Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Tâm lí học HIỆU ỨNG BÀNG QUANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.54 KB, 3 trang )

Bạn nghĩ là : Khi một ai đó gặp nạn, mọi người sẽ tới để cứu.
Sự thật :Càng nhiều người chứng kiến một người gặp nạn thì khả năng một ai đó ra
tay giúp đỡ càng nhỏ.

Nếu mà đột nhiên bị hỏng xe và điện thoại thì hết pin, theo bạn thì ở đâu bạn sẽ dễ
dàng nhận được sự trợ giúp hơn – một con đường quê vắng vẻ hay một con phố ở thành thị
đông đúc? Chắc chắn là sẽ có nhiều người thấy bạn trên con phố đơng đúc hơn, trong khi đó
nếu ở trên đường q thì bạn có thể sẽ phải chờ hàng giờ mới có một người đi qua. Vậy câu
trả lời của bạn là gì?
Các nghiên cứu cho thấy khả năng bạn được trợ giúp ở trên đường quê sẽ cao hơn. Tại
sao lại như vậy?
Đã bao giờ bạn nhìn thấy ai đó bị hỏng xe bên đường và nghĩ rằng: “Mình có thể giúp
họ đó, nhưng mà chắc chắn sẽ có ai khác cũng giúp được mà.” Ai cũng nghĩ vậy. Và không ai
dừng lại cả. Đây được gọi là hiệu ứng bàng quan (the bystander effect).
Năm 1968, Eleanor Bradley trượt ngã và bị trẹo chân trong một cửa hàng bách hóa
đơng đúc. Trong vòng 40 phút, người ta chỉ bước qua và đi lại xung quanh cô cho tới khi một
người đàn ông cuối cùng cũng đã dừng lại để xem có chuyện gì. Năm 2000, một HIỆU ỨNG
BÀNG QUAN BẠN VẪN TƯỞNG Khi một ai đó gặp nạn, mọi người sẽ tới để cứu. SỰ
THẬT LÀ Càng nhiều người chứng kiến một người gặp nạn thì khả năng một ai đó ra tay
giúp đỡ càng nhỏ. nhóm thanh niên đã tấn công 60 phụ nữ trong một cuộc diễu hành tại Công
viên Trung Tâm của thành phố New York. Hàng nghìn người chỉ đứng xem. Khơng một ai rút
điện thoại ra gọi cho cảnh sát. Thủ phạm trong cả hai vụ này đều có thể coi là hiệu ứng bàng
quan. Khi đứng trong một đám đơng thì động cơ để bạn chạy tới trợ giúp một người gặp nạn
trở nên nhạt nhòa, như thể bị hòa tan bởi tiềm năng của cả một nhóm lớn. Mọi người đều nghĩ
rằng rồi sẽ có một ai đó hành động, nhưng bởi vì tất cả cùng chờ đợi nên chẳng có điều gì xảy
ra cả.
Ví dụ được coi là điển hình nhất của hiện tượng này có lẽ là câu chuyện bi kịch của
Kitty Genovese. Theo lời một bài báo vào năm 1964, Kitty đã bị tấn công và đâm bởi một kẻ
thủ ác vào lúc 3 giờ sáng tại một sân đỗ xe hơi trước cửa khu nhà chung cư của cô. Kẻ tấn
công đã bỏ chạy khi cô gái kêu cứu, nhưng khơng một ai trong 38 nhân chứng có mặt ở gần
đó tới trợ giúp. Câu chuyện miêu tả rằng kẻ sát nhân đã quay trở lại hiện trường tới hai lần để


tiếp tục đâm cô gái cho tới chết trong vịng 30 phút, trong khi có người theo dõi từ những ơ
cửa sổ xung quanh, về sau thì câu chuyện cũng đã bị lật tẩy, cho thấy đây thật ra là một vụ
viết báo thổi phồng thái quá, tuy nhiên vào lúc đó thì nó đã thu hút sự chú ý rất lớn của các
nhà tâm lý học về hiện tượng này.
Nhiều nhà tâm lý – xã hội học đã bắt đầu nghiên cứu về hiệu ứng bàng quan sau khi
câu chuyện này trở nên nổi tiếng, và những nghiên cứu của họ cho thấy khi càng có nhiều
người chứng kiến một vụ việc cần sự giúp đỡ khẩn cấp thì khả năng có một ai đó thực sự ra
tay càng thấp. Năm 1970, hai nhà tâm lý học Bibb Latane và John Darley tạo dựng thí nghiệm


trong đó họ sẽ cố tình đánh rơi bút chì hoặc tiền xu trước mặt một nhóm hoặc là một người.
Họ lặp lại thử nghiệm này tới 6000 lần. Kết quả ra sao?
Khi làm rơi đồ trước một nhóm người thì số lần họ được giúp nhặt lên chỉ chiếm
khoảng 20%, trong khi đó nếu chỉ có một người thì khả năng tăng lên tới 40%. Họ quyết định
làm một thí nghiệm mang tính chất quyết liệt hơn: Họ cho người tham gia điền bảng trả lời
câu hỏi trong một căn phịng, sau vài phút, khói sẽ bắt đầu tràn vào phịng từ một lỗ thơng khí.
Họ chạy thí nghiệm này với đối tượng ngồi một mình hoặc ngồi theo nhóm ba người. Khi ở
một mình, những người tham gia thí nghiệm chỉ mất khoảng 5 giây để phản ứng và trở nên
hoảng hốt, trong khi những người ngồi theo nhóm thì mất tới 20 giây để nhận ra có một vấn
đề gì đó khác lạ. Những người ở một mình sẽ nhanh chóng kiểm tra nguồn gây khói và sau đó
rời khỏi phịng để báo động những người làm thí nghiệm.
Trong khi đó, đối với trường hợp ngồi theo nhóm ba người, họ sẽ chỉ ngồi n tại chỗ
nhìn nhau cho tới khi khói dày tới nỗi khơng thể nhìn thấy cả bảng trả lời câu hỏi trước mặt.
Chỉ có 3 người trong số 8 nhóm được thí nghiệm là biết đứng dậy để rời khỏi căn phòng, và
họ mất trung bình 6 phút để làm điều đó. Phân tích từ thí nghiệm này cho thấy sự xấu hổ cũng
có vai trị quyết định hành vi của một nhóm. Bạn nhận ra là trong phịng có khói nhưng bạn
khơng muốn bị coi là một thằng khờ, thế là bạn liếc qua người bên cạnh xem họ đang làm gì.
Người đó cũng đang suy nghĩ giống như vậy.
Chẳng ai trong hai người có phản ứng gì cả, nên là cũng chẳng ai muốn tỏ ra hoảng
hốt. Người thứ ba thấy hai người cịn lại hành xử như vậy thì lại càng n tâm là chẳng có gì

bất thường đang xảy ra cả. Mọi người đều đang gây ảnh hưởng lên cách mà những người cịn
lại nhận định tình hình trong một hiện tượng gọi là ảo giác về sự minh bạch (illusion of
transparency).
Bạn có xu hướng cho rằng người khác có thể hiểu được mình đang nghĩ gì hay cảm
thấy thế nào chỉ bằng một cái nhìn. Bạn tin là người cịn lại có thể hiểu được rằng bạn cũng
đang lo lắng về đám khói, nhưng thật ra là họ không thể. Họ cũng suy nghĩ y như bạn thôi. Và
cuối cùng là chẳng ai trở nên hoảng hốt cả. Điều này dẫn tới một sự hiểu lầm tập thể – một
tình huống mà ai cũng đang nghĩ giống như nhau, nhưng tin rằng mình là người duy nhất
đang nghĩ vậy.
Sau thí nghiệm với khói trong phịng, khi được phỏng vấn, tất cả những người tham
gia đều thú nhận rằng họ thực sự đều hoảng sợ trong lòng, nhưng bởi vì những người xung
quanh khơng ai tỏ thái độ gì khác lạ nên họ cho rằng đó chỉ là do mình quá nhát. Các nhà
khoa học quyết định tăng độ kịch tính lên thêm nữa. Lần này, trong khi những người tham gia
trả lời câu hỏi, họ cho một người phụ nữ la thật to rằng cô ấy đã bị thương ở chân ngay phịng
kế bên. Có tới 70% số người ngồi trả lời câu hỏi một mình ra khỏi phịng để tìm hiểu chuyện
gì đã xảy ra, trong khi đó chỉ có 40% số người ngồi theo nhóm có hành động tương tự.
Khi bạn đi qua cầu và thấy một người gặp nạn dưới dòng nước đang kêu cứu, áp lực
thôi thúc để bạn ra tay trợ giúp sẽ trở nên lớn hơn nhiều nếu bạn đi một mình so với việc ở
trong một đám đơng. Khi chỉ có một mình, tất cả trách nhiệm cứu giúp người bị nạn là của
bạn mà thôi. Hiệu ứng bàng quan cũng trở nên mạnh mẽ hơn khi bạn nghĩ rằng nạn nhân đang
bị làm hại bởi một người mà họ quen biết. Lance Shotland và Margaret Straw đã chứng minh
điều này trong một thí nghiệm diễn ra vào năm 1978: Họ thuê hai diễn viên, một nam và một
nữ, đóng giả là đang cãi vã và đánh nhau. Những người xung quanh hầu như không hề can
thiệp khi diễn viên nữ la lên rằng “Tôi chẳng hiểu tại sao tôi lại cưới ơng nữa!”. Trong khi đó
nếu cơ ta hét “Tơi khơng biết ơng là ai!” thì sẽ được trợ giúp trong 65% số lần thử nghiệm.


Nhiều nghiên cứu cũng cho thấy chỉ cần có một người hành động là sẽ có nhiều người khác
cũng sẽ tham gia trợ giúp.
Cho dù đó có là hiến máu, giúp một người lạ thay lốp xe, quyên góp tiền cho một nghệ

sĩ đường phố, hay can thiệp vào một trận ẩu đả – mọi người đều chung tay trợ giúp khi họ
thấy một người khác hành động trước. Một ví dụ cuối cùng tuyệt vời để tổng kết chương này
là thí nghiệm Người Samari nhân đức. Thí nghiệm này được thực hiện vào năm 1973 bởi
Darley và Batson, với những người tham gia là những sinh viên trong lớp thần học của Đại
học Princeton.
Họ yêu cầu những sinh viên này phải chuẩn bị một bài thuyết trình về câu chuyện về
Người Samari nhân đức trong Kinh thánh. Trong sách Phúc âm của Luke, Chúa Jesus kể với
các môn đồ của mình về một người khách lữ hành khơng may gặp cướp và bị đánh đập tơi tả,
cuối cùng bị bỏ lại hấp hối bên vệ đường. Một linh mục và một người đàn ông đi qua nhưng
đều không ai ra tay giúp đỡ. Chỉ có một người Samari cuối cùng đã dừng lại để cứu trợ, mặc
dù nạn nhân là một người Do Thái, và giữa dân Do Thái và dân Samari có một mối hiềm
khích sâu đậm.
Bài học mà câu chuyện này truyền đạt là về việc nên dừng lại và mở lòng giúp đỡ
những người gặp khốn khó khơng kể hồn cảnh hay sắc tộc. Sau khi trả lời một loạt những
câu hỏi liên quan tới câu chuyện này, một nhóm các sinh viên được phổ biến rằng họ đã bị
muộn trong việc diễn thuyết ở một tịa nhà khác, nhóm cịn lại thì được cho biết là họ vẫn còn
nhiều thời gian. Trên đường di chuyển tới tòa nhà để diễn thuyết, một diễn viên được cài cắm
sẵn giả bộ bị ngã, kêu rên trong đau đớn như thể bị ốm và cần sự trợ giúp. Trong nhóm sinh
viên được cho biết là cịn nhiều thời gian, có 60% số người dừng lại và giúp đỡ. Vậy cịn đối
với nhóm đang vội thì sao?
Chỉ có 10% ra tay giúp đỡ, cịn những người khác thì phớt lờ, thậm chí cịn có người
dẫm lên diễn viên để đi nhanh hơn. Vậy nên là bài học rút ra từ chương này là bạn không
thông minh lắm đâu trong việc giúp đỡ người khác khi họ gặp nạn. Trong một căn phịng
đơng người hay một con phố bận rộn, bạn có thể tin rằng khi một điều gì đó xảy ra, mọi người
sẽ chỉ biết đông cứng lại và nhìn nhau. Nắm được điều này, hãy ln cố gắng trở thành người
đầu tiên phản ứng và ra tay trợ giúp – hoặc là cố gắng chạy thoát trong trường hợp như một
căn phịng ngập khói – bởi vì bạn có thể chắc chắn rằng những người khác sẽ khơng có hành
động gì đâu.




×