càng được tăng cường
Dưới những tác động tích cực của cuộc cách mạng Khoa Học – Kỹ Thuật
năm 1940 cho đến nay, nền sản xuất Tư Bản Chủ Nghĩa đã có những bước nhảy
vọt mạnh mẽ. Suốt những năm tháng trở mình từ một nền kinh tế lạc hậu quy
mô sản xuất không ngừng được mở rộng, nguồn vốn đầu tư tăng cao một cách rõ
rệt. Con người càng ngày càng bị loại ra khỏi các quá trình sản xuất trực tiếp
theo nghĩa của sản xuất công nghiệp cổ điển và biến họ từ chỗ là người thực
hiện giản đơn các thao tác máy móc thành chủ thể của nền sản xuất, với chức
năng chủ yếu và quan trọng nhất là sáng tạo. Ngày nay những tiến bộ về mặt
công nghệ đã tạo phạm vi mới cho sự cạnh tranh. Trong các ngành điện tử - viễn
thông các nước tư bản chú trọng phát triển các dịch vụ viễn thông đường dài,
mảng thiết bị công nghệ số, điện thoại di động,... Nhà nước cũng cần kịp thời
điều chỉnh chiến lược tổng thể phát triển kinh tế (Các quốc gia kịp thời điều
chỉnh chiến lược tổng thể phát triển kinh tế, nhằm nâng cao sức cạnh tranh tổng
thể của quốc gia trong nền kinh tế toàn cầu), nhằm nâng cao sức cạnh tranh tổng
thể của quốc gia.
Đơn cử như trường hợp của Mỹ trong 20 năm gần đây, Chính phủ Mỹ tập
trung khai thác phát triển ngành công nghệ cao mới như công nghệ tin học, lấy
phát triển ngành công nghệ cao mới để thực hiện phục hưng kinh tế Mỹ. Những
năm 90 của thế kỷ XX việc thiết lập thị trường chung châu Âu và sự ra đời của
đồng tiền chung châu Âu, bất kể đối với châu Âu hay đối với cả thế giới, đều có
ý nghĩa khơng thể xem nhẹ.
Lựa chọn những chính sách phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước để có
những bước đi phù hợp nhằm khắc phục những hậu quả của thiên tai, dịch bệnh,
khung hoảng toàn cầu để vực dậy nền kinh tế sau giai đoạn suy thoái.
19
0
0
Đối với mỗi lĩnh vực quản lý, mỗi thời kỳ nhất định, chức năng của Nhà
nước lại có những thay đổi phù hợp. Tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh nhất
định, Nhà nước có thể thực hiện chức năng này nhưng không thực hiện chức
năng khác mà trước đây đã từng được sử dụng, thậm chí thay đổi thứ tự ưu tiên
thực hiện các chức năng để hoạch định và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ để đạt
được mục tiêu kinh tế – xã hội đã đề ra. Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế
khác nhau của từng thời kỳ, vận dụng linh hoạt chính sách tài chính và chính
sách tiền tệ (Thay đổi các chính sách về thuế, phúc lợi xã hội để đảm bảo tính ổn
định của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa), kịp thời điều chỉnh mâu thuẫn cung cầu
trong xã hội và mâu thuẫn giữa các tầng lớp xã hội khác nhau. Cải cách hệ thống
tiền tệ, chế độ tiền lương của công nhân làm giảm tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội,
cải cách các chính sách liên quan đến phúc lợi xã hội làm giảm gánh nặng về
kinh tế cho Nhà nước.
1.3.4 Điều tiết và phối hợp quốc tế được tăng cường
Trong q trình quốc tế hóa sản xuất lưu thơng được thúc đẩy, sự phân công
trong việc hợp tác quốc tế ngày càng mở rộng làm nảy sinh thêm những mâu
thuẫn mới mang tính quốc tế. Ngồi ra, việc khơi phục nền kinh tế sau những
biến động lớn như chiến tranh, khủng hoảng, thiên tai, dịch bệnh,... cũng cần sự
hợp sức của tất cả các nước. Việc giải quyết mâu thuẫn giữa các quốc gia
thường dựa trên phương thức thỏa hiệp, hạn chế những cuộc đối đầu gay gắt làm
ảnh hưởng tới cả thế giới. Trong những năm gần đây, sự liên kết hợp tác quốc tế
phát triển rõ rệt, hiệu quả cũng khơng ngừng tăng cao.
Nổi bật chính là sự phối hợp giữa Mỹ và các tổ chức toàn cầu liên quan để
giải quyết hậu quả của sự kiện “11/09/2001” - một cuộc tấn cơng chưa từng có
trong lịch sử khủng bố, xét về quy mơ của nó. “Đây là cuộc tấn công quy mô lớn
nhất của một lực lượng nước ngoài trên đất Mỹ", học giả Brian Michael Jenkins
của tổ chức nghiên cứu nói về vụ khủng bố ngày 11-9-2001. Thời kỳ khó khăn
của đất nước cũng chính là khi ông G.Bu-sơ nhậm chức Tổng thống, một vài
người đặt vấn đề là "thế giới ở dạng đơn cực", nghĩa là Mỹ sẽ tiếp tục nổi trội
20
0
0
cấp công nhân lao động công nghiệp chỉ chiếm khoảng 24% lực lượng lao động
xã hội là tỷ lệ còn thấp.
Mặt bằng chung trình độ văn hóa và tay nghề của công nhân nước ta dù
được cải thiện, song vẫn cịn thấp, đã ảnh hưởng khơng thuận đến việc tiếp thu
khoa học - kỹ thuật, đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm.
1.2.2 Nền kinh tế đang có xu hướng chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh
tế tri thức
0
0
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất góp phần thúc đẩy chủ
nghĩa tư bản chuyển đổi từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp; cuộc
cách mạng công nghệ thông tin (IT) hiện nay đang thúc đẩy nền kinh tư bản chủ
nghĩa chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức.
Trong kinh tế tri thức, tri thức và kỹ thuật có vai trị cao hơn các yếu tố như
nguồn tài nguyên tự nhiên và vốn, trở thành yếu tố sản xuất quan trọng nhất.
Vận hành của kinh tế tri thức chủ yếu không cịn do người lao động cơ bắp
thao tác máy móc, mà chủ yếu do những người lao động trí óc trong các ngành
thiết kế, nghiên cứu phát triển cũng như truyền bá tri thức thúc đẩy. Nâng cao
tầm quan trọng của tri thức, biểu hiện ở chỗ tăng trưởng của tư bản vơ hình
(giáo dục, nghiên cứu, khai thác...) cao hơn tư bản hữu hình (xây dựng, máy
móc), hàm lượng tri thức tăng lên trong sản phẩm và dịch vụ.
Đối tượng sản xuất và tiêu thụ của kinh tế công nghiệp là kết tinh "nguồn tài
nguyên", còn đối tượng sản xuất và tiêu thụ của kinh tế tri thức là "kết tinh trí
thức".
Sáng tạo kỹ thuật và sáng tạo cơ chế đóng vai trị then chốt trong phát triển
kinh tế tri thức. Sáng tạo kỹ thuật là động lực bên trong thúc đẩy phát triển kinh
tế tri thức, có quan hệ mật thiết với chính sách khoa học kỹ thuật và sáng tạo cơ
chế. Sáng tạo cơ chế là vô cùng quan trọng đối với sự ra đời và phát triển của
kinh tế tri thức. Cơ chế hợp nhất ba loại hình xí nghiệp đầu tư rủi ro, doanh
nghiệp nhỏ công nghệ cao và thị trường cổ phiếu là động lực trực tiếp của nền
kinh tế mới.
13
0
0
Cùng với sự chuyển đổi loại hình kinh tế, kết cấu ngành nghề của chủ nghĩa
tư bản cũng được điều chỉnh và nâng cấp hơn, chuyển sang dịch vụ hoá và cơng
nghệ cao hố. Điều này thể hiện ở chỗ: trong ba ngành nghề lớn, vị trí của nơng
nghiệp hạ thấp, vị trí của dịch vụ, đặc biệt là ngành dịch vụ có liên quan đến
cơng nghệ mới được tăng lên.
Kinh tế tri thức là giai đoạn phát triển cao của lực lượng sản xuất, cao hơn so
với kinh tế công nghiệp và kinh tế nông nghiệp. Trong nền kinh tế tri thức, tri
thức đóng vai trị quyết định hàng đầu đối với phát triển kinh tế - xã hội.
Có thể khái quát đặc điểm của kinh tế tri thức ở những mặt sau:
Thứ nhất, tri thức là lực lượng sản xuất trực tiếp. Tri thức là nguồn lực vơ
hình to lớn, quan trọng nhất trong đầu tư phát triển, nền kinh tế dựa chủ yếu vào
tri thức. Nền kinh tế tri thức lấy tri thức là nguồn lực có vị trí quyết định nhất
của sản xuất, là động lực quan trọng nhất cho sự phát triển.
Thứ hai, nền kinh tế dựa ngày càng nhiều vào các thành tựu của khoa học công nghệ. Nếu trong nền kinh tế công nghiệp, sức cạnh tranh chủ yếu dựa vào
tối ưu hóa và hồn thiện cơng nghệ hiện có, thì trong nền kinh tế tri thức lại dựa
0
0
chủ yếu vào việc nghiên cứu, sáng
tạo
ra công nghệ mới, sản phẩm mới. Trong
nền kinh tế tri thức, cơ cấu sản xuất dựa ngày càng nhiều vào việc ứng dụng các
thành tựu của khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ chất lượng cao. Các
quyết sách kinh tế được tri thức hóa.
Thứ ba, cơ cấu lao động được chuyển dịch theo hướng ngày càng coi trọng
lao động trí tuệ. Trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu lao động chuyển dịch theo
hướng giảm số lao động trực tiếp làm ra sản phẩm, tăng số lao động trí tuệ. Lao
động trí tuệ chiếm tỷ trọng ngày càng cao. Nguồn nhân lực nhanh chóng được tri
thức hóa, sự sáng tạo, đổi mới, học tập trở thành nhu cầu thường xuyên đối với
mọi người. Học suốt đời, xã hội học tập là nền tảng của kinh tế tri thức.
Thứ tư, quyền sở hữu trí tuệ ngày càng trở nên quan trọng. Quyền sở hữu trí
tuệ là sự bảo đảm pháp lý cho tri thức và sự đổi mới sáng tạo sẽ tiếp tục được
tạo ra, duy trì và phát triển. Trong nền kinh tế tri thức, nguồn lực trí tuệ và
14
0
0
năng lực đổi mới là hai nhân tố then chốt để đánh giá khả năng cạnh tranh,
tiềm năng phát triển và sự thịnh vượng của một quốc gia. Các tài sản trí tuệ và
quyền sở hữu trí tuệ ngày càng trở nên quan trọng. Việc bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ được xem là một nguyên tắc cơ bản trong sự vận động và phát triển của nền
kinh tế tri thức.
Thứ năm, nền kinh tế tri thức là nền kinh tế tồn cầu. Nền kinh tế tri thức chỉ
được hình thành và phát triển khi lực lượng sản xuất xã hội đã phát triển ở trình
độ cao, phân cơng lao động mang tính quốc tế và theo đó là hệ thống sản xuất
mang tính kết nối giữa các doanh nghiệp các quốc gia trong một chuỗi giá trị sản
phẩm. Bởi vậy, nó mang tính tồn cầu hóa. Trong nền kinh tế tri thức, sự sản
sinh, truyền bá và sử dụng tri thức khơng cịn nằm trong phạm vi biên giới một
quốc gia. Nền kinh tế tri thức còn được gọi là nền kinh tế tồn cầu hóa nối mạng,
hay là nền kinh tế toàn cầu dựa vào tri thức.
Ngoài các đặc điểm trên, nền kinh tế tri thức còn là một nền kinh tế hướng
đến sự phát triển bền vững, thân thiện với môi trường; nền kinh tế làm thay đổi
cơ cấu xã hội và thang giá trị xã hội, làm xuất hiện các cộng đồng dân cư kiểu
mới, các làng khoa học, các công viên khoa học, vườn ươm khoa học...
Để phát triển kinh tế tri thức cần những tiền đề sau:
Một là, thể chế kinh tế và môi trường xã hội thuận lợi cho sáng tạo và sử
dụng tri thức. Thể chế kinh tế và môi trường xã hội thuận lợi, minh bạch cho
phép dòng chảy tự do của tri thức, đổi mới sáng
tạo công nghệ, hỗ trợ cơng nghệ - thơng tin và truyền thơng, khuyến khích
các chủ doanh nghiệp sáng tạo và sử dụng tri thức là trọng tâm của kinh tế tri
thức.
Hai là, hệ thống giáo dục - đào tạo có chất lượng. Hệ thống giáo dục - đào
0 dân có cơ hội được học tập, nghiên cứu
tạo là điều kiện quan trọng để0 người
nâng cao năng lực sáng tạo, chia sẻ và sử dụng tri thức. Đào tạo nguồn nhân lực