Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Phân tích và so sánh học thuyết thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản và học thuyết về sự kiện bất khả kháng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.29 KB, 16 trang )

1


Danh sách thành viên Nhóm 2
1. Hồng Thị Lan Anh - Nhóm trưởng
2. Đào Đức An
3. Nguyễn Hữu Chính
4. Phạm Thị Thu Giang
5. Lê Thị Hương
6. Bùi Thu Hậu
7. Vũ Nhật Minh
8. Dương Thị Hà Trang
9. Trương Thị Trang
10. Lý Lê Thị Quỳnh Trang
11. Nguyễn Phú Trọng

2


MỤC LỤC

Đặt vấn đề ..................................................................................................................4
I. Lý luận về học thuyết thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
(hardship) và học thuyết về sự kiện bất khả kháng ( force majeure) ............. 4
1. Học thuyết về sự kiện bất khả kháng (force majeure) ............................ 4
2. Học thuyết thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản (hardship)
.......................................................................................................................6
3. Một số lý luận của các nước về hai học thuyết ........................................... 8
II. So sánh hai học thuyết thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
(hardship) và học thuyết về sự kiện bất khả kháng ( force majeure) ........... 10
1. Những điểm giống nhau ............................................................................ 10


2. Sự khác nhau ..............................................................................................11
3. Một số tranh chấp cụ thể áp dụng hai học thuyết thực hiện hợp đồng khi
hoàn cảnh thay đổi cơ bản (Hardship) và sự kiện bất khả kháng (force
majeure) ............................................................................................................ 12
III. Một số vấn đề đặt ra trong Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2015 .............13
Kết Luận ..................................................................................................................14
Tài liệu tham khảo ..................................................................................................15

3


Đặt vấn đề
Nguyên tắc Pacta sunt servanda - hiệu lực bất biến của hợp đồng là nguyên tắc
cơ bản nền tảng của pháp luật hợp đồng. Tuy nhiên, với nhiều sự việc hồn cảnh có
thể thiên biến, vạn hóa trong thế giới khách quan ảnh hưởng đến quan hệ hợp đồng
khiến cho việc thực hiện hợp đồng bị cản trở hay thậm chí khơng thể thực hiện được.
Chính vì vậy, pháp luật hợp đồng đã thừa nhận hai ngoại lệ cơ bản của nguyên tắc
trên là sự kiện bất khả kháng và sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản.
Trong pháp luật dân sự Việt Nam, sự kiện bất khả kháng được các nhà lập pháp
ghi nhận từ rất sớm ngay trong BLDS năm 1995 (Điều 308). Đối với trường hợp hoàn
cảnh thay đổi cơ bản phải trải qua 2 lần lập pháp (BLDS 1995, BLDS 2005) và đến
năm 2015 mới chính thức thức được BLDS năm 2015 pháp điển hóa.
Như vậy, theo xu hướng phát triển chung pháp luật thế giới và Việt Nam đều
thừa nhận hai ngoại lệ của nguyên tắc hiệu lực bất biến của hợp đồng qua hai chế định
là sự kiện bất khả kháng và sự thay đổi của hoàn cảnh. Đây là hai chế định hoàn toàn
khác nhau nên các điều kiện áp dụng và hậu quả pháp lý của việc áp dụng hai chế
định này cũng cần được phân biệt.
I. Lý luận về học thuyết thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản

(hardship) và học thuyết về sự kiện bất khả kháng ( force majeure)

1. Học thuyết về sự kiện bất khả kháng (force majeure)
1.1. Điều kiện pháp lý áp dụng
Khái niệm force majeure có nguồn gốc từ BLDS Napoleon được xây dựng trên
cơ sở tư tưởng chủ đạo theo đó, đối với điều không thể, không ai bị buộc phải thực
hiện. Theo học thuyết pháp lý của Pháp, force majeure, còn gọi là sự kiện bất khả
kháng, được ghi nhận một khi có đủ 3 yếu tố sau đây: tính khơng thể khắc phục, tính
khơng thể dự kiến trước và tính khách quan. Trong 3 tính chất này thì tính chất đầu
tiên mang ý nghĩa quyết định: force majeure khiến nguy cơ chấm dứt hợp đồng là
không thể tránh khỏi.
Điều 156 BLDS năm 2015 định nghĩa sự kiện bất khả kháng là “sự kiện xảy ra
một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc
4


dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”. Để coi một sự việc là
một trường hợp bất khả kháng cần có 3 điều kiện:
Thứ nhất, sự kiện bất khả kháng phải là sự kiện bất ngờ khách quan đối với các
bên trong quan hệ hợp đồng. Sự kiện đó xảy ra khơng bắt nguồn từ ý chí chủ quan
hoặc do lỗi của một hay các bên.
Thứ hai, sự kiện bất khả kháng phải không thể khắc phục mặc dù bên có nghĩa
vụ đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép. Không thể khắc phục
được hiểu rằng sự kiện đã xảy ra và hậu quả của sự kiện hay sự tác động của sự kiện
tới việc thực hiện hợp đồng là không thể khắc phục. Tức là sau khi bên vi phạm đã áp
dụng mọi biện pháp cần thiết nhưng vân khơng khắc phục được hậu quả thì mới đáp
ứng điều kiện này. Tuy nhiên, nếu như bên vi phạm không thực hiện các biện pháp
cần thiết để khắc phục hậu quả nhưng chứng minh được rằng dù có hành động vân
khơng thể khắc phục được hậu quả thì xem như đã thỏa mãn điều kiện này.
Thứ ba, đây phải là sự kiện “không thể lường trước được” tại thời điểm giao kết
hợp đồng nhưng xảy ra sau thời điểm này.
1.2. Hệ quả khi áp dụng học thuyết

Bên vi phạm nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm, đặc biệt là trách nhiệm bồi
thường thiệt hại. Các điều khoản phạt vi phạm hợp đồng cũng không thể được áp
dụng bởi lẽ sự hội tụ của các yếu tố cấu thành sự kiện bất khả kháng cũng ngầm định
rằng bên vi phạm khơng hề có lỗi.
Tuy nhiên, với vai trị là một cơ chế bổ trợ trong quan hệ hợp đồng, các quy
định về sự kiện bất khả kháng liên quan tới pháp luật về hợp đồng trong BLDS khơng
mang tính bắt buộc: Các bên có thể thỏa thuận bằng các điều khoản trong hợp đồng
rằng, bên vi phạm nghĩa vụ vân phải bồi thường ngay cả trong trường hợp xảy ra sự
kiện bất khả kháng, hoặc giới hạn một số sự kiện cụ thể sẽ được coi hoặc không được
coi là sự kiện bất khả kháng…
Cuối cùng, việc áp dụng quy định về sự kiện bất khả kháng tác động một cách
trực tiếp tới vấn đề về trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ và tác động một cách gián
tiếp tới sự tồn tại của hợp đồng trong một số trường hợp cụ thể. Và đó chính là sự
chấm dứt quan hệ hợp đồng giữa các bên. Khi các bên không thể thỏa thuận hoặc sự
5


kiện bất kháng xảy ra và tồn tại trong một thời gian khá dài làm cho việc thực hiện
hợp đồng khơng cịn ý nghĩa đối với một hoặc cả hai bên.
1.3. Ý nghĩa của học thuyết
Chế định bất khả kháng đảm bảo sự công bằng và bảo vệ quyền lợi cho bên vi
phạm nghĩa vụ do yếu tố khách quan, khơng xuất phát từ mong muốn và ý chí chủ
quan của bên vi phạm nghĩa vụ.
2. Học thuyết thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản (hardship)
Hardship ra đời trên cơ sở hai nguyên tắc hiệu lực bất biến của hợp đồng và
nguyên tắc thiện chí. Hardship là khái niệm được xây dựng để áp dụng trong các
trường hợp có những thay đổi hồn cảnh khiến cho việc thực hiện hợp đồng không
phải là không thể thực hiện được như trong trường hợp force majeure, nhưng trở nên
quá đắt đỏ đối với một bên.
Dưới góc độ của bộ luật dân sự Pháp, hoàn cảnh thay đổi cơ bản (imprévision)

được định nghĩa là một hồn cảnh khơng thể lường trước được tại thời điểm giao kết
hợp đồng khiến cho việc thực hiện nghĩa vụ trở nên quá bất lợi cho một bên mà bên
đó khơng chấp nhận rủi ro này. Tương tư như vậy, pháp luật Anh cũng có một chế
định khá tương đồng với hồn cảnh thay đổi cơ bản, đó là học thuyết frustration. Dù
vậy, khác với hardship, frustration khơng cho phép Tịa án can thiệp vào việc sửa đổi
hợp đồng.
2.1. Điều kiện áp dụng chế định hardship
Cũng như force majeure, hardship cần có 3 điều kiện: thứ nhất, sự thay đổi
hoàn cảnh phải hoàn toàn không tiên liệu được; thứ hai, sự thay đổi phải ở ngồi tầm
kiểm sốt của các bên; thứ ba, sự thay đổi phải mang tính cơ bản, nghĩa là ảnh hưởng
trực tiếp đến mục tiêu mà một bên hoặc các bên theo đuổi khi giao kết hợp đồng.
Trước năm 2015, sự kiện bất khả kháng là trường hợp ngoại lệ duy nhất của
nguyên tắc hiệu lực bất biến của hợp đồng. Như vậy, chỉ cần một bên chứng minh
được rằng có sự kiện khách quan đó đã làm cho hợp đồng trở nên đặc biệt khó khăn,
nhưng chưa đến mức khơng thể thực hiện được trên thực tế thì pháp luật hợp đồng
vân buộc họ phải chịu ràng buộc vào quan hệ bất biến của hợp đồng theo như nguyên
tắc. Việc quy định như vậy trở nên quá cứng nhắc, không đáp ứng được điều kiện
thay đổi thực tiễn. Trước sự chuyển biến của kinh tế, xã hội, BLDS năm 2015 đã
6


chính thức ghi nhận tại Điều 420 về hồn cảnh thay đổi cơ bản là ngoại lệ thứ hai của
nguyên tắc hiệu lực bất biến của hợp đồng khi thực hiện nghĩa vụ.
BLDS 2015 không đưa ra định nghĩa thế nào là hoàn cảnh thay đổi cơ bản,
nhưng theo quy định này, khi xuất hiện sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản so với hoàn
cảnh xác lập hợp đồng khiến cho việc tiếp tục thực hiện hợp đồng gây nên thiệt hại
nghiêm trọng thì bên có lợi ích ảnh hưởng có quyền yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp
đồng trong một thời hạn hợp lý. Đặc biệt, nếu như sự kiện bất khả kháng là một “sự
kiện” thì Điều 420 BLDS năm 2015 đề cập tới “hoàn cảnh”. Điều này có ý nghĩa rất
lớn, nhất là với các quan hệ hợp đồng kéo dài trong nhiều tháng, nhiều năm. Theo

điểm a khoản 1 Điều 420 BLDS năm 2015 thì hồn cảnh có thể thay đổi do bất cứ
ngun nhân khách quan nào, loại trừ trường hợp hoàn cảnh thay đổi do ý chí hay do
lỗi của một hoặc các bên giống như đối với sự kiện bất khả kháng. Khi kết hợp điểm a
và điểm b khoản 1 Điều 420, có thể nhận thấy rằng, BLDS năm 2015 khơng giới hạn
sự thay đổi hoàn cảnh chỉ đến từ sự kiện bất ngờ. Theo đó, nếu như chỉ sự kiện bất
ngờ mới có thể được coi là sự kiện bất khả kháng thì bất cứ sự kiện nào dân đến sự
thay đổi hồn cảnh mà sự thay đổi đó khơng được các bên dự liệu tại thời điểm giao
kết hợp đồng cũng thuộc phạm vi áp dụng của Điều 420. Tuy nhiên, trong nhiều
trường hợp, sự thay đổi hoàn cảnh đến từ những sự kiện thông thường do biến động
của thị trường và sự tăng giảm của thị trường không phải là sự kiện bất ngờ trong
quan hệ kinh tế. Đây chính là giả thiết tạo nên giá trị của chế định hoàn cảnh thay đổi,
khi viện dân Điều 420, các bên không cần phải quan tâm tới nguyên nhân dân đến
hoàn cảnh thay đổi mà chỉ cần chứng minh rằng sự thay đổi đó khơng thể được dự
báo trước tại thời điểm giao kết hợp đồng.
2.2. Hệ quả của việc áp dụng chế định
Cuối cùng, hoàn cảnh thay đổi khiến cho việc thực hiện hợp đồng sẽ gây thiệt
hại nghiêm trọng cho một bên và bên đó đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả
năng cho phép, phù hợp với tính chất của hợp đồng mà khơng thể ngăn chặn, giảm
thiểu mức độ ảnh hưởng đến lợi ích (điểm c,d,đ, khoản 1 Điều 420 BLDS năm 2015).
Đặc trưng cốt lõi của chế định thay đổi hoàn cảnh là việc, mặc dù hoàn cảnh đã
thay đổi khiến cho bên có nghĩa vụ nếu tiếp tục thực hiện nghĩa vụ sẽ chịu thiệt hại
nghiêm trọng, nhưng việc thực hiện hợp đồng vân có thể thực hiện được nhưng sẽ gây
thiệt hại cho bên thực hiện nghĩa vụ nếu hợp đồng không được sửa đổi. Điều 420 ra
đời là một cứu cánh cho bên có nguy cơ phải chịu thiệt hại nếu tiếp tục hợp đồng bằng
7


việc trao cho bên này quyền yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng. Mặc dù vậy, bên
không bị ảnh hưởng khơng có nghĩa vụ buộc phải đàm phán bởi quyền tự do hợp
đồng vân phải được đảm bảo. Hơn nữa, quy định này không thể được viện dân khi đã

có vi phạm nghĩa vụ nếu như các bên khơng có thỏa thuận khác. Ngược lại, sự kiện
bất khả kháng luôn được viện dân như một căn cứ miễn trách nhiệm do vi phạm nghĩa
vụ. Cuối cùng, khác với sự kiện bất khả kháng, việc áp dụng chế định thay đổi hồn
cảnh có tác động trực tiếp tới nội dung và sự tồn tại của quan hệ hợp đồng do hợp
đồng có thể bị sửa đổi hoặc chấm dứt.
Như vậy, sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh chỉ có thể được viện dân bởi một
bên để yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng chứ không thể được viện dân để hoãn
thực hiện nghĩa vụ và đặc biệt không phải là căn cứ để miễn trừ trách nhiệm do không
thực hiện đúng nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng.
2.3. Ý nghĩa của học thuyết
Hardship ra đời nhằm: (1) duy trì sự cân bằng về mặt kinh tế và đảm bảo sự
tiếp tục thực hiện hợp đồng; (2) phân chia rủi ro giữa các bên; (3) thiết lập một cơ chế
điều chỉnh hợp đồng phù hợp với lợi ích của các bên.
3. Một số lý luận của các nước về hai học thuyết

3.1. Luật quốc tế
Công ước Viên về mua bán hàng hóa quốc tế (viết tắt là CISG) không đề cập
đến sự kiện bất khả kháng nhưng đã đưa ra khái niệm “trở ngại” mà bên vi phạm gặp
phải, có thể được miễn trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ và Cơng ước có xu hướng chỉ
quan tâm đến trường hợp nghĩa vụ không thực hiện được, tương ứng với force
majeure (sự kiện bất khả kháng) trong luật pháp và impossibility (điều không thể
được) trong luật Anh, Công ước khơng nhắc đến hardship. Ngồi ra, cơng ước cũng
khơng đề cập đến vai trò của Tòa án, đặc biệt là vai trò của tòa án liên quan đến đề
nghị sửa đổi hợp đồng của các bên.
Việc thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản “hardship” được quy
định tại các Điều 6.2.1 – 6.2.3 Bộ Nguyên tắc UNIDROIT năm 2010 về hợp đồng
thương mại quốc tế. Điều 6.2.1 Bộ Nguyên tắc UNIDROIT năm 2010 thiết lập
nguyên tắc chung về việc áp dụng hardship: “Các bên có trách nhiệm thực hiện nghĩa
8



vụ của mình, ngay cả khi chi phí thực hiện nghĩa vụ đó tăng lên, với điều kiện tuân
thủ các quy định dưới đây về hardship”. Như vậy, quy định đầu tiên về hardship nhấn
mạnh tầm quan trọng của nguyên tắc pacta sunt servanda và không cho phép các bên
được mặc nhiên tạm dừng hoặc chấm dứt thực hiện nghĩa vụ mỗi khi hoàn cảnh thay
đổi. Điều 6.2.2 Bộ Nguyên tắc UNIDROIT năm 2010 đưa ra định nghĩa về hardship,
đó là các sự kiện làm thay đổi cơ bản sự cân bằng giữa các nghĩa vụ hợp đồng, hoặc
do chi phí thực hiện nghĩa vụ tăng lên, hoặc do giá trị của nghĩa vụ đối trừ giảm
xuống, và:
a. Các sự kiện này xảy ra hoặc bên bị thiệt hại chỉ biết đến sau khi giao kết hợp đồng;
b. Bên bị bất lợi đã khơng thể tính một cách hợp lý đến các sự kiện đó khi giao kết
hợp đồng;
c. Các sự kiện này nằm ngồi sự kiểm sốt của bên bị bất lợi;
d. Bên bị bất lợi không gánh chịu rủi ro về các sự kiện này.
3.2. Luật của Pháp
Pháp chính là người đi tiên phong trong việc xây dựng và hoàn thiện khái niệm
sự kiện bất khả kháng, từ cơ sở chung là quy định trong BLDS Napoleon. Trên
nguyên tắc, một khi sự kiện bất khả kháng được ghi nhận, thì bên có nghĩa vụ được
giải thốt và điều đó cũng có nghĩa là hợp đồng chấm dứt về sau. Và chỉ có sự kiện
bất khả kháng mới có tác dụng hỗn và chấm dứt hợp đồng mà khơng bên nào bị quy
lỗi.
Ngoài ra, trong thực tiễn xét xử và học thuyết pháp lý còn xây dựng lý thuyết
về điều không thể tiên liệu đặt cơ sở cho việc điều chỉnh hợp đồng. Tư tưởng chủ đạo
là một khi xảy ra những điều mà không ai tiên liệu được, khiến cho việc thực hiện hợp
đồng theo những điều kiện đã ghi nhận lúc giao kết là không thể tiên liệu được và
hardship là luật của Anh. Năm 2016, Bộ luật Dân sự Pháp trải qua một đợt sửa đổi
quan trọng liên quan đến luật nghĩa vụ (droit des obligations). Việc thực hiện hợp
đồng khi hoàn cảnh thay đổi đã được ghi nhận tại Điều 1195 Bộ luật Dân sự Pháp.
Theo đó, nếu sau khi giao kết hợp đồng, hồn cảnh thay đổi cơ bản đến mức làm cho
chi phí thực hiện nghĩa vụ đó tăng lên, mà bên bị bất lợi không thể gánh chịu rủi ro về

sự kiện này, họ có quyền yêu cầu tiến hành đàm phán lại hợp đồng. Trong quá trình
đàm phán lại hợp đồng, bên bị bất lợi vân phải thực hiện nghĩa vụ. Nếu các bên khơng
thỏa thuận được, các bên có quyền hủy bỏ hợp đồng, hoặc cùng yêu cầu Tòa án sửa
9


đổi hợp đồng. Nếu sau một thời hạn hợp lý mà hai bên khơng thỏa thuận được, Tịa án,
theo u cầu của một bên, có quyền sửa đổi hợp đồng hoặc chấm dứt hợp đồng vào
ngày và theo các điều kiện do Tòa án quyết định.
3.3. Luật của Anh
Nước Anh chủ trương để hardship cho các bên kết ước tự thỏa thuận và trở
thành các điều khoản trong hợp đồng. Các giải pháp ghi nhận việc giải thoát trách
nhiệm cho bên có nghĩa vụ được tổng hợp thành lý luận và trở thành nội dung của học
thuyết về chấm dứt hợp đồng (doctrine of frustration of contract). Học thuyết về
chấm dứt hợp đồng cho phép chấm dứt hợp đồng trong trường hợp không thể thực
hiện nghĩa vụ, do đối tượng của nghĩa vụ là vật đã bị tiêu hủy, do luật thay đổi khiến
cho mục tiêu của hợp đồng trở nên trái pháp luật, hoặc do sự xuất hiện của những
thay đổi hoàn cảnh hoàn toàn ngoài ý muốn. Học thuyết trên có nội dung rộng hơn
học thuyết force majeure. Trong án lệ Krell v. Henry, bị đơn thuê phòng của nguyên
đơn để chứng kiến lễ đăng quang của Vua Edward VII. Tuy nhiên, nhà vua bị bệnh
bất ngờ và lễ đăng quang bị dời lại vài ngày. Bị đơn từ chối trả tiền thuê phòng và
được Tòa án chấp nhận, bởi vì “lễ đăng quang là mục đích của hợp đồng và việc lễ
đăng quang không diễn ra giải phóng các bên khỏi việc thực hiện hợp đồng”.

II.

So sánh hai học thuyết thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
(hardship) và học thuyết về sự kiện bất khả kháng ( force majeure)
1. Những điểm giống nhau


Thứ nhất, cả hai học thuyết này đều có liên quan đến sự thay đổi khách quan,
không thể lường trước được của hai bên tại thời điểm giao kết hợp đồng mà sự thay
đổi đó làm ảnh hưởng tới việc thực hiện nghĩa vụ và mặc dù đã áp dụng mọi biện
pháp ngăn chặn nhưng vân gây thiệt hại lớn cho một trong hai bên.
Thứ hai, về điều kiện pháp lý áp dụng. Đầu tiên là sự thay đổi từ yếu tố khách
quan, nghĩa là sự kiện/hồn cảnh đó diễn ra hồn tồn do yếu tố khách quan từ bên
ngồi, khơng bắt nguồn từ ý chí của các bên. Nói cách khác thì sự kiện/ hồn cảnh đó
diễn ra khơng do các bên tạo ra hay mang ý chí chủ quan của mỗi bên. Cùng với đó
thì sự kiện/hồn cảnh bị tác động bởi yếu tố khách quan là không thể lường trước
được, nghĩa là trong trường hợp sự kiện/ hoàn cảnh đó diễn ra mà trước đó tại thời
10


điểm giao kết hợp đồng cả hai bên đều không thể lường trước được là nó sẽ xảy ra tại
một thời điểm nhất định. Nói cách khác trong trường hợp mà tại thời điểm giao kết
hợp động cả hai bên chủ thể có thể lường trước được sự kiện/hồn cảnh đó bị yếu tố
khách quan tác động thì sẽ khơng được coi là sự kiện không thể lường trước được.
Cuối cùng, việc thay đổi do yếu tố khách quan sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng với bên
thực hiện nghĩa vụ mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả năng cho
phép, phù hợp với tính chất của hợp đồng mà không thể ngăn chặn, giảm thiểu mức
độ ảnh hưởng đến lợi ích.
Thứ ba, về hệ quả pháp lý việc chứng minh sự kiện xảy ra là sự kiện bất khả
kháng hay do hoàn cảnh thay đổi cơ bản đều có mục đích giảm hoặc miễn trách nhiệm
đối với người vi phạm nghĩa vụ. Tuy nhiên có một điểm chung trong hai học thuyết
này đó là cả hai chủ thể đều có quyền u cầu tịa án chấm dứt quan hệ hợp đồng giữa
hai bên trong trường hợp không thể thỏa thuận cũng như việc tiếp tục hợp đồng sẽ
khơng có lợi ích gì đối với một trong hai bên.
2.

Sự khác nhau


Xét dưới góc độ khoa học pháp lý, hai chế định này có một điểm khác biệt
tương đối rõ rệt về mặt bản chất – đó chính là khả năng thực hiện hợp đồng. Đối với
sự kiện bất khả kháng, bên bị bất khả kháng mất hoàn toàn khả năng thực hiện các
nghĩa vụ tại hợp đồng. Trong khi đó, đối với hồn cảnh thay đổi cơ bản, bên bị ảnh
hưởng vân có thể lựa chọn tiếp tục tuân thủ các nghĩa vụ của mình theo hợp đồng đó.
Mặt khác, bên bị ảnh hưởng bởi hồn cảnh thay đổi cơ bản vân có thể tiếp tục nghĩa
vụ của mình theo hợp đồng, chỉ có điều việc thực hiện đó sẽ đặt lên vai bên bị ảnh
hưởng một gánh nặng quá lớn (onerous), bất hợp lý (unreasonable) và thiếu công
bằng (unjust) đến mức gây tổn hại nghiêm trọng đến lợi ích bên bị ảnh hưởng.
Trong hệ thống luật hợp đồng quốc tế, hardship và force majeure là hai khái
niệm được xây dựng nhằm phân chia rủi ro trong hợp đồng và được thiết kế như các
quy tắc để giải quyết các xung đột về lợi ích khi có hồn cảnh thay đổi hoặc xảy ra
các tình huống khơng thể lường trước được làm thay đổi hoàn toàn cục diện của hợp
đồng. Sự khác biệt của hai ngoại lệ này là:
(i) Khác biệt về hoàn cảnh: hardship chỉ đến nguy cơ bất lợi sẽ xảy ra và việc thực
hiện hợp đồng trở thành gánh nặng quá lớn cho một bên nhưng việc thực hiện hợp
11


đồng vân có thể thực hiện được, force majeure chỉ đến thực hiện hợp đồng là hồn
tồn khơng thể thực hiện được cho dù chỉ mang tính tạm thời;
(ii) Khác biệt về chức năng: hardship tạo ra một lý do thay đổi về nội dung của hợp
đồng với mục đích hợp đồng vân tiếp tục được thực hiện; force majeure là cơ sở để
đình chỉ hoặc chấm dứt hợp đồng.
Như vậy, việc áp dụng sự kiện bất khả kháng sẽ làm chấm dứt hợp đồng, còn
việc áp dụng thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản sẽ duy trì mối quan hệ
hợp đồng bằng các biện pháp như tái đàm phán, sửa đổi hợp đồng,...
3.
Một số tranh chấp cụ thể áp dụng hai học thuyết thực hiện hợp đồng khi

hoàn cảnh thay đổi cơ bản (Hardship) và sự kiện bất khả kháng (force majeure)
3.1. Tranh chấp giữa một công ty Pháp (người bán) và một công ty Hà Lan (người
mua).
Nội dung tranh chấp: Người bán và người mua ký kết với nhau một số hợp
đồng mua bán ống thép, trong đó khơng có điều khoản quy định về điều chỉnh giá.
Sau khi ký kết hợp đồng và trước khi giao hàng, giá thép bất ngờ tăng lên 70%. Người
bán cố gắng thương lượng một giá bán cao hơn nhưng người mua nhất quyết từ chối
và yêu cầu được giao hàng với giá bán đã thống nhất theo hợp đồng được ký kết.
Người bán không giao hàng, do đó người mua khởi kiện ra Tịa án có thẩm quyền của
Bỉ. Luật áp dụng để giải quyết tranh chấp trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
nói trên là Công ước Vienna năm 1980 của Liên Hợp Quốc về Hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế (CISG).
Tịa Phá án nhận định giá thép tăng là sự kiện không thể lường trước, là sự thay
đổi về hoàn cảnh mà trong đó việc tiếp tục thực hiện hợp đồng với điều kiện hiện tại
sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho người bán. Tòa ra phán quyết yêu cầu các bên đàm
phán lại hợp đồng trên tinh thần thiện chí.
3.2 Tranh chấp giữa một công ty Áo (người bán) và một công ty Bulgari (người
mua).
Người bán kiện người mua ra trọng tài đòi người mua bồi thường thiệt hại do
người mua khơng mở thư tín dụng (L/C). Người mua cho rằng mình khơng mở thư tín
dụng là do gặp bất khả kháng. Hai bên tranh cãi về sự kiện bất khả kháng mà bên mua
viện dân. Tranh chấp được xét xử tại Trung tâm trọng tài quốc tế Paris, phán quyết số
7197/1992.
12


Trọng tài cho rằng việc Chính phủ Bulgari yêu cầu đình chỉ thanh tốn các
khoản nợ nước ngồi khơng phải là một trường hợp “bất khả kháng” làm cho người
mua khơng thể mở thư tín dụng được. Theo điều 79 khoản 1 CISG, sự kiện bất khả
kháng là một trở ngại nằm ngồi sự kiểm sốt của các bên, các bên không lường trước

được vào lúc ký kết hợp đồng và các bên không tránh được cũng như không khắc
phục được các hậu quả của sự kiện này.
III. Một số vấn đề đặt ra trong Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2015
Quy định về sự kiện bất khả kháng trong BLDS 2015 còn khá mờ nhạt, trong
thời gian tới, pháp luật cần tiếp tục hoàn thiện khái niệm sự kiện bất khả kháng theo
hướng rõ ràng và hợp lý hơn, đảm bảo phù hợp với thực tiễn. Hiện nay, khái niệm sự
kiện bất khả kháng tại Điều 156 BLDS năm 2015 đã khuyết về mặt chủ thể để xem
xét các tiêu chí nhận diện sự kiện bất khả kháng. Theo đó, chủ thể ở đây có lẽ sẽ phù
hợp hơn nếu được xác định là các bên trong quan hệ pháp luật mà không phải một bên
thứ ba khác. Cần bổ sung nghĩa vụ thông báo để được loại trừ trách nhiệm khi vi
phạm hợp đồng xảy ra do sự kiện bất khả kháng. Nghĩa vụ thông báo khi sự kiện bất
khả kháng xảy ra đóng vai trị quan trọng trong việc giúp bên có quyền có thể hạn chế
tối đa thiệt hại xảy ra do vi phạm hợp đồng và đồng thời cũng là sự thể hiện của
nguyên tắc thiện chí trong pháp luật dân sự. Cần bổ sung căn cứ loại trừ trách nhiệm
do người thứ ba gặp sự kiện bất khả kháng. Đây cũng là một căn cứ loại trừ trách
nhiệm do VPHĐ đã được ghi nhận từ rất sớm trong Công ước Viên năm 1980 về hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Về Điều 420 BLDS 2015 cũng đặt ra một số vấn đề pháp lý cần nghiên cứu
như sau:
Thứ nhất, một trong năm điều kiện của hoàn cảnh thay đổi cơ bản là “hoàn
cảnh thay đổi lớn đến mức nếu như các bên biết trước thì hợp đồng đã khơng được
giao kết hoặc được giao kết nhưng với nội dung hoàn toàn khác” quy định tại điểm c
khoản 1 Điều 420 Bộ luật Dân sự năm 2015, cần được hướng dân cụ thể, bởi đây là
điều kiện trung tâm để xác định sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh.
Thứ hai, khoản 3 Điều 420 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định, trường hợp các
bên không thể thỏa thuận về việc sửa đổi hợp đồng trong một thời hạn hợp lý, thì một
trong các bên có thể u cầu Tịa án sửa đổi hoặc chấm dứt hợp đồng. Tuy nhiên,
13



“Tòa án chỉ được quyết định việc sửa đổi hợp đồng trong trường hợp việc chấm dứt
hợp đồng sẽ gây thiệt hại lớn hơn so với các chi phí để thực hiện hợp đồng nếu được
sửa đổi”. Các khái niệm “thiệt hại” và “các chi phí để thực hiện hợp đồng” trong điều
luật này cần được làm rõ.
Thứ ba, khoản 4 Điều 420 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định trong quá trình
đàm phán sửa đổi, chấm dứt hợp đồng hay khi Tòa án giải quyết vụ việc, các bên vân
phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác. Với quy định hiện nay, nếu không thỏa thuận được, bên cịn lại có thể cố tình trì
hỗn giải quyết vụ việc tại Tịa án nhằm thu được nhiều lợi ích hơn và tiếp tục thực
hiện hợp đồng gây thiệt hại cho bên kia. Quy định này chưa bảo vệ kịp thời cho bên
yếu thế trong thời gian chờ Tòa án đưa ra quyết định cuối cùng.
Thứ tư, Điều 420 Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ đề cập đến vai trị của Tịa án
mà khơng quy định vai trị của trọng tài thương mại. Theo Điều 6 Luật Trọng tài
thương mại năm 2010, trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài,
mà một bên khởi kiện tại Tồ án thì Tồ án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa
thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được. Đồng thời
tại Điều 1.11 Bộ Nguyên tắc UNIDROIT năm 2010 đã quy định “Tòa án” bao gồm cả
“Hội đồng trọng tài”. Vì vậy, BLDS Việt Nam cần áp dụng cách hiểu này vào Điều
420.
Thứ năm, hệ quả pháp lý của việc sửa đổi hợp đồng cần được hướng dân cụ thể
hơn nữa nhằm xác định các nghĩa vụ và trách nhiệm trước, trong, và sau khi sửa đổi
hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi cơ bản.

Kết Luận
Học thuyết thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản (hardship) và học
thuyết về sự kiện bất khả kháng (force majeure) là hai ngoại lệ của nguyên tắc pacta
sunt servenda - nguyên tắc hiệu lực bất biến của hợp đồng, đã bổ trợ lân nhau nhằm
thiết lập một khuôn khổ pháp lý hiệu quả, linh hoạt và công bằng hơn để đối phó với
tác động của các sự kiện xảy ra khách quan, bất ngờ, không lường trước được đối với
các quan hệ hợp đồng. Pháp luật Việt Nam cần làm rõ hơn các quy định để phân biệt

hai chế định này.

14


Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình luật dân sự tập 2, PGS.TS. Nguyễn Ngọc Điện, Nxb. ĐHQGTPHCM.
2. “Áp dụng thực quy định về hoàn cảnh thay đổi cơ bản trong hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế” Đàm Thị Diễm Hạnh, Lê Thị Kim Oanh, Tạp chí Pháp luật và
Thực tiễn số 40/2019.
3. Trần Thanh Tâm và Nguyễn Minh Hiển, “Điều khoản hardship trong hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế” (2015) Tạp chí kinh tế đối ngoại số 70 (02/2015).
4. Điều
1195
của
Bộ
luật
dân
sự
Pháp;
Xem
thêm:
< />5. Ingeborg Schwenzer, “Force Majeure and Hardship in International Sales
Contracts” (2008) 39 VUWLR 709, 711;
6. Hubert Konarski, “Force Majeure and Hardship Clauses in International
Contractual Practice” (2003) 2003 Int’l Bus LJ 405, 405.
7. Nguyễn Minh Hằng và Trần Thị Giang Thu, “Đề xuất diễn giải và áp dụng Điều
420 Bộ luật dân sự năm 2015 về thực hiện hợp đồng khi hồn cảnh thay đổi cơ
bản” (2017) Tạp chí kinh tế đối ngoại số 86).
8. “Thiên nga đen” - Covid-19 và cơ chế điều chỉnh của pháp luật hợp đồng Việt

Nam; ts. đỗ giang nam, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội; trần quang cường,
ncs. gv. Đại học Paris 10, Pháp.
9. đề xuất diễn giải và áp dụng điều 420 bộ luật dân sự năm 2015 về thực hiện hợp
đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản; Posted on 13 Tháng Tám, 2017 by
Civillawinfor; Ts. Nguyễn minh hằng & Ths. Trần thị giang thu – Khoa Luật,
Đại học Ngoại thương Hà Nội.
10.Những vấn đề pháp lý trong soạn thảo điều khoản sự kiện bất khả kháng và điều
khoản hoàn cảnh thay đổi cơ bản trong bối cảnh đại dịch COVID-19; pgs.ts. trần
việt dũng-Trưởng Khoa Luật Quốc tế, Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh; khưu
hồng linh- Chuyên viên pháp lý, Victory LLC.
11.Alexei G. Doudko (2000), Hardship in Contract: The Approach of the
UNIDROIT Principles and Legal Developments in Russia, Uniform Law Review,
Vol. 5, Issue 3, p. 496.
15


12.UNIDROIT (2010), UNIDROIT Principles on International Commercial
Contracts.
13. PGS.TS. Đỗ Văn Đại (chủ biên) (2016), Giáo trình pháp luật về hợp đồng và bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh,
Nxb. Hồng Đức.
14. Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2015
15. Chế định hợp đồng trong pháp luật dân sự Việt Nam, TS. Đỗ Giang Nam.

16



×