Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

29 355 nguyenvanthai 23 nguyen van thai tlgd 5356

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (543.02 KB, 7 trang )

TRÍ TUỆ CẢM XÚC CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THƠNG
NGUYỄN VĂN THÁI
Khoa Tâm lý – Giáo dục
Tóm tắt: Nghiên cứu nhằm đánh giá trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học
phổ thông (THPT). Mẫu nghiên cứu là 183 học sinh Trường trung học phổ
thông Nguyễn Huệ, thành phố Huế. Cơng cụ nghiên cứu là thang đo trí tuệ
cảm xúc dành cho thanh thiếu niên Việt Nam (ESI-VNY) của tác giả Phan
Thị Mai Hương (2016). Kết quả khảo sát cho thấy, trí tuệ cảm xúc của học
sinh THPT ở mức trung bình; nhiều học sinh cịn hạn chế về năng lực cảm
xúc.Để giúp học sinh THPT đạt kết quả cao trong học tập và thiết lập các
mối quan hệ tốt đẹp, cần thiết có những biện pháp để gia tăng trí tuệ cảm xúc
cho các em.
Từ khóa: Trí tuệ cảm xúc, học sinh trung học phổ thông

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật hiện đại đã thúc đẩy nền kinh tế- xã hội
phát triển nhanh chóng và đồng thời giúp cá nhân dễ dàng đạt được thành công trong
nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên,đây cũng là lúc chúng ta cần có sự quan tâm đến những nhu
cầu của đời sống tinh thần, đặc biệt là trong các mối quan hệ người - người. Mặc dù
mục tiêu giáo dục của nước ta là phát triển tồn diện nhân cách học sinh nhưng chương
trình giáo dục hầu như chỉ tập trung phát triển các năng lực học tập, cung cấp kiến thức
mà ít chú trọng đến vấn đề giáo dục trí tuệ cảm xúc cho học sinh. Trí tuệ cảm xúc là khả
năng nhận diện, hiểu, sử dụng và quản lý cảm xúc của con người để thực hiện tốt các
nhiệm vụ/ hoạt động trong cuộc sống (Phan Thị Mai Hương, 2016). Đây là một dạng trí
thơng minh mà các cuộc nghiên cứu gần đây khẳng định rằng chúng quan trọng hơn cả
trí thơng minh truyền thống trong việc dự đốn sự thành cơng và hạnh phúc của con
người. Trong một nghiên cứu năm 2005, Gary R. Low và Darwin B. Nelson (trường
Cao đẳng Giáo dục Texas Hoa Kỳ) đã kết luận “Trí tuệ cảm xúc là chìa khóa quan
trọng của cá nhân trong việc giành được thành tích xuất sắc trong học thuật và sự
nghiệp”. Theo Goleman (1995), trong sự thành công của con người, trí thơng minh (IQ)
chỉ chiếm 20%, phần cịn lại đến từ trí thơng minh cảm xúc - xã hội và sự may mắn.


Mặc dù nó đóng vai trị quan trọng như vậy, nhưng thực tế, hơn 90% dân số thế giới
đang thiếu khả năng này (Tajeddini, 2014).
Xuất phát từ tầm quan trọng của trí tuệ cảm xúc, trên thế giới cũng như ở Việt Nam có
khá nhiều nghiên cứu về trí tuệ cảm xúc. Tuy nhiên, các nghiên cứu chủ yếu tiến hành
trên đối tượng những người trưởng thành như sinh viên, giáo viên…; ít tác giả nghiên
cứu trên đối tượng học sinh. Thực tế, trí tuệ cảm xúc đối với lứa tuổi học sinh có vị trí
đặc biệt, nó là khâu trọng yếu gắn liền nhận thức với hành động của các em. Nó giúp
các em u thích trường lớp, thầy cơ, bạn bè; trí tuệ cảm xúc cịn giúp các em tiếp thu
tri thức trở nên dễ dàng hơn. Bên cạnh đó, trí tuệ cảm xúc cịn có vai trò quan trọng
Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Sinh viên năm học 2016-2017
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế, tháng 12/2016: tr. 176-185


TRÍ TUỆ CẢM XÚC CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THƠNG

177

trong việc hình thành những hành vi ứng xử phù hợp với bạn bè, thầy cô, bố mẹ và các
mối quan hệ xã hội khác.
Từ những lý do trên, chúng tơi đã tiến hành nghiên cứu trí tuệ cảm xúc của học sinh
trung học phổ thông.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để đánh giá trí tuệ cảm xúc của học sinh THPT, chúng tôi đã sử dụng thang đo ESIVNY của tác giả Phan Thị Mai Hương (2016). Thang đo gồm 42 mệnh đề nhằm đánh
giá 6 mặt của trí tuệ cảm xúc, đó là (1) Khả năng thể hiện, sử dụng cảm xúc trong quan
hệ với người khác; (2) Khả năng kiểm soát cảm xúc tiêu cực, (3) Khả năng sống hạnh
phúc, lạc quan; (4) Khả năng thể hiện, sử dụng cảm xúc đối với bản thân; (5) Khả năng
thể hiện và sử dụng cảm xúc trước hồn cảnh khó khăn; (6) Khả năng thể hiện cảm xúc
phù hợp. Câu trả lời của thang đo có 5 mức tăng dần, từ 1 (Hầu như không giống tôi)
đến 5 (Hầu như giống tơi). Trong thang đo có 12 câu hỏi có ý nghĩa nghịch đảo, cần đổi
điểm. Kết quả điểm càng lớn, chứng tỏ trí tuệ cảm xúc càng cao. Bên cạnh đó, thang đo

phóng đại H gồm 6 mệnh đề, là thang dùng để lọc những mẫu đánh giá quá cao về bản
thân mình. Thang này cũng có 5 mức trả lời như trên, điểm càng cao càng thể hiện sự
đánh giá quá cao về bản thân. Độ tin cậy của thang đo này là khá cao, hệ số tương quan
giữa 2 lần khảo sát (test-retest) là 0,83; hệ số Cronbach's alphala 0,68 (Phan Thị Mai
Hương, 2016).
Công cụ này được chúng tôi sử dụng khảo sát trên 183 học sinh lớp 10, 11 tại trường
THPT Nguyễn Huệ trên địa bàn thành phố Huế. Kết quả khảo sát được xử lý bằng phần
mềm SPSS 22.0.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đánh giá chung về trí tuệ cảm xúc của học sinh trường trung học phổ thông
Bảng 1. Thống kê mô tả về điểm số trí tuệ cảm xúc của học sinh THPT
STT
1
2
3
4
5
6
7

Trí tuệ cảm xúc và các thành phần của nó
Khả năng cảm xúc trong mối quan hệ với người khác
Khả năng kiểm soát, điều chỉnh cảm xúc tiêu cực
Khả năng cảm xúc đối với bản thân
Khả năng sống hạnh phúc, lạc quan
Khả năng thể hiện, sử dụng và điều chỉnh cảm xúc trước hồn
cảnh khó khan
Năng lực thể hiện điều chỉnh cảm xúc phù hợp
Trí tuệ cảm xúc Tổng hợp


Mean

SD

100,01
100,00
100,00
100,00

15,006
14,995
15,010
14,986

100,02

14,992

100,01
100,00

14,993
15,000

Ghi chú: Mean: Điểm trung bình; SD: Độ lệch chuẩn

Dữ liệu ở bảng 1 cho thấy trí tuệ cảm xúc tổng hợp và các thành phần của nó có điểm số
khá tương đồng nhau (ĐTB từ 100,00 đến 100,02). Nếu theo thang đánh giá của
Wechsler thì trí tuệ cảm xúc của học sinh THPT ở mức độ trung bình. Kết quả nghiên



NGUYỄN VĂN THÁI

178

cứu này khá tương đồng với các nghiên cứu khác về trí tuệ cảm xúc trên lứa tuổi học
sinh THPT và sinh viên Việt Nam (Hoàng Anh Thư, 2010; Phạm Thị Ngọc Trang 2015;
Trần Thị Thu Mai, 2013). Điều này cho thấy khả năng cảm xúc trong mối quan hệ với
người khác; khả năng kiểm soát, điều chỉnh cảm xúc tiêu cực; khả năng cảm xúc đối
với bản thân; khả năng sống hạnh phúc, lạc quan;khả năng thể hiện, sử dụng và điều
chỉnh cảm xúc trước hoàn cảnh khó khăn; năng lực thể hiện điều chỉnh cảm xúc phù
hợp, của học sinh THPT chưa được tốt, cần học tập và rèn luyện thêm.
Trí tuệ cảm xúc của học sinh THPT cịn thể hiện rõ ở bảng 2. Trí tuệ cảm xúc của học
sinh trải dài từ mức độ thấp đến mức độ cao. Trong 180 khách thể khảo sát có 24,9%
học sinh có số trí tuệ cảm xúc đạt từ mức “thông minh” trở lên. Đây là con số đáng vui
mừng. Những học sinh có trí tuệ cảm xúc cao thường là những người luôn sống lạc
quan, nhận biết bản thân muốn gì, biết lắng nghe, cảm thơng, thấu hiểu cảm xúc, mong
muốn và quan điểm của người khác, phân biệt được chúng và sử dụng chúng để hướng
dẫn suy nghĩ và hành động của bản thân. Những khả năng này giúp các em có thể xây
dựng và duy trì các mối quan hệ tốt với người khác, đồng thời dễ thíchnghi với ngoại
cảnh, linh hoạt, chủ động và sáng tạo trong cơng việc, có khả năng chịu được áp lực và
vượt qua nghịch cảnh. Những người có trí tuệ cảm xúc cao thường thành cơng trong
cuộc sống, đặc biệt là trong sự nghiệp. Trí tuệ cảm xúc nó liên quan đến khả năng quản
lý con người và thiết lập các mối quan hệ. Đây là kỹ năng quan trọng của mọi nhà lãnh
đạo. Nguyễn Huy Tú cho rằng: “Ngày nay, để thành đạt, các ông chủ, các giám đốc
công ty hay thủ trưởng cơ quan phải luôn giữ được sự bình tĩnh, kiểm sốt được những
mâu thuẫn và tập hợp được những người đứng ở đằng sau mình.”
Bảng 2. Mức độ trí tuệ cảm xúc của học sinh THPT
MỨC ĐỘ
Ưu tú

Rất thơng minh
Thơng minh
Trung bình
Dưới mức trung bình
Kém
Chậm khơn
Tổng

EQ
> 130
120 – 129
110 – 119
90 – 109
80 – 89
70 – 79
< 70

Số lượng
4
6
35
93
28
9
5
180

Tỉ lệ %
2,2
3,3

19,4
51,7
15,6
5,0
2,8
100

Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn cịn khơng ít học sinh có trí tuệ cảm xúc thấp. 23,4% học
sinh có chỉ số trí tuệ cảm xúc từ mức dưới trung bình trở xuống, trong đó có 7,8% là
“kém” và “chậm khơn”. Dữ liệu này cho thấy nhiều học sinh vẫn cịn khó khăn lớn
trong khả năng cảm xúc trong mối quan hệ với người khác; khả năng kiểm soát, điều
chỉnh cảm xúc tiêu cực; khả năng cảm xúc đối với bản thân; khả năng sống hạnh phúc,
lạc quan; khả năng thể hiện, sử dụng và điều chỉnh cảm xúc trước hồn cảnh khó
khăn;năng lực thể hiện điều chỉnh cảm xúc phù hợp. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy
những người có trí tuệ cảm xúc kém thường là những những người vô cảm, hành động
một cách cứng nhắc trước những sự việc xung quanh, và cịn có thể hành động một cách


TRÍ TUỆ CẢM XÚC CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THƠNG

179

bộc phát khơng kiểm sốt được những phản ứng của bản thân. Tình trạng phổ biến bạo
lực học đường hiện nay có nguyên nhân xuất phát phần lớn là do sự hạn chế về khả
năng kiểm soát cảm xúc của học sinh. Ngồi ra, trí tuệ cảm xúc kém cịn làm suy giảm
kết quả học tập, bởi vì khi khơng kiềm chế được cảm xúc của bản thân, học sinh thường
mất ý chí phấn đáu, như vậy sẽ thiếu đi động lực hoặc đam mê để theo đuổi mục tiêu
hoặc khát vọng của mình.
Nhìn chung, dữ liệu điều tra cho thấy, trí tuệ cảm xúc của học sinh THPT chưa được tốt.
Chính vì vậy, cần thiết có những biện pháp để cải thiện trí tuệ cảm xúc cho các em.

3.2. Các thành tố của trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thơng
Để có cái nhìn cụ thể và chi tiết hơn về trí tuệ cảm xúc của học sinh THPT, chúng tôi
tiến hành đi sâu vào phân tích 6 thành tố cơ bản của trí tuệ cảm xúc. Kết quả thể hiện
dưới đây.
3.2.1. Khả năng cảm xúc trong mối quan hệ với người khác
Khả năng cảm xúc trong mối quan hệ với người khác là thành tố cơ bản của trí tuệ cảm
xúc. Năng lực này của học sinh THPT được thể hiện ở bảng 3.
Bảng 3. Khả năng cảm xúc trong mối quan hệ với người khác
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

Các item
Nói chuyện với bạn khi bạn có chuyện buồn
Thể hiện sự đồng cảm với người khác
Hay nói lời cảm ơn khi nhận được sự giúp đỡ
Luôn cảm ơn mọi người
Thể hiện sự biết ơn
Nói lời an ủi khi bạn buồn
Thể hiện sự quan tâm
Thể hiện sự quý mến với bạn bè
Thường chia sẻ với bạn bè

Tôn trọng với bạn bè

Mean
3,90
3,70
4,40
4,22
4,33
4,01
3,64
3,83
3,56
4,38

SD
1,165
0,984
0,896
1,027
0,736
1,019
0,995
1,012
1,127
0,823

Xem xét cụ thể các items chúng tôi thu được khá nhiều thơng tin. Nhìn chung, các em đã
có khả năng cảm xúc trong mối quan hệ với người khác. Với mệnh đề“Tơi hay nói lời
cảm ơn khi nhận được sự giúp đỡ của người khác” có tới 88% các em lựa chọn phương
án “đa phần là đúng với tôi” và “hầu như là đúng với tôi”. Tương tự ở các mệnh đề“Tơi

ln thầm cảm ơn mọi người vì những gì họ dành cho tơi”, “Tơi tơn trọng bạn bè”, tỉ lệ
học sinh chọn phương án “đa phần là đúng với tôi” và “hầu như là đúng với tôi”lần lượt
là 80,6% và 87,9%. Tình yêu thương xuất phát từ điều gì? Đó chính là từ tấm lịng chân
thật, mà sự biểu hiện của tình yêu thương là qua hành động. Với những học sinh có khả
năng cảm xúc trong mối quan hệ với người khác, các em sẽ thể hiện sự biết ơn như hay
nói lời cảm ơn khi nhận được sự giúp đở của người khác. Điều này sẽ giúp cho các em
học sinh hình thành một thói quen tốt; quan trọng ở đây, các em học sinh không chỉ tăng
giá trị của bản thân mình thơng qua việc nói lời cảm ơn, mà các em cịn tiếp cho những


NGUYỄN VĂN THÁI

180

người giúp đỡ các em một ngọn lửa yêu thương, sẻ chia; lời cảm ơn sẽ là động lực mạnh
mẽ để những hành động yêu thương đó được tiếp tục và giữ mãi.
Tuy nhiên bên cạnh đó, với các items khác, dữ liệu đưa lại thông tin không mấy khả
quan, cụ thể ở mệnh đề“Khi bạn có chuyện buồn, tơi nói chuyện với bạn”, 28,9%em
cho rằng điều này “không giống với các em”, “chỉ đúng một phần nhỏ với tôi”, “nửa
đúng, nửa sai”; hay ở mệnh đề “Tôi thể hiện sự đồng cảm với những vấn đề mà bạn gặp
phải”, số lượng các em cho rằng “không giống với các em”, “chỉ đúng một phần nhỏ
với tôi”, “nửa đúng, nửa sai” chiếm đến 42,6%. Tỉ lệ các mức độ này ở mệnh đề “Tôi
thường chia sẻ với bạn bè khi họ gặp vấn đề” cũng chiếm đến 44,3%. Để xây dựng
được một tình bạn tốt, để tạo ra những giá trị bản thân và tiếp thêm sức mạnh cho người
khác khi họ gặp khó khăn thì vấn đề đồng cảm với bạn bè là rất quan trọng, tuy nhiên ở
đây bên cạnh số đông học sinh hiểu được giá trị của nó thì vẫn cịn nhiều học sinh vẫn
chưa thực sự ý thức được điều này. Mỗi một con người trong q trình trưởng thành sẽ
ln gặp phải những khó khăn thử thách trong cơng việc, trong các mối quan hệ, trong
vấn đề tình cảm…, mà chính những lúc này con người ta yếu đuối nhất dễ bị tổn thương
và luôn cần một bờ vai biết lắng nghe những tâm sự, ln cần có sự đồng cảm và thấu

hiểu. Chỉ có khi nhận thức được và có một tấm lịng u thương giúp đở người khác thì
các em mới có thể thiết lập được các mối quan hệ thân thiết với người khác.
3.2.2. Khả năng kiểm soát, điều chỉnh cảm xúc tiêu cực
Khả năng kiểm soát, thể hiện cảm xúc tiêu cực của bản thân thể hiện ở sự kiềm chế
trong ngơn ngữ nói với người khác như chỉ trích, phê phán người khác, nói năng thiếu
kiểm sốt, nghĩ sao nói vậy, gây hiểu lầm; ở sự kiềm chế sự bộc phát của cảm xúc tiêu
cực (nổi cáu, bực bội) và ở việc kiểm soát, điều chỉnh trạng thái gây khó chịu (bực bội).
Năng lực này của học sinh THPT được thể hiện ở bảng 4.
Bảng 4. Khả năng kiểm soát, điều chỉnh cảm xúc tiêu cực
STT
Các item
R
1
Dễ dàng chỉ trích người khác
2R Hay phê phán người khác
3R Dễ nỗi cáu
4R Hay phàn nàn về mọi thứ
5R Hay ở trạng thái bực bội
6R Nói năng thiếu kiểm sốt khi bực bội
7R Hay làm bạn bè hiểu lầm
8R Không kiểm sốt được tính khí
Ghi chú: R: những item nghịch

Mean
3,71
4,00
2,81
3,69
3,53
2,84

3,46
3,98

SD
1,185
0,989
1,390
1,121
1,304
1,328
1,180
1,122

Xem xét cụ thể các items chúng tôi thu được khá nhiều thơng tin. Nhìn chung trong một
số tình huống khá nhiều em đã biết kiểm soát điều chỉnh cảm xúc tiêu cực của bản thân.
Ở mệnh đề “Tôi dễ dàng chỉ trích người khác”có tới 62,8% các em lựa chọn phương án
“hầu như không đúng với tôi” và “chỉ đúng một phần nhỏ với tôi”. Tương tự với các
mệnh đề“Tôi hay phê phán người khác” và “Tơi kiểm sốt được tính khí của mình khi ở
trường”, tỉ lệ học sinh chọn phương án “đa phần là đúng với tôi” và “hầu như là đúng


TRÍ TUỆ CẢM XÚC CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THƠNG

181

với tơi”lần lượt là 80,6% và 87,9%.Thực tế khi bực bội, tức giận chuyện gì, con người
có xu hướng chỉ trích lên án, phê phán người khác. Điều này khơng những khơng giúp
họ giải quyết vấn đề mà có thể khiến mọi chuyện trở nên rắc rốihơn, thậm chí dẫn đến
bế tắc. Do vậy, việc kiểm soát được cảm xúc tiêu cực có ý nghĩa rất lớn với các em.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều em hạn chế ở khả năng điều chỉnh, kiểm soát cảm xúc tiêu

cực. Ở mệnh đề “Tơi dễ nổi cáu”, “Tơi hay nói năng thiếu kiểm soát khi bực bội”, tỉ lệ
học sinh cho rằng“nửa đúng, nửa sai”, “đa phần là đúng với tôi” và “hầu như là đúng
với tôi”là khá cao (lần lượt là 62,8% và 66,1%). Việc hạn chế trong kỹ năng kiểm soát
cảm xúc tiêu cực có thể giải thích bởi những đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi. Ở lứa
tuổi vị thành niên (trong đó có học sinh THPT), tâm sinh lý vẫn chưa hồn thiện, cụ thể
q trình hưng phấn và ức chế vẫn chưa ổn định; điều này dễ gây cho các em những xúc
động nhất thời. Chính vì vậy, trước những bất đồng quan điểm hay mâu thuẫn trong các
mối quan hệ, các em có xu hướng phản ứng gay gắt.
Lứa tuổi học sinh THPT đang trong giai đoạn phấn đấu rèn luyện để tích lũy kiến thức,
kỹ năng làm hành trang cho tương lai, nếu các em khơng biết cách điều khiển cảm xúc
phù hợp thì đó sẽ là một rào cản lớn, khiến các em mất tập trung, nhanh kiệt sức, mất ý
chí phấn đấu và điều đó ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả học tập và các mối quan hệ của
các em.
3.2.3. Khả năng cảm xúc đối với bản thân
Khả năng cảm xúc đối với bản thân là khả năng xây dựng và duy trì trạng thái cảm xúc
tích cực đối với bản thân; thể hiện rõ ở việc nhìn nhận được những điểm tốt của bản
thân. Năng lực này của học sinh THPT được thể hiện ở bảng 5.
Bảng 5. Khả năng cảm xúc đối với bản thân
STT
1
2
3
4
5

Các item
Là người bạn tốt
Là người con ngoan
Tươi cười với bạn bè, người thân
Thích những điểm tốt của bản thân

Được bạn bè yêu quý

Mean
4,10
3,94
3,97
3,92
3,31

SD
2,380
3,991
1,021
1,157
1,041

Xếp loại
1
3
2
4
5

Số liệu ở bảng 5 cho thấy nhìn chung các em đã có khả năng cảm xúc đối với bản thân.
Ở mệnh đề “Tơi là người bạn tốt”, có tới 71,6% các em lựa chọn phương án“đa phần
là đúng với tôi” và “hầu như là đúng với tôi”. Tương tự, ở các mệnh đề“Tôi là người
con ngoan”, “Tươi cười với bạn bè, người thân”, “Thích những điểm tốt của bản
thân”, “Tơi biết bạn bè yêu quý tôi”,tỉ lệ học sinh lựa chọn các phương án “đa phần là
đúng với tôi” và “hầu như là đúng với tôi”, lần lượt là 56,3%; 71,6%; 79,4%; 39,3%.
Các số liệu này cho thấy đây là tín hiệu đáng vui mừng vì các em đã có cảm xúc rất tích

cực với bản thân. Những nghiên cứu gần đây đã chỉ ra sự tự đánh giá đúng đắn và nhìn
nhận bản thân tích cực sẽ là chìa khóa quan trọng quyết định thành công của các em
trong công việc, học tập nói riêng và trong cuộc sống nói chung (Đinh Thị Hồng Vân,
2016)


NGUYỄN VĂN THÁI

182

Song, bên cạnh đó, vẫn xuất hiện nhiều thông tin không mấy khả quan về khả năng cảm
xúc đối với bản thân. Ở mệnh đề“Tôi là người con ngoan”, 43,2% em cho rằng điều
này“không giống với các tôi”, “chỉ đúng một phần nhỏ với tôi”, “nửa đúng, nửa sai”,
hay ở mệnh đề “Tôi biết bạn bè yêu quý tôi”, số lượng các em cho rằng “không giống
với các tôi”, “chỉ đúng một phần nhỏ với tôi”, “nửa đúng, nửa sai”chiếm đến 60,7%.
Số liệu này cho thấy có khá nhiều em chưa nhìn nhận tích cực về bản thân. Nghiên cứu
của Đinh Thị Hồng Vân (2013) cũng chỉ ra rằng trẻ vị thành niên (trong đó có học sinh
THPT) có xu hướng đánh giá thấp giá trị bản thân. Để khẳng định bản thân mình, học
sinh THPT ln mong muốn là con ngoan của bố mẹ và là người được bạn bè yêu quý,
song cũng chính lứa tuổi này, các em thường nảy sinh những mâu thuẫn, xung đột với
bố mẹ, bạn bè (Đinh Thị Hồng Vân, 2014) và đây là một trong những lý do cơ bản
khiến nhiều học sinh THPT tự đánh giá là mình chưa phải là con ngoan hay là chưa
được bạn bè yêu quý.
3.2.4. Khả năng sống hạnh phúc, lạc quan
Khả năng sống hạnh phúc, lạc quan thể hiện rõ ở cách nhìn lạc quan, niềm tin vào
những điều tốt đẹp trong cuộc sống, thái độ tích cực với cơng việc. Năng lực này của
học sinh THPT được thể hiện ở bảng 6.
Bảng 6. Khả năng sống hạnh phúc lạc quan
STT
1

2
3
4
5
6

Các item
Tin mọi chuyện sẽ ổn
Tin mọi điều tốt đẹp
Có những suy nghĩ tốt đẹp về mọi thứ
Thấy cuộc sống thật tươi đẹp
Khi không đạt kết quả, tự nhủ phải cố lên
Hào hứng với cơng việc của mình

Mean
3,66
3,58
3,39
3,43
4,09
3,56

SD
1,141
1,173
1,042
1,111
1,106
1,035


Số liệu ở bảng 6 cho thấy, trong các biểu hiện về khả năng sống hạnh phúc lạc quan,
biểu hiện “Khi không đạt kết quả, tự nhủ phải cố lên” được học sinh THPT đánh giá là
giống với bản thân nhất. Ở mệnh đề“Tin mọi chuyện sẽ ổn”, có tới 55,6% các em lựa
chọn phương án “đa phần là đúng với tôi” và “hầu như là đúng với tôi”. Tương tự ở
mệnh đề “Tin mọi điều sẽ tốt đẹp”,“Hào hứng với cơng việc của mình”, tỉ lệ học sinh
chọn phương án “đa phần là đúng với tôi” và “hầu như là đúng với tôi”lần lượt là
60,6% và 53,5%. Sự tin tưởng vào cuộc sống, vào những chuyện đã xảy ra là một trong
những biểu hiện cơ bản của trí tuệ cảm xúc. Niềm tin là nguồn năng lượng mạnh mẽ
nhất trong việc tạo ra những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Những người có niềm tin, khi
đặt ra mục tiêu, họ thường nỗ lực hết mình, hành động liên tục và quyết tâm làm bất cứ
việc gì (trong giới hạn đạo đức và pháp luật) để đạt được nó. Với tính thần lạc quan, học
sinh THPT sẽ dễ dàng vượt qua những khó khăn, có cái nhìn tích cực trước các vấn đề
trong cuộc sống. Điều này giúp các em thành công trong học tập và thiết lập các mối
quan hệ.



×