TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ VÀ
THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
----------
BÀI THẢO LUẬN
MÔN: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
-----------------------ĐỀ TÀI: VẤN ĐỀ NHẬN THỨC LUẬN TRONG TRIẾT HỌC
MÁC-LÊNIN
Giáo viên hướng dẫn
: cơ Nguyễn Thị Liên
Lớp học phần
: 2177MLNP0221
Nhóm
: 03
1
2
0
Danh sách thành viên nhóm 03
STT
STT
Theo
Ds
Lớp
MSV
Họ và Tên
Cơng việc được giao
Làm Word, nội dung
cơ sở lí luận các phần
khái niệm
1
24
21D140008
Ngơ Việt Đức
(nhóm trưởng)
2
21
21D140151
Phạm Thị
Chinh
Thuyết trình
3
22
21D140196
Phạm Thị
Chun
Nội dung phần chân lý
và kết luận
4
23
21D140007
Phạm Hải
Đăng
Làm PowePoint
5
25
21D140107
Phan Thị Thuỳ
Dung
(thư ký)
Nội dung phần các
phương pháp nhận
thức và liên hệ
6
26
21D140108
Nguyễn Gia
Dũng
Nội dung phần thực
tiễn, vai trò thực tiễn
và liên hệ
7
27
21D140153
Vũ Việt Dũng
Nội dung phần các giai
đoạn, sự thống nhất và
liên hệ
8
28
21D140152
Trần Thị Mỹ
Duyên
Thuyết trình
9
29
21D140197
Trần Thị Thanh
Duyên
Nội dung phần nhận
thức và các nguyên tắc
cơ bản
10
30
21D140109
Nguyễn Thị
Giang
Nội dung phần các
phương pháp nhận
thức và liên hệ
2
2
0
Điểm
nhóm
đánh
giá
Giảng
Viên
đánh giá
MỤC LỤC
Trang
Lời Nói Đầu................................................................................4
Cơ Sở Lí Luận............................................................................5
Nhận thức...............................................................................5
Ngun tắc cơ bản trong nhận thức........................................7
Thực tiễn ................................................................................8
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức..................................10
Các giai đoạn của nhận thức..................................................12
Chân lý...................................................................................16
Các phương pháp nhận thức khoa học...................................18
Cơ Sở Thực Tiễn.......................................................................24
Trong học tập ........................................................................24
Trong nghiên cứu khoa học...................................................26
Kết Luận....................................................................................31
3
2
0
LỜI NĨI ĐẦU
Triết học Mác-Lênin là một mơn học cơ sở, nghiên cứu các quan điểm duy vật
về tự nhiên và về xã hội, các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng
có gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau thành một hệ thống lý luận thống nhất. Trong
bài thảo luận này, nhóm chúng em xin được phép phân tích, trình bày về vấn đề
nhận thức luận trong triết học Mác-Lênin và đưa ra một vài ví dụ liên hệ. Nhóm
cũng xin được đưa ra một vài ý kiến, đánh giá, nhận định chủ quan cho một vài
vấn đề trong bài. Với quỹ thời gian và khối kiến thức liên quan cịn eo hẹp, nhóm
mong cơ và các bạn sẽ đưa ra những nhận xét để nhóm có thể tiếp tục sửa chữa và
hồn thiện bài.
Nhóm xin chân thành cảm ơn!
4
2
0
A. Cơ sở Lí thuyết
I.
-
Nhận thức
Nhận thức là một quá trình biện chứng có vận động và phát triển, là q trình đi từ
chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ biết chưa đầy đủ đến đầy đủ hơn.
1. Nguồn gốc của nhận thức:
-
Triết học Mác - Lênin thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới và cho rằng thế
giới khách quan là đối tượng của nhận thức. Không phải ý thức của con người sản
sinh ra thế giới mà thế giới vật chất tồn tại độc lập với con người, đó là nguồn gốc
“duy nhất và cuối cùng” của nhận thức. Triết học Mác - Lênin khẳng định khả năng
nhận thức thế giới của con người. V.I. Lênin đã chỉ rõ chỉ có những cái mà con người
chưa biết chứ khơng có cái gì khơng thể biết: “Dứt khốt là khơng có và khơng thể có
bất kỳ sự khác nhau nào về nguyên tắc giữa hiện tượng và vật tự nó. Chỉ có sự khác
nhau giữa cái đã được nhận thức và cái chưa được nhận thức”.
2. Bản chất của nhận thức:
a. Triết học Mác - Lênin cho rằng nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào
bộ óc người:
-
“Tri giác và biểu tượng của chúng ta là hình ảnh của các vật đó”, “Cảm giác của
chúng ta, ý thức của chúng ta chỉ là hình ảnh của thế giới bên ngồi, và dĩ nhiên là nếu
không cho cái bị phản ánh thì khơng thể có cái phản ánh, nhưng cái bị phản ánh tím
tại một cách độc lập với cái phản ánh”. Đó là một q trình phức tạp, q trình nảy
sinh và giải quyết mâu thuẫn chứ không phải quá trình máy móc giản đơn, thụ động
và nhất thời: “Nhận thức là sự tiến gần mãi mãi và vô tận của tư duy đến khách thể.
Phản ánh của giới tự nhiên trong tư tưởng con người phải được hiểu không phải một
cách “chết cứng”, “trừu tượng”, không phải không vận động, khơng mâu thuẫn, mà là
trong q trình vĩnh viễn của vận động, của sự nảy sinh mâu thuẫn và sự giải quyết
những mâu thuẫn đó”.
5
2
0
b. Nhận thức là một q trình biện chứng có vận động và phát triển, là quá trình đi từ
chưa biết đến biết, từ biết ít tới biết nhiều hơn, từ biết chưa đầy đủ đến đầy đủ hơn.
Đây là một q trình, khơng phải nhận thức một lần là xong, mà có phát triển, bổ
sung và hồn thiện:
-
“Trong lý luận nhận thức, cũng như trong tất cả những lĩnh vực khác của khoa học,
cần suy luận một cách biện chứng, nghĩa là đừng giả định rằng nhận thức của chúng ta
là bất di bất dịch và cố sẵn, mà phải phân tích xem sự hiểu biết nảy sinh ra từ sự
không hiểu biết như thế nào, sự hiểu biết khơng đầy đủ và khơng chính xác trở thành
đầy đủ hơn và chính xác hơn như thế nào”. Trong quá trình nhận thức của con người
ln ln nảy sinh quan hệ biện chứng giữa nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý
luận; nhận thức thông thường và nhận thức khoa học. Nhận thức kinh nghiệm là nhận
thức dựa trên sự quan sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng hay các thí nghiệm, thực
nghiệm khoa học. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là những tri thức kinh nghiệm
thông thường hoặc tri thức thực nghiệm khoa học. Nhận thức lý luận là nhận thức sự
vật, hiện tượng một cách gián tiếp dựa trên các hình thức tư duy trừu tượng như khái
niệm, phán đốn, suy luận để khái qt tính bản chất, quy luật, tính tất yếu của các sự
vật, hiện tượng. Nhận thức thông thường là nhận thức được hình thành một cách tự
phát, trực tiếp trong hoạt động hằng ngày của con người. Nhận thức khoa học là nhận
thức được hình thành chủ động, tự giác của chủ thể nhằm phản ánh những mối liên hệ
bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của đối tượng nghiên cứu.
c. Nhận thức là quá trình tác động biện chứng giữa chủ thể và khách thể thông qua hoạt
động thực tiễn của con người:
-
Chủ thể nhận thức: Theo nghĩa rộng đó là xã hội, là lồi người nói chung. Hay cụ thể
hơn đó là những nhóm người như các giai cấp, dân tộc, tập thể, các nhà bác học.v.v..
Nhưng không phải con người bất kỳ nào cũng là chủ thể nhận thức, con người chỉ trở
thành chủ thể nhận thức khi tham gia vào các hoạt động xã hội nhằm biến đổi và nhận
thức khách thể. Do vậy, con người (cá nhân, nhóm người, giai cấp, dân tộc hoặc cả
nhân loại) là chủ thể tích cực, sáng tạo của nhận thức. Khi nhận thức, các yếu tố của
chủ thể như lợi ích, lý tưởng, tài năng, ý chí, phẩm chất đạo đức… đều tham gia vào
6
2
0
quá trình nhận thức với những mức độ khác nhau và ảnh hưởng đến kết quả nhận
thức.
-
Khách thể nhận thức là một bộ phận nào đó của hiện thực mà nhận thức hướng tới
nắm bắt, phản ánh, nó nằm trong phạm vi tác động của hoạt động nhận thức. Do vậy,
khách thể nhận thức khơng đồng nhất hồn tồn với hiện thực khách quan, phạm vi
của khách thể nhận thức được mở rộng đến đâu là tuỳ theo sự phát triển của nhận
thức, của khoa học.
-
Hoạt động thực tiễn của con người là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và là
tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt
tới tính chân lý khách quan hay khơng, hồn tồn khơng phải là một vấn đề lý luận,
mà là một vấn đề thực tiễn”. Có thể thấy, nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực
khách quan một cách tích cực, chủ động, sáng tạo bởi con người trên cơ sở thực tiễn
mang tính lịch sử cụ thể.
-
Mối quan hệ biện chứng chủ thể - khách thể
Trong hoạt động nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn, chủ thể nhận thức và
khách thể nhận thức có quan hệ gắn bó với nhau, trong đó khách thể đóng vai trị
quyết định chủ thể. Chính sự tác động của khách thể lên chủ thể đã tạo nên hình ảnh
nhận thức về khách thể. Song chủ thể phản ánh khách thể như một q trình sáng tạo,
trong đó chủ thể ngày càng nắm bắt được bản chất, quy luật của khách thể. Cả chủ thể
nhận thức và khách thể nhận thức đều mang tính lịch sử - xã hội.
II.
-
Nguyên tắc cơ bản của nhận thức:
Một là nguyên tắc thừa nhận sự vật khách quan tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức
con người. Đây là nguyên tắc nền tảng của lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật
biện chứng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định các sự vật tồn tại khách quan,
độc lập với ý thức, với cảm giác của con người và loài người nói chung, mặc dù người
ta có thể chưa biết đến chúng. Trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán, V.I. Lênin viết: “Chủ nghĩa duy vật nói chung thừa nhận rằng tồn
tại thực tại khách quan (vật chất) là không phụ thuộc vào ý thức, cảm giác, kinh
nghiệm, vv., của loài người. Chủ nghĩa duy vật lịch sử thừa nhận rằng tồn tại xã hội
7
2
0
khơng phụ thuộc vào ý thức xã hội của lồi người. Trong hai trường hợp đó, ý thức
chỉ là phản ánh của tồn tại, nhiều lắm cũng chỉ là một phản ánh gần đúng (ăn khớp,
chính xác một cách lý tưởng)”.
-
Hai là công nhận cảm giác, tri giác, ý thức nói chung là hình ảnh của thế giới khách
quan. Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, các cảm giác của chúng ta (và mọi tri thức)
đều là sự phản ánh, đều là hình ảnh chủ quan của hiện thực khách quan: “Cảm giác là
một hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan” . Nhưng không phải sự phản ánh thụ
động, cứng đờ của hiện thực khách quan giống như sự phản ánh vật lý của cái gương
trong quan niệm của chủ nghĩa duy vật trước C. Mác. Đó chính là quan niệm trực
quan của chủ nghĩa duy vật siêu hình, khơng đánh giá đúng mức vai trị tích cực của
chủ thể của nhân cách và hoạt động thực tiễn của con người trong phản ánh.
-
Ba là lấy thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra hình ảnh động, hình ảnh sai của cảm giác,
ý thức nói chung. Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm
tra hình ảnh đúng, hình ảnh sai của cảm giác, ý thức nói chung, là tiêu chuẩn để kiểm
tra chân lý. Tất nhiên, thực tiễn mà chúng ta dùng làm tiêu chuẩn trong lý luận về
nhận thức, phải bao gồm cả thực tiễn của những sự quan sát, những sự phát hiện về
thiên văn học...”. Do vậy, “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ
nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”.
III.
-
Thực tiễn:
Hoạt động con người chia làm hai lĩnh vực cơ bản. Một trong hai lĩnh vực quan trọng
đó là: hoạt động thực tiễn.
-
Thực tiễn (theo quan điểm triết học Mác xít): là những hoạt động vật chất cảm tính,
có mục đích, có tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo, làm biến đổi tự
nhiên và xã hội.
1. Tính vật chất trong hoạt động thực tiễn:
-
Đó là hoạt động có mục đích của xã hội, phải sử dụng những phương tiện vật chất đề
tác động tới đối tượng vật chất nhất định của tự nhiên hay xã hội, làm biến đổi nó, tạo
ra sản phẩm vật chất nhằm thoả mãn nhu cầu của con người.
8
2
0
-
Chỉ có thực tiễn mới trực tiếp làm thay đổi thế giới hiện thực, mới thực sự mang tính
chất phê phán và cách mạng. Đây là đặc điểm quan trọng nhất của thực tiễn, là cơ sở
đề phân biệt hoạt động thực tiễn khác với hoạt động lý luận của con người.
2. Tính chất lịch sử xã hội:
-
Ở những giai đoạn lịch sử khác nhau, hoạt động thực tiễn diễn ra là khác nhau, thay
đổi về phương thức hoạt động.
-
Thực tiễn là sản phẩm lịch sử toàn thế giới, thể hiện những mối quan hệ muôn vẻ và
vô tận giữa con người với giới tự nhiên và con người với con người trong quá trình
sản xuất vật chất và tinh thần, là phương thúc cơ bản của sự tồn tại xã hội của con
người
3. Thực tiễn của con người được tiến hành dưới nhiều hình thức:
-
Trong quá trình hoạt động cải tạo thế giới, con người tạo ra một hiện thực mới, một
“thiên nhiên thứ hai”. Đó là thế giới của văn hóa tinh thần và vật chất, những điều
kiện mới cho sự tồn tại của con người, những điều kiện này không được giới tự nhiên
mang lại dưới dạng có sẵn. Đồng thời với q trình đó, con người cũng phát triển và
hồn thiện bản thân mình. Chính sự cải tạo hiện thực thông qua hoạt động thực tiễn là
cơ sở của tất cả những biểu hiện khác có tính tích cực, sáng tạo của con người. Con
người khơng thích nghi một cách thụ động mà thơng qua hoạt động của mình, tác
động một cách tích cực để biến đổi và cải tạo thế giới bên ngoài. Hoạt động đó chính
là thực tiễn.
a. Hoạt động sản xuất vật chất
-
Là hoạt động thực tiễn quan trọng nhất của xã hội.Thực tiễn sản xuất vật chất là tiền
đề xuất phát để hình thành những mối quan hệ đặc biệt của con người đối với thế giới,
giúp con người vượt ra khỏi khn khổ tồn tại của các lồi vật.
-
Ví dụ: Hoạt động gặt lúa của nông dân, lao động của các cơng nhân trong các nhà
máy, xí nghiệp…
b. Hoạt động chính trị xã hội
-
Là hoạt dộng của con người trong các lĩnh vực chính trị xã hội nhằm phát triển và
hồn thiện các thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội làm địa bàn rộng rãi cho hoạt động
9
2
0
sản xuất và tạo ra những môi trường xã hội xứng đáng với bản chất con người bằng
cách đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
Ví Dụ: Hoạt động bầu cử đại biểu Quốc hội, tiến hành Đại hội Đồn Thanh niên
trường học, Hội nghị cơng đồn
c. Hoạt động thực nghiệm khoa học
-
Là một hình thức đặc biệt của thực tiễn. Đây là hoạt động được tiến hành trong những
điều kiện do con người tạo ra gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự
nhiên và xã hội nhằm xác định các quy luật biến đổi và phát triển của đối tượng
nghiên cứu. Dạng hoạt động thực tiễn này ngày càng có vai trị quan trọng trong sự
phát triển của xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng khoa học và cơng nghệ hiện
đại.
Ví dụ: Hoạt động nghiên cứu, làm thí nghiệm của các nhà khoa học để tìm ra các vật
liệu mới, nguồn năng lượng mới, vác-xin phòng ngừa dịch bệnh mới.
IV.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
1. Thực tiễn là cơ sở, mục đích, là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức:
a. Thực tiễn là cơ sở của nhận thức:
-
Điều này có nghĩa là thực tiễn cung cấp tài liệu cho nhận thức, cho lý luận. Mọi tri
thức dù trực tiếp hay gián tiếp đối với người này hay người kia, thế hệ nay hay thế hệ
khác, ở trình độ kinh nghiệm hay lý luận, xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn.
-
Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc thế giới phải bộc lộ
những thuộc tính, những tính quy luật để cho con người nhận thức chúng.
-
Sở dĩ như vậy, bởi con người quan hệ với hế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà
bằng thực tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận
thức ở con người được hình thành và phát triển.
-
Ban đầu, con người thu nhận những tài liệu cảm tính. Sau đó, con người tiến hành so
sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa… để phản ánh bản chất, quy
luật vận động của các sự vật, hiện tượng trong thế giới, từ đó xây dựng thành các khoa
học, lý luận.
10
2
0
-
Liên hệ: Qua những lần quan sát khi nung nóng thanh sắt thì thanh sắt chuyển màu
vàng rực, từ đó đưa ra kết luận thanh sắt sẽ bị chuyển màu khi bị nung nóng. Hoặc,
sau nhiều lần đun nước sơi kiểm tra bằng nhiệt kế thì chúng ta phát hiện ra rằng nước
sôi ở nhiệt độ 100 độ C.
b. Thực tiễn là mục đích của nhận thức:
-
Thực tiễn là mục đích của nhận thức vì nhận thức dù về vấn đề khía cạnh hay ở lĩnh
vực gì đi chăng nữa thì cũng phải quay về phục vụ thực tiễn. Nhận thức mà khơng
phục vụ thực tiễn thì khơng phải là “nhận thức” theo đúng nghĩa.
-
Do vậy, kết quả nhận thức phải hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn. Lý luận, khoa học chỉ có
ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn.
-
Liên hệ: Để bảo vệ môi trường, nhiều người đã nghĩ ra các vật liệu thân thiện với môi
trường như cốc tái chế, ống hút giấy... Việc tạo ra những vật liệu, đồ dùng này chính
là nhằm phục vụ cho mục đích bảo vệ môi trường.
c. Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức.
-
Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức là thực tiễn cung cấp năng
lượng nhiều nhất, nhanh chóng nhất giúp con người nhận thức ngày càng toàn diện và
sâu sắc về thế giới.
-
Trong quá trình hoạt động thực tiễn làm biến đổi thế giới, con người cũng biến đổi
luôn cả
-
bản thân mình, phát triển năng lực thể chất, trí tuệ của mình. Nhờ đó, con người ngày
càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của thế giới, làm phong
phú và sâu sắc tri thức của mình về thế giới.
-
Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức. Nhu
cầu thực tiễn địi hỏi phải có tri thức mới, phải tổng kết kinh nghiệm, khái quát lý
luận, nó thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các ngành khoa học. Khoa học ra đời
chính vì chúng cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người.
-
Liên hệ: Chẳng hạn, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn con người cần phải “đo đạc diện
tích và đo lường sức chứa của những cái bình, từ sự tính tốn thời gian và sự chế tạo
cơ khí” mà tốn học đã ra đời và phát triển.
11
2
0
2. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý:
-
Theo các nhà kinh điển của triết học Mác – Lênin đã khẳng định: vấn đề tìm hiểu xem
tư duy con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay khơng hồn tồn khơng phải
là một vấn đề lý luận, mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người
phải chứng minh chân lý.
-
Tất nhiên, nhận thức khoa học có tiêu chuẩn riêng, đó là tiêu chuẩn logic nhưng tiêu
chuẩn logic không thể thay thế cho tiêu chuẩn thực tiễn và xét đến cùng nó cũng phụ
thuộc vào tiêu chuẩn thực tiễn.
-
Chúng ta cần phải hiểu thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý một cách biện chứng. Tiêu
chuẩn này vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối:
+ Tiêu chuẩn thực tiễn có tính tuyệt đối vì thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để kiểm
nghiệm chân lý. Thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử có thể xác nhận được chân lý.
+ Tiêu chuẩn thực tiễn có cả tính tương đối vì thực tiễn không đứng nguyên một chỗ
mà luôn biến đổi và phát triển. Thực tiễn là một quá trình và được thực hiện bởi con
người nên khơng tránh khỏi có cả yếu tố chủ quan.
-
Tiêu chuẩn thực tiễn không cho phép biến những tri thức của con người thành những
chân lý tuyệt đích cuối cùng. Trong q trình phát triển của thực tiễn và nhận thức,
những tri thức đạt được trước kia và hiện nay vẫn phải thường xuyên chịu kiểm
nghiệm bởi thực tiễn tiếp theo, tiếp tục được thực tiễn bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa
và phát triển hoàn thiện hơn.
-
Liên hệ: Bạn thấy có một loại hoa quả mà bạn chưa ăn bao giờ. Bạn muốn biết nó có
ngon hay khơng (đối với bạn mà nói đây là chân lý). Dù người khác có nói nó ngon,
nhưng bạn cũng khơng thể khẳng định là nó ngon được cách duy nhất để xác định nó
là phải nếm thử.
V.
-
Các giai đoạn của quá trình nhận thức:
Theo quan điểm tư duy biện chứng, hoạt động nhận thức của con người đi từ trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Con
đường nhận thức đó được thực hiện qua các giai đoạn từ đơn giản đến phức tạp, từ
thấp đến cao, từ cụ thể đến trừu tượng, từ hình thức bên ngồi đến bản chất bên trong.
12
2
0
Căn cứ vào tính chất phản ánh có thể chia toàn bộ hoạt động nhận thức thành 2 giai
đoạn là nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính.
1. Giai đoạn 1: Nhận thức cảm tính:
-
Nhận thức cảm tính hay còn được biết tới là trực quan sinh động (phản ánh thuộc tính
bên ngồi thơng qua cảm giác và tri giác) là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận
thức. Đây là một trong các giai đoạn của quá trình nhận thức mà con người sử dụng
các giác quan để tác động vào sự vạt, sự việc nhằm nắm bắt sự vật, sự việc ấy. Nhận
thức cảm tính gồm các hình thức sau:
+ Cảm giác: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh các thuộc tính riêng lẻ của các
sự vật, hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp vào các giác quan của con người. Cảm
giác là nguồn gốc của mọi sự hiểu biết, là kết quả của sự chuyển hố những năng
lượng kích thích từ bên ngồi thành yếu tố ý thức.
+ Tri giác: hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối tồn vẹn sự vật khi sự
vật đó đang tác động trực tiếp vào các giác quan con người. Tri giác là sự tổng hợp
các cảm giác. So với cảm giác thì tri giác là hình thức nhận thức đầy đủ hơn, phong
phú hơn. Trong tri giác chứa đựng cả những thuộc tính đặc trưng và khơng đặc trưng
có tính trực quan của sự vật. Trong khi đó, nhận thức địi hỏi phải phân biệt được đâu
là thuộc tính đặc trưng, đâu là thuộc tính khơng đặc trưng và phải nhận thức sự vật
ngay cả khi nó khơng cịn trực tiếp tác động lên cơ quan cảm giác con người. Do vậy
nhận thức phải vươn lên hình thức nhận thức cao hơn.
+ Biểu tượng: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối hồn chỉnh sự vật
do sự hình dung lại, nhớ lại sự vật khi sự vật khơng cịn tác động trực tiếp vào các
giác quan. Trong biểu tượng vừa chứa đựng yếu tố trực tiếp vừa chứa đựng yếu tố
gián tiếp. Bởi vì, nó được hình thành nhờ có sự phối hợp, bổ sung lẫn nhau của các
giác quan và đã có sự tham gia của yếu tố phân tích, tổng hợp. Cho nên biểu tượng
phản ánh được những thuộc tính đặc trưng nổi trội của các sự vật. Đặc điểm của nhận
thức cảm tính là phản ánh trực tiếp đối tượng bằng các giác quan của chủ thể nhận
thức. Phản ánh bề ngoài, cả cái tất nhiên và ngẫu nhiên, cả cái bản chất và không bản
13
2
0
chất. Giai đoạn này có thể có trong tâm lý động vật. Hạn chế của nhận thức cảm tính
là chưa khẳng định được những mặt, những mối liên hệ bản chất, tất yếu bên trong
của sự vật. Để khắc phục, nhận thức phải vươn lên giai đoạn cao hơn, giai đoạn lý
tính.
2. Giai đoạn 2: Nhận thức lý tính:
-
Nhận thức lý tính hay cịn gọi là tư duy trừu tượng (phản ánh thực chất bên trong, bản
chất của sự việc) là giai đoạn phản ánh gián tiếp trừu tượng khái quát sự vật,được thể
hiện qua các hình thức như khái niệm,phán đốn,suy luận. Các hình thức của nhận
thức lý tính bao gồm:
+ Khái niệm: là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc tính bản
chất của sự vật. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện
chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay lớp sự vật. Vì vậy, các khái niệm vừa
có tính khách quan vừa có tính chủ quan, vừa có mối quan hệ tác động qua lại với
nhau, vừa thường xuyên vận động và phát triển. Khái niệm có vai trị rất quan trọng
trong nhận thức bởi vì, nó là cơ sở để hình thành các phán đoán và tư duy khoa học.
+ Phán đốn: là hình thức tư duy trừu tượng, liên kết các khái niệm với nhau để khẳng
định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính của đối tượng. Thí dụ: “Dân tộc Việt
Nam là một dân tộc anh hùng” là một phán đốn vì có sự liên kết khái niệm “dân tộc
Việt Nam” với khái niệm “anh hùng”. Theo trình độ phát triển của nhận thức, phán
đốn được phân chia làm ba loại là phán đốn đơn nhất (ví dụ: đồng dẫn điện), phán
đốn đặc thù (ví dụ: đồng là kim loại) và phán đốn phổ biến (ví dụ: mọi kim loại đều
dẫn điện). Ở đây phán đoán phổ biến là hình thức thể hiện sự phản ánh bao quát rộng
lớn nhất về đối tượng.
+ Suy lý cũng là một hình thức của tư duy trừu tượng trong đó các phán đoán đã liên
kết với nhau theo quy tắc: phán đoán cuối cùng (kết luận) được suy ra từ những phần
đốn đã biết làm tiền đề. Có hai loại suy luận chính quy nạp và diễn dịch. Quy nạp là
loại hình suy luận trong đó từ tiền đề là những tri thức về riêng từng đối tượng người
ta khái quát thành tri thức chung cho cả lớp đối tượng,tức là tư duy vận động từ cái
đơn nhất đến cái chung, cái phổ biến.Diễn dịch là loại hình suy luận trong đó từ tiền
14
2
0
đề là tri thức chung về cả lớp đối tượng người ta rút ra kết luận là tri thức về riêng của
từng đối tượng hay bộ phận đối tượng tức là tư duy vận động từ cái chung đến cái ít
chung hơn,đến cái đơn nhất ( cái riêng ). Trong quá trình nhận thức của con người,
hai loại suy luận này có liên hệ chặt chẽ với nhau bổ sung cho nhau.Suy lý là phương
thức quan trọng để tư duy của con người đi từ cái đã biết đến cái chưa biết một cách
gián tiếp,rút ngắn thời gian trong việc xác nhận tri thức mới.Tính chân thực của kiến
thức thu thập được nhờ suy lí phụ thuộc vào tính chân thực của các phán đoán tiền đề
và sự tuân thủ chặt chẽ đúng đắn các quy tắc logic của chủ thể.
Chú ý:
-
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn khác nhau về chất nhưng lại
thống nhất với nhau liên hệ bổ sung cho nhau trong q trình nhận thức của con
người.Nhận thức cảm tính là cơ sở cho nhận thức lý tính, khơng có nhận thức cảm
tính thì khơng có nhận thức lý tính .Ngược lại nhờ có nhận thức lý tính mà con người
mới đi sâu nhận thức được bản chất của sự vật hiện tượng . Trong thực tiễn cần tránh
tuyệt đối hóa vai trị của nhận thức cảm tính ,hạ thấp và phủ nhận vai trị của nhận
thức lý tính như vậy sẽ rơi vào chủ nghĩa duy cảm.Đồng thời tránh cường điệu thái
q vai trị của nhận thức lý tính của trí tuệ dẫn đến hạ thấp hoặc phủ nhận vai trị của
nhận thức cảm tính của cảm giác rơi vào chủ nghĩa duy lý.
-
Sự thống nhất giữa trực quan sinh động, tư duy trừu tượng và thực tiễn:
Một vòng khâu của quá trình nhận thức được bắt đầu từ trực quan sinh động động đến
tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn; trong đó, thực tiễn vừa là cơ
sở vừa là khâu kết thúc và đồng thời có vai trị kiểm tra tính chân thực của các kết quả
nhận thức.Q trình nhận thức thơng qua các vòng khâu nhận thức này để ngày càng
tiến sâu hơn vào bản chất của các sự vật hiện tượng. Kết thúc vòng khâu này cũng
đồng thời là sự bắt đầu của một phịng khơng mới của sự nhận thức sâu sắc hơn toàn
diện hơn. Cứ thế nhận thức của con người là vô tận. Mỗi nấc thang mà con người đạt
được trong quá trình nhận thức đều là kết quả của cảm nhận thức cảm tính và nhận
thức lý tính được thực hiện trên cơ sở của hoạt động thực tiễn. Vòng khâu của nhận
thức từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực
15
2
0
tiễn đều lập đi lập lại nhưng sâu hơn về bản chất, cũng chính là q trình giải quyết
những mâu thuẫn không ngừng nảy sinh trong nhận thức và mâu thuẫn giữa chưa biết
và đã biết giữa biết ít và biết nhiều, giữa chân lý và sai lầm. Cứ mỗi khi mâu thuẫn
được giải quyết thì nhận thức của con người đã tiến gần tới chân lý hơn.
VI.
-
Chân lý:
Triết học Mác - Lênin cho rằng, chân lý là những tri thức phù hợp với hiện thực khách
quan và được thực tiễn kiểm nghiệm. Như vậy chân lý là sản phẩm của quá trình nhận
thức về thế giới của con người. Nó được hình thành, phát triển dần dần từng bước và
phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể của nhận thức, vào hoạt động thực tiễn và hoạt
động nhận thức của con người.
1. Các tính chất của chân lý:
a. Chân lý có tính khách quan.
-
Tính khách quan của chân lý biểu hiện nội dung phản ánh của chân lý độc lập với ý
thức của con người và loài người, không phải là sản phẩm thuần tuý chủ quan, mà nội
dung nó thuộc về khách quan, do thế giới khách quan quy định.
-
Ví dụ, luận điểm cho rằng: “Trái đất quay xung quanh mặt trời” là một chân lý. Chân
lý ấy có tính khách quan bởi vì nội dung luận điểm đó phản ánh đúng sự kiện có thực,
tồn tại độc lập đối với mọi người.
-
Khẳng định chân lý có tính khách quan là một trong những đặc điểm nổi bật dùng để
phân biệt quan niệm về chân lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng so với chủ nghĩa
duy tâm và thuyết khơng thể biết. Vì vậy trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn
phải xuất phát từ hiện thực khách quan, hoạt động theo quy luật khách quan.
b. Chân lý có tính cụ thể:
-
Khơng có chân lý chung chung trừu tượng đúng cho mọi điều kiện hoàn cảnh, mà chỉ
có chân lý cụ thể, xác định, gắn với điều kiện, hồn cảnh, gắn với khơng gian, thời
gian cụ thể. Vì vậy, bất cứ chân lý nào cũng gắn liền với những điều kiện lịch sử - cụ
thể. Nếu thốt ly tính cụ thể, thì những tri thức được hình thành trong quá trình nhận
thức sẽ rơi vào sự trừu tượng thuần tuý. Việc nắm vững nguyên tắc tính cụ thể của
chân lý có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nó
16
2
0
đòi hỏi khi xem xét, đánh giá mỗi sự vật, hiện tượng, việc làm của con người phải dựa
trên quan điểm lịch sử - cụ thể.
-
Ví dụ, mọi phát biểu định lý trong các khoa học đều kèm theo các điều kiện xác định
nhằm đảm bảo tính chính xác của nó: nước sơi ở 100°C với điều kiện nước ngun
chất và áp suất 1 atmotphe, ...
c. Chân lý có tính tuyệt đối và tuơng đối;
-
Tính tuyệt đối của chân lý là tính phù hợp hồn tồn đầy đủ giữa nội dung phản ánh
của tri thức với hiện thực khách quan. Về ngun tắc, con người có thể đạt tới tính
tuyệt đối của chân lý. Bởi vì, khả năng nhận thức của con người là vơ hạn. Song khả
năng đó bị hạn chế bởi những điều kiện cụ thể, bởi điều kiện xác định về khơng gian,
thời gian.
-
Tính tương đối của chân lý là tính phù hợp nhưng chưa hồn tồn đầy đủ giữa nội
dung phản ánh của những tri thức với hiện thực khách quan. Điều đó có nghĩa giữa
nội dung của chân lý với khách thể phản ánh chỉ mới phù hợp từng phần, từng bộ
phận, ở một khía cạnh nào đó.
-
Tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý khơng tồn tại tách rời nhau mà có sự
thống nhất biện chứng với nhau. Tính tuyệt đối của chân lý là tổng số các tính tương
đối; ngược lại, trong mỗi tính tương đối bao giờ cũng chứa đựng những yếu tố của
tính tuyệt đối.
-
Nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tính tương đối và tính tuỵêt đối của
chân lý có ý nghĩa quan trọng trong việc phê phán và khắc phục sai lầm cực đoan
trong nhận thức và hành động.
-
Ví dụ: trong giới hạn mặt phẳng (có độ cong bằng 0) thì tổng các góc trong của tam
giác tuyệt đối bằng 1800 (tính tuyệt đối), nhưng nếu điều kiện đó thay đổi đi (có độ
cong khác 0) thì định lý đó khơng cịn đúng nữa (tính tương đối), nó cần phải được bổ
sung bằng định lý mới (sự phát triển quá trình nhận thức dần tới chân lý đầy đủ hơn –
tức chân lý tuyệt đối).
2. Vai trò của chân lý với thực tiễn:
17
2
0
-
Hoạt động thực tiễn chỉ có thể thành cơng và có hiệu quả một khi con người vận dụng
được những tri thức đúng đắn về thực tế khách quan trong chính hoạt động thực tiễn
của mình. Vì vậy, chân lý là một trong những điều kiện tiên quyết bảo đảm sự thành
cơng và tính hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.
-
Mối quan hệ giữa chân lý và hoạt động thực tiễn là mốì quan hệ biện chứng trong quá
trình vận động, phát triển của cả chân lý và thực tiễn: chân lý phát triển nhờ thực tiễn
và thực tiễn phát triển nhờ vận dụng đúng đắn những chân lý mà con người đã đạt
được trong hoạt động thực tiễn.
-
Quan điểm biện chứng về mối quan hệ giữa chân lý và thực tiễn đòi hỏi trong hoạt
động nhận thức, con người cần phải xuất phát từ thực tiễn để đạt được chân lý, phải
coi chân lý cũng là một quá trình. Đồng thời, phải thường xuyên tự giác vận dụng
chân lý vào trong hoạt động thực tiễn đc phát triển thực ticn, nâng cao hiệu quả hoạt
động cải biến giới tự nhiên và xã hội.
VII.
Các phương pháp nhận thức khoa học:
1. Các phương pháp nhận thức khoa học ở trình độ kinh nghiệm:
a. Phương pháp Quan sát khoa học:
-
Khái niệm: Quan sát khoa học là phương pháp nghiên cứu kinh nghiệm thơng qua tri
giác có chủ đích (theo chương trình lập sẵn) của chủ thể (nhà khoa học) để xác định
các sự kiện (thuộc tính, quan hệ) của khách thể (sự vật, hiện tượng) riêng lẻ trong điều
kiện tự nhiên vốn có của nó.
-
Để hỗ trợ cho các giác quan, để nâng cao độ chính xác và tính khách quan của kết quả
quan sát, các nhà khoa học thường sử dụng các phương tiện, công cụ ngày càng tinh
vi, nhanh nhạy. Ví dụ như để nghiên cứu sự thay đổi của các hành tinh, các nhà thiên
văn học sử dụng kính thiên văn vô tuyến để quan sát, hay như các nhà sinh học sử
dụng kính hiển vi để quan sát các loại vi khuẩn từ đó nghiên cứu về chúng.
b. Phương pháp thí nghiệm khoa học:
-
Khái niệm: Thí nghiệm khoa học là phương pháp nghiên cứu kinh nghiệm thông qua
tri giác có chủ đích (theo chương trình lập sẵn) của chủ thể (nhà khoa học) để xác
định các sự kiện (thuộc tính, quan hệ) của khách thể (sự vật, hiện tượng) riêng lẻ trong
18
2
0
điều kiện nhân tạo, nghĩa là có sử dụng các phương tiện vật chất để can thiệp vào
trạng thái tự nhiên của khách thể, để buộc nó bộc lộ ra những thuộc tính, quan hệ cần
khảo sát dưới dạng “thuần khiết”.
-
Nhờ vào thí nghiệm khoa học, người ta khám phá ra những thuộc tính, quan hệ của
khách thể mà trong điều kiện tự nhiên khơng thể phát hiện ra được
-
Thí nghiệm khoa học bao giờ cũng dựa trên một ý tưởng, một giả thuyết hay một lý
thuyết khoa học nhất định, và được tổ chức rất chặt chẽ, tinh vi từ khâu lựa chọn thí
nghiệm, lập kế hoạch, tiến hành, thu nhận và lý giải kết quả thí nghiệm. Thí nghiệm
khoa học là kiểu hoạt động cơ bản của thực tiễn khoa học.
-
Thí nghiệm khơng chỉ nhằm thu thập các dữ kiện khoa học để tạo cơ sở cho sự khái
quát lý luận mà còn nhằm bác bỏ hoặc chứng minh (kiểm chứng) một giả thuyết khoa
học nào đó. Trong nhận thức khoa học, giả thuyết giữ vai trò quan trọng. Có thể nói
giả thuyết là một hình thức phát triển của khoa học. Nhờ thí nghiệm người ta chính
xác hoá, chỉnh lý các giả thuyết và lý thuyết khoa học. Ngày nay thí nghiệm đã được
sử dụng rộng rãi trong khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và cả trong khoa học xã
hội. Thí nghiệm như một dạng cơ bản của thực tiễn, giữ vai trò là cơ sở của nhận thức
khoa học và là tiêu chuẩn để kiểm tra tính chân lý của nhận thức khoa học.
-
Ví dụ nhờ vào thí nghiệm cho một thanh sắt vào dung dịch đồng sunfat thì xuất hiện
một lớp đồng bám vào thanh sắt từ đó ta biết được sắt có tính khử mạnh hơn đồng.
2. Các phương pháp nhận thức khoa học ở trình độ lý thuyết:
a. Phương pháp thống nhất giữa phân tích và tổng hợp:
-
Phân tích là phương pháp phân chia cái toàn bộ ra thành từng bộ phận để đi sâu nhận
thức các bộ phận đó.
-
Tổng hợp là phương pháp thống nhất các bộ phận đã được phân tích nhằm nhận thức
cái tồn bộ.
-
Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp nhận thức đối lập nhưng thống nhất với
nhau giúp tìm hiểu đối tượng như một chỉnh thể toàn vẹn.
-
Nội dung: Sự thống nhất của phân tích và tổng hợp khơng chỉ là điều kiện tất yếu của
sự trừu tượng hóa và khái quát hóa mà còn là một yếu tố quan trọng của phương pháp
19
2
0
biện chứng. Khơng có phân tích thì khơng hiểu được những cái bộ phận cấu thành cái
toàn bộ, và ngược lại, khơng có tổng hợp thì khơng hiểu cái tồn bộ như một chỉnh
thể được tạo thành như thế nào từ những cái bộ phận nào. Vì vậy, muốn hiểu thực chất
của đối tượng mà chỉ có phân tích hoặc chỉ có tổng hợp khơng thơi thì chưa đủ mà
phải kết hợp chúng với nhau.
-
Tuy nhiên, trong một số trường hợp nghiên cứu nhất định, bản thân mỗi phương pháp
vẫn có ưu thế riêng của mình.
-
Ví dụ để hiểu rõ dịch đã ảnh hưởng như thế nào đến công ty xuất khẩu gạo thì cần đi
vào phân tích doanh thu, chi phí, sản lượng, kim ngạch, lợi nhuận của cơng ty sau đó
tổng hợp lại và đánh giá kết quả để nắm được cơng ty đó đã bị ảnh hưởng như thế
nào.
b. Phương pháp thống nhất giữa quy nạp và diễn dịch:
-
Quy nạp là phương pháp suy luận đi từ tiền đề chứa đựng tri thức riêng đến kết luận
chứa đựng tri thức chung.
Ví dụ: Nghiên cứu đặc điểm của từng cá thể sóc chuột, từ đó rút ra kết luận về đặc
điểm chung của lồi sóc chuột nói chung.
-
Cịn diễn dịch là phương pháp suy luận đi từ tiền đề chứa đựng tri thức chung đến kết
luận chứa đựng tri thức riêng.
Ví dụ: Với những kiến thức chung về lồi hoa, ta đi tìm hiểu cụ thể về riêng loài hoa
cúc.
-
Quy nạp và diễn dịch là hai phương pháp nhận thức đối lập nhưng thống nhất với
nhau giúp phát hiện ra những tri thức mới về đối tượng.
-
Nội dung: Phương pháp quy nạp giúp cho việc khái quát kinh nghiệm thực tiễn về
những cái riêng để có được tri thức kết luận chung. Quy nạp đóng vai trị lớn lao trong
việc khám phá ra quy luật, đề ra các giả thuyết.
-
Tuy nhiên, quy nạp cũng có những hạn chế của nó, nhất là đối với loại quy nạp phổ
thơng theo lối liệt kê giản đơn. Thuộc tính chung được rút ra bằng quy nạp từ một số
hiện tượng lại có thể khơng có ở tất cả các hiện tượng cùng loại nếu nó khơng liên
quan đến bản chất của hiện tượng và do các điều kiện bên ngoài quy định. Quy nạp
20
2
0
Căn cứ vào tính chất phản ánh có thể chia toàn bộ hoạt động nhận thức thành 2 giai
đoạn là nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính.
1. Giai đoạn 1: Nhận thức cảm tính:
-
Nhận thức cảm tính hay còn được biết tới là trực quan sinh động (phản ánh thuộc tính
bên ngồi thơng qua cảm giác và tri giác) là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận
thức. Đây là một trong các giai đoạn của quá trình nhận thức mà con người sử dụng
các giác quan để tác động vào sự vạt, sự việc nhằm nắm bắt sự vật, sự việc ấy. Nhận
thức cảm tính gồm các hình thức sau:
+ Cảm giác: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh các thuộc tính riêng lẻ của các
sự vật, hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp vào các giác quan của con người. Cảm
giác là nguồn gốc của mọi sự hiểu biết, là kết quả của sự chuyển hố những năng
lượng kích thích từ bên ngồi thành yếu tố ý thức.
+ Tri giác: hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối tồn vẹn sự vật khi sự
2
0
vật đó đang tác động trực tiếp vào các giác quan con người. Tri giác là sự tổng hợp
các cảm giác. So với cảm giác thì tri giác là hình thức nhận thức đầy đủ hơn, phong
phú hơn. Trong tri giác chứa đựng cả những thuộc tính đặc trưng và khơng đặc trưng
có tính trực quan của sự vật. Trong khi đó, nhận thức địi hỏi phải phân biệt được đâu
là thuộc tính đặc trưng, đâu là thuộc tính khơng đặc trưng và phải nhận thức sự vật
ngay cả khi nó khơng cịn trực tiếp tác động lên cơ quan cảm giác con người. Do vậy
nhận thức phải vươn lên hình thức nhận thức cao hơn.
+ Biểu tượng: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối hồn chỉnh sự vật
do sự hình dung lại, nhớ lại sự vật khi sự vật khơng cịn tác động trực tiếp vào các
giác quan. Trong biểu tượng vừa chứa đựng yếu tố trực tiếp vừa chứa đựng yếu tố
gián tiếp. Bởi vì, nó được hình thành nhờ có sự phối hợp, bổ sung lẫn nhau của các
giác quan và đã có sự tham gia của yếu tố phân tích, tổng hợp. Cho nên biểu tượng
phản ánh được những thuộc tính đặc trưng nổi trội của các sự vật. Đặc điểm của nhận
thức cảm tính là phản ánh trực tiếp đối tượng bằng các giác quan của chủ thể nhận
thức. Phản ánh bề ngoài, cả cái tất nhiên và ngẫu nhiên, cả cái bản chất và không bản
13
2
0
chất. Giai đoạn này có thể có trong tâm lý động vật. Hạn chế của nhận thức cảm tính
là chưa khẳng định được những mặt, những mối liên hệ bản chất, tất yếu bên trong
của sự vật. Để khắc phục, nhận thức phải vươn lên giai đoạn cao hơn, giai đoạn lý
tính.
2. Giai đoạn 2: Nhận thức lý tính:
-
Nhận thức lý tính hay cịn gọi là tư duy trừu tượng (phản ánh thực chất bên trong, bản
chất của sự việc) là giai đoạn phản ánh gián tiếp trừu tượng khái quát sự vật,được thể
hiện qua các hình thức như khái niệm,phán đốn,suy luận. Các hình thức của nhận
thức lý tính bao gồm:
+ Khái niệm: là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc tính bản
chất của sự vật. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện
chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay lớp sự vật. Vì vậy, các khái niệm vừa
có tính khách quan vừa có tính chủ quan, vừa có mối quan hệ tác động qua lại với
nhau, vừa thường xuyên vận động và phát triển. Khái niệm có vai trị rất quan trọng
trong nhận thức bởi vì, nó là cơ sở để hình thành các phán đoán và tư duy khoa học.
+ Phán đốn: là hình thức tư duy trừu tượng, liên kết các khái niệm với nhau để khẳng
định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính của đối tượng. Thí dụ: “Dân tộc Việt
Nam là một dân tộc anh hùng” là một phán đốn vì có sự liên kết khái niệm “dân tộc
Việt Nam” với khái niệm “anh hùng”. Theo trình độ phát triển của nhận thức, phán
đốn được phân chia làm ba loại là phán đốn đơn nhất (ví dụ: đồng dẫn điện), phán
đốn đặc thù (ví dụ: đồng là kim loại) và phán đốn phổ biến (ví dụ: mọi kim loại đều
dẫn điện). Ở đây phán đoán phổ biến là hình thức thể hiện sự phản ánh bao quát rộng
lớn nhất về đối tượng.
+ Suy lý cũng là một hình thức của tư duy trừu tượng trong đó các phán đoán đã liên
2
kết với nhau theo quy tắc: phán đoán 0cuối cùng (kết luận) được suy ra từ những phần
đốn đã biết làm tiền đề. Có hai loại suy luận chính quy nạp và diễn dịch. Quy nạp là
loại hình suy luận trong đó từ tiền đề là những tri thức về riêng từng đối tượng người
ta khái quát thành tri thức chung cho cả lớp đối tượng,tức là tư duy vận động từ cái
đơn nhất đến cái chung, cái phổ biến.Diễn dịch là loại hình suy luận trong đó từ tiền
14
2
0
đề là tri thức chung về cả lớp đối tượng người ta rút ra kết luận là tri thức về riêng của
từng đối tượng hay bộ phận đối tượng tức là tư duy vận động từ cái chung đến cái ít
chung hơn,đến cái đơn nhất ( cái riêng ). Trong quá trình nhận thức của con người,
hai loại suy luận này có liên hệ chặt chẽ với nhau bổ sung cho nhau.Suy lý là phương
thức quan trọng để tư duy của con người đi từ cái đã biết đến cái chưa biết một cách
gián tiếp,rút ngắn thời gian trong việc xác nhận tri thức mới.Tính chân thực của kiến
thức thu thập được nhờ suy lí phụ thuộc vào tính chân thực của các phán đoán tiền đề
và sự tuân thủ chặt chẽ đúng đắn các quy tắc logic của chủ thể.
Chú ý:
-
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn khác nhau về chất nhưng lại
thống nhất với nhau liên hệ bổ sung cho nhau trong q trình nhận thức của con
người.Nhận thức cảm tính là cơ sở cho nhận thức lý tính, khơng có nhận thức cảm
tính thì khơng có nhận thức lý tính .Ngược lại nhờ có nhận thức lý tính mà con người
mới đi sâu nhận thức được bản chất của sự vật hiện tượng . Trong thực tiễn cần tránh
tuyệt đối hóa vai trị của nhận thức cảm tính ,hạ thấp và phủ nhận vai trị của nhận
thức lý tính như vậy sẽ rơi vào chủ nghĩa duy cảm.Đồng thời tránh cường điệu thái
q vai trị của nhận thức lý tính của trí tuệ dẫn đến hạ thấp hoặc phủ nhận vai trị của
nhận thức cảm tính của cảm giác rơi vào chủ nghĩa duy lý.
-
Sự thống nhất giữa trực quan sinh động, tư duy trừu tượng và thực tiễn:
Một vòng khâu của quá trình nhận thức được bắt đầu từ trực quan sinh động động đến
tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn; trong đó, thực tiễn vừa là cơ
sở vừa là khâu kết thúc và đồng thời có vai trị kiểm tra tính chân thực của các kết quả
nhận thức.Q trình nhận thức thơng qua các vòng khâu nhận thức này để ngày càng
tiến sâu hơn vào bản chất của các sự vật hiện tượng. Kết thúc vòng khâu này cũng
đồng thời là sự bắt đầu của một phịng khơng mới của sự nhận thức sâu sắc hơn toàn
diện hơn. Cứ thế nhận thức của con người là vô tận. Mỗi nấc thang mà con người đạt
được trong quá trình nhận thức đều là kết quả của cảm nhận thức cảm tính và nhận
thức lý tính được thực hiện trên cơ sở của hoạt động thực tiễn. Vòng khâu của nhận
thức từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực
15
2
0