Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

VẤN ĐỀ BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG XÃ HỘI NGÀY NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (608.58 KB, 53 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM


MÔN HỌC: NHẬP MÔN XÃ HỘI HỌC

ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN
VẤN ĐỀ BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG XÃ HỘI NGÀY NAY.

Mã học phần: INSO321005_02
NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN:
1.
2.
3.
4.
5.
6.

Trần Nguyễn Trí Đạt
Lê Nguyễn Thiên Tứ
Vương Đình Hiếu
Trần Lê Hữu Nhẫn
Nguyễn Quốc Bảo
Đinh Ngọc Nhân

\
Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 07 năm 2022

1



DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KÌ III, NĂM HỌC 2021–2022
Mã học phần: INSO321005_02
Tên đề tài: VẤN ĐỀ VỀ BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG XÃ HỘI NGÀY NAY.
STT

HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN

TỈ LỆ %
HỒN THÀNH

1

Trần Nguyễn Trí Đạt

100%

2

Lê Nguyễn Thiên Tứ

100%

3

Vương Đình Hiếu

100%

4


Trần Lê Hữu Nhẫn

100%

5

Nguyễn Quốc Bảo

100%

6

Đinh Ngọc Nhân

100%

Ghi chú:
Tỷ lệ %: Mức độ phần trăm hồn thành của từng sinh viên tham gia.
Trưởng nhóm: Trần Nguyễn Trí Đạt
Nhận xét của giáo viên:
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
Tp. Hồ Chí Minh – Tháng 7 năm 2022
MỤC LỤC
2



3


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ST
T
1

Ký hiệu chữ
viết tắt
GDI

2

SRB

3

TCTK

4

HDI

5

TCN


Tổng Cục Thống Kê
Human Development Index (Chỉ số phát triển con
người)
Trước Công Nguyên

6

THCS

Trung Học Cơ Sở

7

THPT

Trung Học Phổ Thông

8

ICW

International Council of Women

Chữ viết đầy đủ
Gender Development Index (Chỉ số phát triển giới)
Sex Ratio at Birth (Tỷ số giới tính khi sinh)

4



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bất bình đẳng giới – một cụm từ khơng cịn q mới mẻ với chúng ta, nó đã,
đang và sẽ ln là một vấn đề nóng trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
Hiện nay, tình trạng bất bình đẳng giới ngày càng được xã hội quan tâm. Sự phát
triển của xã hội đã kéo theo nhiều thay đổi trong quan niệm về bất bình đẳng.
Trong xã hội cổ đại, sự bất bình đẳng giữa nam và nữ rất rõ ràng. Điều đó dễ dàng
được chấp nhận, đặc biệt là phụ nữ, những người gánh chịu hậu quả của sự bất bình
đẳng này thiếu ý thức về quyền lợi của mình, bị coi thường và thậm chí bị đối xử
như nơ lệ. Thực tế trong xã hội hiện đại, nhiều phụ nữ vẫn bị lạm dụng, bị tước đi
quyền làm người bởi một bộ phận theo tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, họ bị xem
như công cụ để thỏa mãn thú vui hay duy trì nịi giống. Ngày nay, ở nhiều nước
trên thế giới, phong trào nữ quyền nổ ra rầm rộ, ở một số nơi, đàn ơng thậm chí bị
chèn ép như “chế độ mẫu hệ thời nguyên thủy”, điển hình nhất chính là vụ kiện bị
bạo lực gia đình của nam diễn viên Johnny Depp, anh đã bị hành hung bởi chính vợ
của mình – nữ diễn viên Amber Heard. Vấn đề đặt ra ở đây đó là việc cân bằng về
quyền lợi cho cả hai giới, nếu ưu ái bên nào hơn thì cũng sẽ sinh ra bất cơng cho
bên cịn lại và dẫn đến những hệ lụy nghiêm trọng cho xã hội. Vì vậy, khơng ít các
nhà nghiên cứu bắt tay vào cuộc để tìm ra giải pháp hữu hiệu nhất cho vấn đề bất
bình đẳng giới và tìm cách tạo ra mơi trường thuận lợi cho sự phát triển năng lực
cho cả hai giới để phục vụ xã hội.
Đứng trước thời đại xã hội phát triển nhanh với tốc độ chóng mặt, việc nghiên
cứu và đề xuất giải pháp cho vấn đề thế kỷ “Bất bình đẳng giới” đang là nhiệm vụ
hết sức cấp thiết. Vì lẽ đó, với mong muốn được góp một phần sức nhỏ trong cơng
cuộc bình đẳng giới, nhóm chúng em đã thống nhất chọn đề tài: “Vấn đề về bất
bình đẳng giới trong xã hội ngày nay”.
5


Do sự hiểu biết các vấn đề chưa sâu sắc, chắc chắn bài viết sẽ cịn có nhiều thiếu

sót. Vì vậy, nhóm em mong nhận được những sự chỉ dẫn, góp ý về kiến thức từ
phía cơ để có thể sửa chữa, khắc phục những mặt kiến thức chưa tốt của nhóm để
bài viết trở nên hồn thiện hơn. Nhóm em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô đã
hướng dẫn, chỉ bảo để nhóm em có thể hồn thành bài tiểu luận này.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ hàng đầu của đề tài tiểu luận “Vấn đề về bất bình đẳng giới trong xã
hội ngày nay” là nắm rõ các khái niệm cơ bản về bất bình đẳng xã hội nói chung và
bất bình đẳng giới nói riêng, hiểu rõ về thực trạng hiện nay, từ đó thu hẹp khoảng
cách giới, tạo điều kiện, cơ hội để phụ nữ và nam giới tham gia, thụ hưởng bình
đẳng trong các lĩnh vực của đời sống, góp phần vào sự phát triển bền vững của tỉnh,
của đất nước. Xóa bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội bình đẳng cho nam và nữ
trong phát triển kinh tế – xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng
giới thực chất giữa nam và nữ, thiết lập và tăng cường theo đuổi sự hợp tác và hỗ
trợ giữa nam và nữ trong mọi lĩnh vực xã hội và cuộc sống gia đình.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài tiểu luận này một cách tốt nhất, nhóm em có sử dụng kết
hợp nhiều phương pháp và công cụ nghiên cứu khác nhau:
Phương pháp phân tích tư liệu: Xem xét các tài liệu có sẵn trong kho thông tin
lưu trữ và các nguồn khác để nghiên cứu vấn đề cần thiết, giúp người nghiên cứu
có được những số liệu, tư liệu thứ cấp, thậm chí là những phân tích, kết luận có sẵn
phục vụ cho việc nghiên cứu có luận cứ rõ ràng.
Phương pháp tổng hợp, logic: Được sử dụng kết hợp với phương pháp phân tích.
Cụ thể từ những kết quả bằng phân tích, đề tài sử dụng phương pháp tổng hợp kết
hợp chúng lại với nhau để có được sự nhận thức vấn đề nghiên cứu một cách rõ
6


ràng và hợp lý.
Phương pháp chuyên gia: Phương pháp này chủ yếu lấy ý kiến của các chuyên
gia về một vấn đề xã hội nào đó. Ý kiến của họ thường có hàm lượng chất xám cao

và giàu tính thực tiễn. Cũng vì thế nên có thể coi là vẫn đảm bảo tính thực tiễn của
q trình nghiên cứu.
Từ các phương pháp nghiên cứu kết hợp vận dụng các quan điểm tồn diện và hệ
thống, khái qt và mơ tả, phân tích và tổng hợp, các phương pháp liên ngành xã
hội và nhân văn để hoàn thiện bài tiểu luận một cách khách quan nhất.

7


PHẦN NỘI DUNG
1. KHÁI NIỆM CHUNG
1.1. Bất bình đẳng xã hội
1.1.1. Định nghĩa bất bình đẳng
Bất bình đẳng là hiện tượng phổ biến, tồn tại trong mọi giai đoạn phát triển
của lịch sử xã hội loài người. Trên thực tế, chúng ta thấy rằng cơ hội, phần thưởng,
và quyền lực luôn được phân phối không đồng đều giữa các cá nhân, các nhóm
trong xã hội, thậm chí giữa các xã hội với nhau. Những chủ đề quan trọng mà
chúng ta thường đề cập đến trong cuộc sống hàng ngày là bất bình đẳng giữa chủ
và thợ, giữa người giàu và người nghèo, giữa nam và nữ, …
Trong sự vận động và phát triển của xã hội, bất bình đẳng xã hội ln là vấn
đề then chốt. Bất bình đẳng xã hội tạo thành một hệ thống tồn tại song song với sự
phát triển trong các xã hội khác nhau. Điều đó cũng cho chúng ta biết rằng hệ thống
bất bình đẳng sẽ khác nhau ở các xã hội khác nhau và nguyên nhân chính sẽ được
xác định bởi thể chế chính trị và hồn cảnh, điều kiện sống của mỗi nơi.
Cho đến nay, có nhiều tác giả khác nhau đã đưa ra những quan niệm riêng về
bất bình đẳng. David Popenoe cho rằng bất bình đẳng là tình trạng khơng ngang
bằng nhau giữa các cá nhân hay các nhóm đối với việc tiếp cận những điều đáng
ao nước trong xã hội. Những điều đáng mong muốn này có thể khác nhau từ bối
cảnh này sang bối cảnh khác, từ nền văn hóa này sang nền văn hóa khác. Những
điều đáng mong muốn có thể mang tính phi vật chẳng hạn sự kính trọng, hay tình

u,…cũng thể mang tính vật chất chẳng hạn thực phẩm, hoặc vàng bạc,… 1. Theo
Từ điển Xã hội học do Turner chủ biên được xuất bản bởi Nhà xuất bản Đại học
Cambridge thì bất bình đẳng là sự phân bối không đồng đều cơ hội, phần thưởng,
1 David Popenoe (1986), Sociology. New Jersey: Prentice–Hall, tr.218

8


và quyền lực giữa các cá nhân, hộ gia đình, nhóm xã hội. Bất bình được coi là đặc
điểm của bất cứ xã hội nào 2. Laurence A. Basirico, Barbara G. Cashion, và J Ross.
Eshleman lại cho rằng bất bình đẳng là sự khác biệt giữa các nhóm về của cải, uy
tín và quyền lực3. Từ quan niệm của các tác giả vừa đề cập đến ở trên, chúng ta có
thể định nghĩa một cách khái qt:
Bất bình đẳng xã hội là sự không ngang bằng nhau về cơ hội xã hội giữa các
cá nhân, các nhóm trong xã hội; sự không ngang bằng nhau về cơ hội xã hội liên
quan chặt chẽ đến sự không ngang bằng nhau về của cải, uy tín, quyền lực giữa các
cá nhân, các nhóm.4
1.1.2. Phân loại bất bình đẳng
Bất bình đẳng xã hội được chia ra làm 2 loại: bất bình đẳng mang tính tự
nhiên và bất bình đẳng mang tính xã hội
Bất bình đẳng mang tính tự nhiên: sự khác biệt giữa các cá nhân về các đặc
điểm sẵn có như: giới tính, tuổi tác, chủng tộc, trí lực, phẩm chất sẵn có, … Nhưng
sự khác biệt về sinh học khơng phải là sự khác biệt về mặt xã hội.
Bất bình đẳng mang tính xã hội: tồn tại những sự phân cơng xã hội dẫn đến có
sự phân tầng, từ đó tạo ra lợi ích khác nhau giữa các cá nhân về của cải, tài sản,
quyền lực, học vấn, cơ hội sống, uy tín mà con người khơng có sự ngang bằng nhau
trong cuộc sống.
Bất bình đẳng xã hội là một khái niệm rộng mà trong đó hàm chứa khái niệm
bất cơng bằng xã hội và cơng bằng xã hội. Bất bình đẳng xã hội gồm: Bất bình
2 Turner, Bryan S. (2006), “The Cambridge Dictionary of Sociology”. Cambridge: Cambridge University Press,

tr.286
3 Laurence A. Basirico, Barbara G. Cashion, J Ross. Eshleman (2012), Understanding Sociology. BTV Publishing,
tr.252
4 PGS. TS. Nguyễn Thị Kim Hoa, Giáo trình xã hội học đại cương. NXB ĐHQG Hà Nội, tr.241

9


đẳng xã hội dựa trên sự hợp lý hợp pháp và bất bình đẳng xã hội dựa trên sự khơng
hợp lý và không hợp pháp.
Công bằng xã hội là sự bất bình đẳng hợp lý và hợp pháp trước hết dựa trên sự
khác biệt tự nhiên và khách quan giữa các thành viên trong xã hội về mặt năng lực
(thể chất, trí tuệ), tài năng, đức độ và sự cống hiến, đóng góp thực tế của mỗi cá
nhân cho xã hội.
Bất cơng bằng xã hội là sự bất bình đẳng bất hợp lý, bất hợp pháp, không dựa
trên sự khác biệt tự nhiên giữa các cá nhân, cũng không chủ yếu được tạo ra do sự
khác nhau về tài đức và sự đóng góp cống hiến một cách thực tế của mỗi người cho
xã hội mà dựa vào những hành vi trái pháp luật, tham nhũng, lừa gạt, trộm cắp,
buôn bán phi pháp để trở nên giàu có, luồn lọt, xu nịnh, để có vị trí cao trong xã hội
hoặc lười biếng, ỷ lại để rơi vào sự nghèo khổ, hèn kém.
Theo quan điểm của các nhà xã hội học nghiên cứu về cơ cấu xã hội thì bất
bình đẳng xã hội có vai trị hết sức quan trọng:
i.
ii.
iii.

Bất bình đẳng được xem như là điều kiện để tổ chức xã hội.
Bất bình đẳng là cơ sở cho việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Bất bình đẳng đảm bảo cho đời sống và phát triển xã hội.


Từ đó, có thể kết luận rằng bất bình đẳng xã hội có cả mặt tích cực và mặt tiêu
cực. Một mặt, nó là động cơ thúc đẩy tiến bộ xã hội, góp phần ổn định và hình
thành bộ mặt xã hội, nhưng mặt khác nó cũng là ngun nhân của sự tích tụ của bất
bình xã hội, cản trở sự phát triển chung của cộng đồng. Vì vậy, việc tìm hiểu về bất
bình đẳng xã hội là việc làm cần thiết để củng cố và tổ chức một xã hội công bằng,
dân chủ và văn minh hơn.
1.1.3. Các quan điểm về bất bình đẳng xã hội
Bất bình đẳng xã hội là một hiện tượng phổ biến trong xã hội, vậy vấn đề đặt
10


ra là bất bình đẳng có phải là một hiện tượng xã hội tất yếu? Xung quanh vấn đề
được đặt ra có rất nhiều quan điểm khác nhau để trả lời câu hỏi này. Cùng điểm qua
một số quan điểm tiêu biểu về bất bình đẳng xã hội.
* Quan điểm dựa vào yếu tố sinh học của cá nhân
Quan điểm này cho rằng bất bình đẳng là một thực tế của xã hội, nó ln
hiện hữu do sự khác biệt giữa các cá nhân. Trong một xã hội mở và khi mọi người
có tài năng và nhu cầu khác nhau, điều này chắc chắn dẫn đến bất bình đẳng. “Một
số bất bình đẳng đến như là kết quả khơng thể né tránh về bất bình đẳng sinh học
của kỹ năng, thể chất, khả năng tinh thần và những khía cạnh của nhân cách.”5
Từ thời cổ đại, một số nhà triết học đã khẳng định những sự “khác biệt”
mang tính tự nhiên giữa các cá nhân. Trên thực tế, sự khác biệt về bản chất của sự
phân biệt giới tính vẫn tồn tại như một hệ quả tất yếu của bất bình đẳng. Aristotle
(384 – 322 TCN) đã lập luận rằng: “Đàn ông bản chất là thống trị, đàn bà là bị trị,
và đó là một luật lệ.” Quan điểm này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Steven
Goldberg nêu quan điểm: “Sự thống trị và sự thành đạt cao của nam giới là khả
năng không thể đảo ngược, bởi có những khác biệt về sinh học giữa nam và nữ.”6
Trên thực tế, những quan điểm hoàn toàn tương tự có thể được tìm thấy ở các
xã hội khác. Trong nhiều gia đình Việt Nam hiện đại, tư tưởng trọng nam khinh nữ
vẫn tồn tại. Quyền lợi của người con trai ln được đặt lên trước. Họ có nhiều đặc

quyền và cơ hội hơn con gái, điều này chắc chắn sẽ làm cho sự bất bình đẳng ngày
càng kéo dài hơn và trầm trọng hơn.
* Quan điểm dựa vào yếu tố kinh tế
Trong bài luận năm 1753 Về nguồn gốc của sự bất bình đẳng, Jean – Jacques
5 Kenneth Cauthen (1987), The Passion for Equality, NXB Rowman & Littlefield, tr.8
6 Steven Goldberg (1973), The Inevitability of Patriarchy, NXB William Morrow and Company, tr.133

11


Rousseau đã chỉ ra rằng nguồn gốc của bất bình đẳng trong xã hội là chế độ tư hữu
tài sản. Theo quan điểm của ơng, bất bình đẳng khơng phải là quy luật tự nhiên mà
là sản phẩm của xã hội lồi người; nó đã tồn tại và phát triển kể từ khi xuất hiện tư
hữu; rằng mọi người đã tạo ra bất bình đẳng thì con người cũng có thể loại bỏ nó.
Chính sách kinh tế – chính trị và đặc thù của thị trường lao động tạo ra sự khác biệt
về thu nhập và của cải. Thực chất, sự khác biệt về vị trí của các cá nhân trong cơ
cấu xã hội gây ra bất bình đẳng kinh tế. Ơng cũng phân biệt rõ ràng hai loại bất
bình đẳng giữa con người với con người: bất bình đẳng tự nhiên và bất bình đẳng
xã hội – bất bình đẳng do cơ chế xã hội sinh ra.
Một số nhà xã hội học khác cho rằng bất bình đẳng là khơng thể tránh khỏi bởi
vì các xã hội có một số nhiệm vụ cần thiết hơn các xã hội khác và có năng lực khác
nhau để thực hiện các nhiệm vụ đó. Các nhà xã hội học lập luận rằng sự bất bình
đẳng xã hội về lợi ích giữa các cá nhân là cần thiết để thúc đẩy những người tài
năng nhất thực hiện những nhiệm vụ khó khăn nhất. Chính sự bất bình đẳng thúc
đẩy các cá nhân làm việc, học hỏi, tạo cơ hội cho bản thân, do đó khơng thể loại bỏ
bất bình đẳng vì bình đẳng cũng có thể nguy hiểm cho xã hội như nhà kinh tế A.
Lechevalier phân tích: “Bình đẳng chung chung thậm chí cịn đi ngược lại ý niệm
về sự cơng bằng, không chỉ là công bằng về nỗ lực cá nhân, về nhu cầu, ham muốn
mà cả những thiệt thòi.”
* Quan điểm của Karl Marx

Học thuyết của Marx chủ yếu dựa trên sự nghiên cứu các học thuyết kinh tế
mà ông coi là nền tảng của cơ cấu giai cấp. Mối quan hệ giai cấp là chìa khố của
mọi vấn đề trong đời sống xã hội. Marx khẳng định: “Những tư tưởng thống trị của
một thời đại bao giờ cũng là những tư tưởng của giai cấp thống trị” và phục vụ cho
giai cấp thống trị.
12


Những lý luận của Marx về hoạt động tổ chức sản xuất của cải vật chất cũng
như sự phân công lao động trong xã hội cùng với những phân tích về cấu trúc xã
hội đã vạch rõ tính chất giai cấp của xã hội và tính bất bình đẳng trong quan hệ xã
hội. Qua những phân tích về cấu trúc xã hội này, có thể rút ra hai kết luận quan
trọng. Một là, cần xóa bỏ và thay thế chế độ sở hữu tư nhân bằng chế độ sở hữu xã
hội để xây dựng xã hội phát triển. Hai là, xã hội học cần tập trung phân tích cấu
trúc xã hội để chỉ ra ai là người có lợi và ai là người thiệt hại từ cách tổ chức xã hội
và cơ cấu xã hội hiện có. Nói cách khác, cấu trúc xã hội, phân tầng xã hội và bất
bình đẳng xã hội phải là những chủ đề nghiên cứu cơ bản của xã hội học hiện đại.7
* Quan điểm của Max Weber
Max Weber nghiên cứu cấu trúc xã hội sau Marx hơn nửa thế kỷ. Do vậy, ông
đã ghi nhận những thay đổi trong cơ cấu giai cấp xã hội để phát triển lý thuyết xã
hội học về sự phân tầng xã hội. Theo đó, lĩnh vực kinh tế khơng cịn vai trị quan
trọng đối với sự phân chia giai cấp và tầng lớp xã hội trong xã hội tư bản hiện đại.
Cấu trúc xã hội nói chung và sự phân tầng xã hội nói riêng chịu tác động của hai
nhóm yếu tố cơ bản là các yếu tố kinh tế và các yếu tố phi kinh tế trong quá trình
hình thành, biến đổi cấu trúc xã hội và sự phân tầng xã hội.
Weber không coi mọi cấu trúc xã hội đều bất bình đẳng như trong một xã hội
có giai cấp. Ơng nhấn mạnh rằng quyền lực kinh tế có thể là kết quả nắm giữ quyền
lực dựa vào các nền tảng khác. Địa vị xã hội và uy tín xã hội có thể xuất phát từ
quyền lực kinh tế, song đó khơng phải là tất yếu duy nhất. Ngược lại, địa vị có thể
tạo nên cơ sở của quyền lực chính trị.

Weber nhấn mạnh tầm quan trọng của thị trường chứ không phải là tái sản
xuất, như là cơ sở kinh tế của giai cấp. Ông quan niệm giai cấp là một tập hợp
7 Đại học Văn Hiến, Những khác biệt của Karl Marx và Max Weber trong quan điểm về phân tầng xã hội

13


người có chung các cơ hội sống trong điều kiện kinh tế thị trường. Nguyên nhân
đầu tiên của bất bình đẳng trong xã hội tư bản là khác biệt về khả năng thị trường.
* Quan điểm của Daniel Rosides
Thậm chí ngay trong các xã hội đơn giản nhất “người già thường có quyền uy
đối với người trẻ, cha mẹ có quyền uy với con cái và nam giới có quyền uy đối với
phụ nữ”.
* Quan điểm của E. Durkheim
Trong cuốn “Sự phân công lao động xã hội (1893)” cho rằng tất cả các xã hội
ln nhìn nhận một số hành động quan trọng hơn những hành động khác, cũng theo
ông bất bình đẳng xã hội được tạo ra từ những khác biệt về tài năng.
1.1.4. Cơ sở tạo nên sự bất bình đẳng
Bất bình đẳng nảy sinh trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực sản
xuất vật chất. Nó có liên quan đến sự phân cơng lao động xã hội. Vì vậy, bất bình
đẳng biểu hiện khác nhau trong các xã hội khác nhau, đặc biệt là trong các xã hội
hồn thiện và quy mơ lớn với nền sản xuất xã hội phát triển cao, sự phân công lao
động ngày càng đa dạng và phức tạp, bất bình đẳng xã hội ngày càng gia tăng.
Nguyên nhân của bất bình đẳng là vơ cùng đa dạng và khác nhau giữa các xã
hội và nền văn hóa, gắn liền với các đặc điểm của giai cấp xã hội, giới tính, chủng
tộc, tơn giáo, lãnh thổ, ... Cơ sở của bất bình đẳng cũng thay đổi theo thời gian. Một
số yếu tố mạnh hơn vào những thời điểm nhất định nhưng ít ảnh hưởng hơn vào
những thời điểm khác. Bất bình đẳng vẫn tồn tại và gắn liền với các vấn đề và các
yếu tố mang tính thời sự trong xã hội, xuất phát từ nhiều nguyên nhân liên quan
đến các yếu tố tự nhiên, địa vị xã hội, điều kiện kinh tế – xã hội – văn hóa ... về cơ

bản bao gồm:
- Sự khác nhau về điều kiện tự nhiên
Yếu tố tự nhiên (đất đai, thời tiết khí hậu, tài nguyên thiên nhiên...) trước hết
14


là môi trường sống và bảo đảm phần quan trọng cơ hội sống cho con người. Con
người sinh ra và tồn tại trong điều kiện, môi trường tự nhiên khác nhau sẽ có những
cơ hội và được "mang đến" những lợi ích khác nhau. Những người sinh ra trong
điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ có cơ hội tốt cho sự tiến bộ, ngược lại với điều kiện
tự nhiên khó khăn, khắc nghiệt sẽ ít có cơ hội hơn.
Yếu tố tự nhiên còn tạo nên đặc điểm tự nhiên của con người, của các cá nhân
như giới tính, thể lực, trí tuệ, tính cách... Đây là yếu tố tác động, ảnh hưởng lớn và
có tính lâu bền đến bất bình đẳng xã hội. Tuy nhiên xã hội càng phát triển, tiến bộ
những khác biệt và phân biệt về các yếu tố tự nhiên càng được khắc phục dần.
- Sự khác nhau về điều kiện kinh tế
Sự khác biệt về điều kiện kinh tế cũng là một trong những yếu tố tạo ra sự
khác biệt về cơ hội mà mỗi cá nhân hay mỗi nhóm được tiếp cận. Khi cá nhân (hay
nhóm) có điều kiện kinh tế tốt hơn những cá nhân (hay nhóm) khác trong xã hội,
chủ thể đó sẽ có nhiều cơ hội tốt hơn. Ví dụ về tiếp cận dịch vụ giáo dục, y tế... của
các cá nhân trong xã hội.
- Sự khác nhau về địa vị xã hội
Sự khác nhau về địa vị xã hội, tức là sự khác nhau về uy tín hay vị trí do quan
niệm và sự đánh giá của các thành viên khác trong xã hội. Địa vị xã hội là sự phản
ánh vị thế xã hội của cá nhân, do cá nhân đạt được ở trong một nhóm hoặc là một
thứ bậc trong nhóm này khi so sánh với thành viên trong nhóm khác, được xác định
bởi một loạt đặc điểm kinh tế, nghề nghiệp, sắc tộc. 8 Trong một xã hội cụ thể, nếu
sự khác nhau về cơ hội của một nhóm người là do ngun nhân khách quan tạo nên
thì ngược lại, bất bình đẳng về địa vị xã hội do thành viên của các nhóm xã hội tạo
8 Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (2005), Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 4,

NXB Từ điển Bách khoa, tr.863

15


nên và thừa nhận. Nó có thể là bất kỳ thứ gì được một nhóm xã hội cho là ưu việt
và các nhóm xã hội cịn lại thừa nhận. Trong thực tế, cơ cấu giai cấp là nền tảng căn
bản nhất của địa vị xã hội. Ngoài ra, các thành tố khác tạo lập nên địa vị xã hội phải
kể đến trình độ chun mơn, mức lương, gia đình, lứa tuổi, lãnh thổ, cư trú. Tuy
nhiên, địa vị xã hội chỉ có thể được giữ vững bởi những nhóm nắm giữ địa vị đó và
các nhóm xã hội khác tự giác thừa nhận sự ưu việt đó.
- Sự khác nhau về ảnh hưởng chính trị
Bất bình đẳng do ảnh hưởng chính trị là khả năng của một nhóm xã hội thống
trị những nhóm khác hay có ảnh hưởng mạnh mẽ trong việc ra quyết định cũng như
việc thu được nguồn lợi từ các quyết định. Trong thực tế, bất bình đẳng do ảnh
hưởng chính trị có thể được nhìn nhận như là có được từ ưu thế vật chất hay địa vị
cao. Bản thân chức vụ chính trị có thể tạo ra cơ sở để đạt được địa vị và những cơ
hội trong cuộc sống, đặc biệt đối với các cá nhân giữ chức vụ chính trị cao.
- Sự khác nhau về văn hố
Những giá trị văn hóa cũng có thể góp phần tạo ra sự bất bình đẳng trong xã
hội giữa các cá nhân, các nhóm. Có những giá trị văn hóa làm hạn chế khả năng
tiếp cận những cơ hội tốt trong cuộc sống của con người và ngược lại. Ví dụ, phụ
nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến trước đây bị quan niệm là những người chỉ
làm việc trong gia đình, khơng được tiếp xúc xã hội nên khơng có điều kiện, cơ hội
để tiến bộ, họ ln bị trói chặt vào gia đình, phụ thuộc gia đình. Ngày nay, phụ nữ
đã được giải phóng nên họ có cơ hội để phát triển, tiến bộ, đóng góp nhiều cho xã
hội và bình đẳng hơn với mọi người.
Nói tóm lại, cấu trúc của sự bất bình đẳng có thể dựa trên bất kỳ ưu thế nào trong
số này. Căn ngun của bất bình đẳng có thể được tìm thấy trong các mối quan hệ
kinh tế, địa vị xã hội, hoặc các mối quan hệ quyền lực về chính trị của các giai cấp

16


tồn tại trong xã hội.
1.2. Bất bình đẳng giới
1.2.1. Khái niệm cơ bản về bất bình đẳng giới
Bất bình đẳng giới là sự khác biệt về lợi thế và cơ hội về vật chất hoặc tinh
thần giữa hai giới trong xã hội. Nó dựa trên nhận thức của xã hội về vai trị giới,
trong đó nam giới thường được đề cao và có nhiều quyền hạn hơn phụ nữ. Đây là
dạng bất bình đẳng quen thuộc nhất.
Điều này càng được thể hiện rõ hơn bởi sự phân công lao động diễn ra hàng
ngày trong gia đình, nhiều người cho rằng việc nhà là việc người phụ nữ phải làm
để phục vụ gia đình, nếu có chồng thì chồng chỉ phụ giúp, giúp đỡ, tạm thời, hoặc
khuyến khích nhưng khơng tích cực tham gia. Người phụ nữ không biết nấu ăn sẽ
bị nhiều người chỉ trích, cịn người đàn ơng khơng biết nấu ăn sẽ được chấp nhận.
Ngoài ra, người vợ cũng có thể là đối tượng bị bạo hành, người ta cho rằng đàn ơng
có quyền lấn át vợ, trong khi phụ nữ có ít quyền lực hơn trong gia đình và do đó
cũng hạn chế cơ hội tham gia vào việc ra quyết định của gia đình.
Trên thực tế, nếu có sự phân cơng lao động trong gia đình khác nhau, nếu sự
khác biệt được thực hiện một cách tự nguyện thì khơng phải là bất bình đẳng,
nhưng nếu cơng việc được thực hiện trong tình trạng mệt mỏi và bó buộc thì đó là
biểu hiện của bất bình đẳng giới.
Bất bình đẳng giới khơng chỉ xảy ra trong gia đình mà cịn ở nhiều lĩnh vực
như việc làm, giáo dục, chính trị, … Bất bình đẳng giới đang diễn ra với quy mô
ngày càng lớn. Muốn khắc phục tình trạng đó thì phải khắc phục sự tiếp cận bình
đẳng đối với các nguồn lực giáo dục cho nam và nữ, tạo ra bước đột phá trong tiếp
cận nghề nghiệp, việc làm và lợi ích xã hội. Đặc biệt, được cho là sẽ thay đổi nhận
thức, bình đẳng giới bắt nguồn từ sự trì trệ của ý thức người dân. Vì vậy, cần có
17



những giải pháp thúc đẩy nhận thức để theo kịp trình độ phát triển của xã hội, tránh
những tư tưởng lạc hậu, cổ hủ, cực đoan.
Năm 2006, Quốc hội đã ban hành Luật Bình đẳng giới nhằm quy định nguyên
tắc bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình, biện pháp bảo
đảm bình đẳng giới, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trong việc
thực hiện bình đẳng giới.9 Nhờ những nỗ lực của mình, Việt Nam được Liên hợp
quốc đánh giá là điểm sáng trong việc thực hiện bình đẳng giới và nâng cao vị thế
phụ nữ. Đây là thành quả đáng khích lệ và địi hỏi sự phấn đấu khơng ngừng để
hồn thành những mục tiêu thiên niên kỷ mà chúng ta đã đề ra.10
1.2.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về bình đẳng giới
Ngay từ thế kỷ XIX, C. Mác và Ph. Ăngghen – các lãnh tụ thiên tài của giai
cấp vơ sản tồn thế giới – đã chỉ rõ: “Chế độ mẫu quyền bị lật đổ là sự thất bại lịch
sử có tính chất tồn thế giới của giới nữ. Ngay cả ở trong nhà, người đàn ơng cũng
nắm lấy quyền cai quản, cịn người đàn bà thì bị hạ cấp, bị nơ dịch, bị biến thành nô
lệ cho sự dâm đãng của đàn ông, thành một công cụ sinh đẻ đơn thuần”; “người vợ
trở thành người đầy tớ chính và khơng được tham gia vào nền sản xuất xã hội” 11.
“Tình trạng khơng bình quyền giữa đôi bên, do những quan hệ xã hội trước kia để
lại cho chúng ta, tuyệt nhiên không phải là nguyên nhân, mà là kết quả của việc áp
bức đàn bà về mặt kinh tế” 12. Hai ông khẳng định: “Một sự bình đẳng thực sự giữa
phụ nữ và nam giới chỉ có thể trở thành hiện thực khi đã thủ tiêu được chế độ bóc
lột của tư bản đối với cả hai giới và khi công việc nội trợ riêng trong gia đình đã trở
9 Điều 1 Luật Bình đẳng giới 2006
10 Liên Hương (2011), Chỉ số bất bình đẳng giới của Việt Nam đứng thứ 58/138 quốc gia,
/>%C4%91ung–thu–58–138–quoc–gia–16076–4504.html, ngày truy cập 2–7–2022
11 C. Mác và Ph. Ăng ghen: Tồn tập, t.21, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tr.93 và tr.115
12 C. Mác và Ph. Ăng ghen: Toàn tập, t.21, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tr.115

18



thành một nền công nghiệp xã hội”13.
V.I. Lênin, người thầy vĩ đại của cách mạng vô sản thế kỷ XIX – XX kế thừa
quan điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen, chỉ ra tình cảnh khốn khổ của nữ cơng
nhân lao động trong các nhà máy, công xưởng: “Hàng triệu và hàng triệu phụ nữ
trong những gia đình như vậy đang sống (hoặc nói đúng hơn đang bị đọa đầy) trong
kiếp “gia nô”, ra sức lo ăn, lo mặc cho gia đình bằng từng xu nhỏ mà họ phải trả
bằng những cố gắng phi thường hàng ngày và bằng “sự tiết kiệm” tất cả mọi thứ,
chỉ trừ có “tiết kiệm” lao động của bản thân”14. Ơng chỉ rõ “Trong nơng nghiệp,
người lao động phụ nữ, vô sản cũng như nông dân, đều phải cố đem hết sức mình
ra, phải đổ mồ hôi sôi nước mắt, làm đến kiệt sức, hại đến sức khỏe của mình và
của con cái để cố đuổi cho kịp người lao động nam giới trong nền sản xuất lớn tư
bản chủ nghĩa”15; “họ cùng làm ở công xưởng 10 giờ một ngày, nhưng chỉ được tất
cả có 1,10 – 1,50 mác (nam giới thì được 2,50 – 2,70 mác) và nếu trả cơng theo sản
phẩm thì họ được 1,7 – 2,0 mác” 16. Phụ nữ “không có quyền gì cả vì pháp luật
khơng cho họ có quyền bình đẳng với nam giới”, cịn trong gia đình họ là “nơ lệ gia
đình”, bị nghẹt dưới cái gánh những công việc bếp núc nhỏ nhặt nhất, lam lũ nhất
khổ cực nhất, làm cho mụ người nhất17. Ông khẳng định: “Khơng cịn nghi ngờ gì
nữa, cơng xưởng tư bản chủ nghĩa đã đẩy các loại người lao động đó vào tình cảnh
đặc biệt khó khăn... Thế nhưng, xu hướng địi hồn tồn cấm chỉ phụ nữ và thiếu
niên khơng được lao động trong công nghiệp, hoặc xu hướng duy trì chế độ gia
trưởng về sinh hoạt là chế độ loại bỏ lao động đó, xu hướng đó thật là phản động,

13 C. Mác và Ph. Ăng ghen: Toàn tập, t.36, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tr.341
14 V.I. Lenin: Toàn tập, t.23, Nxb Tiến bộ, M.1980, tr.173
15 V.I. Lenin: Toàn tập, t.23, Nxb Tiến bộ, M.1980, tr.355–357
16 V.I. Lenin: Toàn tập, t.5, Nxb Tiến bộ, M.1980, tr.198
17 V.I. Lenin: Toàn tập, t.42, Nxb Tiến bộ, M.1980, tr.163–164

19



khơng tưởng”18.
V.I. Lênin chủ trương “Phụ nữ được bình quyền với nam giới về mọi mặt” 19,
“Thủ tiêu chế độ đẳng cấp; quyền bình đẳng hồn tồn của mọi cơng dân, không
phân biệt trai gái, tôn giáo, chủng tộc” 20; “...bổ nhiệm nữ thanh tra trong các ngành
mà lao động nữ chiếm đa số”21; “thành lập chế độ cộng hòa..., thực hiện chế độ
nhân dân bầu cử quan chức, nam nữ bình đẳng”22; “hủy bỏ tất cả mọi sự hạn chế,
không trừ sự hạn chế nào, đối với các quyền chính trị của phụ nữ so với các quyền
của nam giới”23. Người khẳng định: “Giai cấp vô sản sẽ không đạt được tự do hồn
tồn, nếu khơng giành được tự do hồn tồn cho phụ nữ”24.
1.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng giới
Tiếp thu quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ lâu
đã thấu hiểu nỗi thống khổ, bất công của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ thực
dân phong kiến. Người khẳng định: “Dưới chế độ thực dân và phong kiến, nhân
dân ta bị áp bức, bóc lột, thì phụ nữ ta bị áp bức, bóc lột càng nặng nề hơn… Ngay
từ đầu, Đảng và Nhà nước ta đã thi hành chính sách đối với phụ nữ cũng được bình
quyền, bình đẳng với đàn ơng”25. Người nhận thấy vai trị to lớn của phụ nữ trong
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Người chỉ rõ: “Ơng Các
Mác nói rằng: “Ai đã biết lịch sử thì biết rằng, muốn sửa sang xã hội mà khơng có
phụ nữ giúp vào thì chắc khơng làm nổi. Xem tư tưởng và việc làm của đàn bà con
18 V.I. Lenin: Toàn tập, t.3, Nxb Tiến bộ, M.1980, tr.690
19 V.I. Lenin: Toàn tập, t.4, Nxb Tiến bộ, M.1980, tr.283
20 V.I. Lenin: Toàn tập, t.6, Nxb Tiến bộ, M.1980, tr.263
21 V.I. Lenin: Toàn tập, t.6, Nxb Tiến bộ, M.1980, tr.264
22 V.I. Lenin: Toàn tập, t.27, Nxb Tiến bộ, M.1980, tr.78
23 V.I. Lenin: Toàn tập, t.30, Nxb Tiến bộ, M.1980, tr.257
24 V.I. Lenin: Tồn tập, t.40, Nxb Tiến bộ, M.1980, tr.183
25 Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2000


20


gái, thì biết xã hội tiến bộ ra thế nào”. Ông Lênin nói: “Đảng cách mệnh phải làm
sao dạy cho đàn bà nấu ăn cũng biết làm việc nước, như thế cách mệnh mới gọi là
thành công”; “…Xem trong lịch sử cách mệnh, chẳng có lần nào là khơng có đàn
bà con gái tham gia”; “Vậy nên, muốn thế giới cách mệnh thành cơng, thì phải vận
động đàn bà con gái công nông các nước”. Người chỉ rõ: “Cách mệnh Nga thành
công mau như thế, đứng vững như thế, cũng vì đàn bà con gái hết sức giùm vào”26.
Hơn một tháng sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa ra đời (02/9/1945), trong Lời kêu gọi chống thất học (tháng
10/1945), Người chỉ ra: “Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình,
bổn phận của mình, phải có kiến thức mới có thể tham gia vào công cuộc xây dựng
nước nhà... Phụ nữ lại càng cần phải học, đã lâu chị em bị kìm hãm. Đây là lúc các
chị em phải cố gắng để kịp nam giới, để xứng đáng mình là một phần tử trong
nước, có quyền bầu và ứng cử”27.
Khi Quốc hội khóa I thơng qua bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946, Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định “Bản Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới: Dân tộc Việt
Nam đã có đủ mọi quyền tự do. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới, phụ nữ Việt
Nam đã đứng ngang hàng với đàn ông để hưởng mọi quyền cơng dân”28.
Năm 1959, khi Luật Hơn nhân và gia đình lần đầu tiên được Quốc hội thơng
qua, Người nói: “Luật Hơn nhân và gia đình có quan hệ mật thiết đến mọi người
dân trong nước, đến cả nòi giống Việt Nam ta. Đạo luật ấy làm cho gái trai thật sự
bình đẳng, gia đình thật sự hạnh phúc”29.
Người nhấn mạnh vai trò của phụ nữ Việt Nam: “Từ đầu thế kỷ thứ nhất, Hai
26 Hồ Chí Minh tồn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2000, tr.288
27 Hồ Chủ tịch với vấn đề giải phóng phụ nữ, Nxb Phụ nữ, tr.21.
28 Võ Nguyên Giáp: Những con đường lịch sử, Nxb Văn học, H.1977, tr. 573.
29 Hồ Chủ tịch với vấn đề giải phóng phụ nữ, Nxb Phụ nữ, tr.3


21


Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, đánh giặc, cứu dân. Cho đến ngày nay, mỗi khi nước
nhà gặp nguy nan thì phụ nữ ta đều hăng hái đứng lên, góp phần xứng đáng của
mình vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Do đó, ta có câu tục ngữ rất hùng hồn:
“Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”. Nhân dân ta rất biết ơn các bà mẹ cả hai miền
Nam, Bắc đã sinh đẻ và nuôi dạy những thế hệ anh hùng của nước ta”. Người cũng
phê bình những thành kiến, hẹp hòi của một số cán bộ: “Nhiều người còn đánh giá
không đúng khả năng của phụ nữ, hay thành kiến, hẹp hòi. Như vậy là rất sai... Bác
mong rằng các đồng chí hãy thật sự sửa chữa bệnh thành kiến, hẹp hòi đối với phụ
nữ...”30.
Người căn dặn: “Trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, phụ nữ ta đảm đang đã
góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất. Đảng và Chính phủ cần
phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều
phụ nữ phụ trách mọi công việc, kể cả cơng việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải
cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho
phụ nữ”31.

30 Hồ Chí Minh tồn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2000
31 Hồ Chí Minh tồn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2000

22


2. BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG XÃ HỘI NGÀY NAY
2.1. Các thực trạng liên quan đến bất bình đẳng giới trong xã hội
2.1.1. Tỷ lệ giới tính khi sinh (SRB)
Tỷ lệ giới tính khi sinh được đo bằng số trẻ sơ sinh trai trên một trăm trẻ sơ
sinh gái được sinh ra. Tỷ lệ này được xem là bình thường khi có 105 đến 108 bé

trai được sinh ra so với 100 bé gái, bởi vì tỷ lệ chết ở trẻ trai thường cao hơn trẻ gái
một chút do vậy khi đến tuổi trưởng thành số nam và nữ sẽ cân bằng nhau. Tỷ số
sinh khi sinh có thể coi là một trong các chỉ số để đo vị thế của phụ nữ ở khía cạnh
bất bình đẳng giới, tỷ số này càng cao rõ rang nhận thấy đây là hậu quả của tư
tưởng thích con trai hơn con gái và phá thai có sự lựa chọn giới tính. Bất kỳ một sự
thay đổi đáng kể nào của tỷ suất này chênh lệch khỏi mức sinh học bình thường
điều này phản ánh những can thiệp có chủ định ở các mức độ khác nhau đến sự mất
cân bằng tự nhiên.

(Bất bình đẳng giới từ những thách thức mang tính văn hố và tình trạng mất cân bằng giới tính,
/>bang–gioi–tinh–16921112101294258.htm, ngày truy cập 14–7–2022)

23


Theo Tổng cục Thống kê, tỷ số giới tính khi sinh của Việt Nam có xu hướng
tăng hơn so với mức sinh học tự nhiên từ năm 2006 đến nay, và thực sự trở thành
thách thức với công tác dân số từ khi tăng lên 109,8 và luôn ở ngưỡng trên 111 bé
trai/100 bé gái (trừ năm 2009, tỷ số giới tính khi sinh có giảm nhẹ xuống 110,5 bé
trai/100 bé gái). SRB năm 2019 giảm so với năm 2018 nhưng vẫn ở mức cao (năm
2018: 114,8 bé trai/100 bé gái; năm 2019: 111,5 bé trai/100 bé gái).
Theo các nhà khoa học xã hội, hiện tượng mất cân bằng giới tính khi sinh ở
mức cao sẽ tác động tới quá trình hình thành cấu trúc gia đình, đặc biệt với hôn
nhân. Nam giới trẻ tuổi bị dư thừa so với nữ giới do tỷ lệ nữ giới đang giảm dẩn
trong cùng một thế hệ. Hệ luỵ là nam giới sẽ đối mặt với khó khăn nghiêm trọng
khi tìm kiếm bạn đời. Theo tính tốn của các nhà nhân khẩu học, năm 2019, có
khoảng 45.900 em gái bị thiếu hụt trong số sinh trong năm, chiếm tới 6,2% số
lượng trẻ em gái sinh ra. Nếu tỷ số giới tính khi sinh vẫn tiếp tục cao như hiện nay
thì chỉ khoảng hai, ba chục năm tới, sẽ có hàng triệu nam giới trong độ tuổi kết hơn
sẽ khơng thể tìm được bạn đời.32

Mong muốn có con trai gây ra khó khăn về kinh tế cho gia đình, nghèo đói và
trẻ em khơng được giáo dục. Sự gia tăng nhanh chóng của SRB ở Việt Nam là một
dấu hiệu cho thấy mất cân bằng giới tính, dẫn đến nhiều hậu quả tiêu cực, tác động
xấu đến chất lượng cuộc sống của con người: mất cân bằng nghiêm trọng về cơ cấu
dân số; các cơ sở chữa bệnh, hành nghề bói tốn đáp ứng nhu cầu sinh đẻ theo ý
muốn; tình trạng phá thai khi kết quả siêu âm, chuẩn đoán cho biết trẻ em gái gia
tăng; xu hướng chồng quan hệ với những phụ nữ khác để kiếm con trai, ngày càng
dẫn đến đổ vỡ hạnh phúc gia đình; Xung đột, bất hịa, cuộc sống khó khăn ảnh
hưởng đến chất lượng cuộc sống của nhiều gia đình, trẻ em được ni dạy khơng
32 Khánh Ly, Bất bình đẳng giới từ những thách thức mang tính văn hố và tình trạng mất cân bằng giới tính,
/>bang–gioi–tinh–16921112101294258.htm, ngày truy cập 14–7–2022

24


đúng cách, có suy nghĩ lệch lạc, phát triển khơng đồng đều, dễ sa vào các tệ nạn xã
hội; vì cố gắng có con trai mà làm mọi cách cùng với các điều kiện sống cần thiết...
Vị trí, vai trị của phụ nữ trong xã hội chưa thực sự được coi trọng và đề cao, bất
bình đẳng giới ngày càng gia tăng.
2.1.2. Bất bình đẳng trong giáo dục
Giáo dục là phương tiện hiệu quả nhất để con người gia tăng kiến thức và sự
tự tin, đủ khả năng vươn lên, thay đổi cuộc sống, gia tăng cơ hội và phúc lợi. Tuy
nhiên, phụ nữ và trẻ em gái chưa được tiếp cận giáo dục công bằng như nam giới
và trẻ em nam do nghèo đói, quy tắc văn hóa và thông lệ, định kiến. Theo tổ chức
Women WorldWide Web (W4), trên thế giới còn hàng triệu phụ nữ và trẻ em phải
chịu nghèo đói và khơng được đi học, hai phần ba số người mù chữ toàn cầu là phụ
nữ (Women WorldWide Web, 2018). Giáo dục cho phụ nữ và trẻ em gái là cách tốt
nhất để trao quyền cho nhóm đối tượng này, giúp bản thân họ có đầy đủ kiến thức
và khả năng để quyết định tương lai của mình, có cơng việc và thu nhập tơt hơn,
tăng cường khía cạnh kinh tế và xã hội cho gia đình, hịa nhập và cống hiến cho xã

hội nhiều hơn và đóng góp tốt hơn cho phúc lợi xã hội. Trong gia đình, một người
mẹ được đi học sẽ ni dạy con cái cả về giáo dục và sức khỏe tốt hơn, tạo ảnh
hưởng tích cực trên phạm vi gia đình và cộng đồng.

25


×