Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

BP GIÚP TRẺ 24 36 THÁNG HAM đến lớp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.75 KB, 17 trang )

Một số biện pháp giúp trẻ lớp 2 tuổi A1 thích đến lớp học tại trường Mầm non
Tân Văn, Bình Gia, Lạng Sơn

MỤC LỤC
Nội dung

Trang
02
03

1. Thực trạng vấn đề cần nghiên cứu
2. Các biện pháp thực hiện.
2.1.Biện pháp 1: Xây dựng lớp học hạnh phúc - là “Ngôi nhà
thứ hai” của trẻ
2.2.Biện pháp 2: Xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm
trung tâm
2.3.Biện pháp 3: Động viên, khích lệ trẻ kịp thời
2.4.Biện pháp 4: Đổi mới các hình thức giáo dục theo hướng
lấy trẻ làm trung tâm
2.5.Biện pháp 5: Phối hợp giữa giáo viên và gia đình

03
04
04

III. Kết luận, khuyến nghị.
1. Kết luận
2. Khuyến nghị và đề xuất

17
17


19

I. Đặt vấn đề.
II. Giải quyết vấn đề.

07
12
13
16

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài:
Bác Hồ đã từng nói với trẻ em như một lời khuyên, lời nhắc nhở nhẹ nhàng
dành cho thiếu nhi:
“ Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan”
Trẻ em là mầm, là búp trên cành nhỏ nhoi, tươi non, cần được chăm sóc. Trẻ
em được ví như mầm non ấy, như là tương lai của đất nước. Mỗi trẻ biết ăn, biết


ngủ, biết học hành tốt chính là một đứa trẻ ngoan ngoãn, làm những việc phù hợp
với lứa tuổi của mình.
Đất nước ta đang trong q trình đổi mới, cơng tác giáo dục được đặt lên hàng
đầu. Đặc biệt là giáo dục mầm non. Ở lứa tuổi này, trẻ được đến trường mầm non,
được vui chơi và khám phá những điều mình muốn.
Đối với trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi, trẻ bắt đầu biết nói. Ngơn ngữ được sử
dụng thuần thục dần dần khi cơ trị chuyện với trẻ hàng ngày, gợi mở cho trẻ bằng
những câu hỏi đơn giản. Vì vậy việc trẻ đến trường mầm non ở lứa tuổi này là một
điều rất quan trọng sẽ giúp cho sự giải quyết thành công các vấn đề trong tương lai
sau này.

Trẻ tự coi mình là trung tâm của thế giới nên trong ý nghĩ, tình cảm chỉ biết có
mình, khơng quan tâm đến thực tế.
Ví dụ: Khi trẻ địi thì muốn có ngay, khơng muốn chia sẻ với ai, khơng thỏa mãn thì
la khóc.
Lứa tuổi này, trẻ vẫn gắn bó với bố mẹ, anh chị em là chủ yếu nên việc làm
quen với môi trường mới là một việc hết sức khó khăn. Trẻ chỉ thực sự muốn trị
chuyện, chia sẻ với những ai mà trẻ cảm thấy tin tưởng. Vì vậy vai trị của cơ giáo
đặc biệt quan trọng. Cô vừa là bạn vừa là người hướng dẫn, đồng hành cùng trẻ
trong mọi hoạt động. Song với tình trạng tồn tại hiện nay đối với trẻ ở lứa tuổi này,
vì cịn nhỏ nên được bố mẹ nng chiều. Trẻ thường không chấp nhận bị hạn chế
và thường hờn dỗi khi trẻ địi cái gì mà khơng được đáp ứng. Bước đầu khi trẻ mới
bắt đầu làm quen với trường mầm non, trẻ còn lạ lẫm, sợ hãi. Trẻ thường khóc rất
nhiều vì cịn lạ bạn, sợ cơ. Bố mẹ vì thương con, sợ con khóc nhiều sẽ ảnh hưởng
đến sức khỏe, sợ con chưa thích nghi được với mơi trường mới nên lo lắng, đón
con về. Việc này vơ tình làm ảnh hưởng đến khả năng thích ứng của con với thế
giới bên ngồi. Tình trạng này kéo dài sẽ khiến trẻ rơi vào khủng hoảng tâm lý, trẻ
sẽ trở nên lầm lỳ, ít nói, dễ cáu gắt, dễ tủi thân, rối loạn giấc ngủ, khóc đêm…


Từ những suy nghĩ, trăn trở đó, tơi đã nghiên cứu, tìm tịi và áp dụng một số
biện pháp đơn giản, có hiệu quả và trình bày trong đề tài: “Một số biện pháp giúp
trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi ham thích đến lớp học trong trường mầm non”
2. Mục đích của đề tài:
Là một giáo viên mầm non được phân công phụ trách lớp nhà trẻ 24-36 tháng
tuổi. Độ tuổi còn non nớt, dễ tổn thương về tâm lý, đặc điểm tâm sinh lý của trẻ
phát triển mạnh, tôi thấy việc giúp trẻ ham thích đến lớp là một nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu. Những ngày đầu, trẻ không muốn rời xa mẹ đến với cô giáo và các
bạn nên khi mới vào lớp trẻ thường có thái độ sợ hãi, không chấp nhận sự giúp đỡ
của cô giáo, tránh né bạn, không hợp tác với cô trong mọi hoạt động. Vì vậy hoạt
động lao động của cơ giáo mầm non đòi hỏi phải linh hoạt, nhạy bén, phải có sự

sáng tạo để phát triển và đáp ứng với nhu cầu phát triển của trẻ. Nghệ thuật của cô
thể hiện ở chỗ biết hòa nhập với thế giới của trẻ, biết tôn trọng và đồng cảm với trẻ
tạo nên khơng khí cởi mở, lơi cuốn, thu hút trẻ. Như vậy, trẻ sẽ nghe theo sự hướng
dẫn của cô, biết vâng lời cô một cách thoải mái, vui vẻ.
3. Đối tượng nghiên cứu:
100% trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi lớp Đ1 học tại trường mầm non .......
4. Phạm vi của đề tài:
Tại lớp nhà trẻ 24-36 tháng tuổi Đ1

II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Tên đề tài: “Một số biện pháp giúp trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi ham thích
đến lớp trong trường mầm non”
1. Thực trạng vấn đề cần nghiên cứu:
1.1. Thuận lợi:


Được sự quan tâm của Phòng giáo dục và đào tạo, các cấp lãnh đạo đã tạo điều
kiện về cơ sở vật chất. Hiện nay, nhà trường có đầy đủ đồ dùng đồ chơi, trang thiết bị
phục vụ các hoạt động học cũng như vui chơi của trẻ để tạo khơng khí tốt nhất khi trẻ
đến lớp.
Đầu năm học, nhà trường ưu tiên bố trí, sắp xếp giáo viên cho nhóm lớp nhà trẻ
để cùng tiếp xúc, giao lưu với trẻ và phụ huynh, hiểu rõ hơn về sở thích và tính cách của
từng trẻ. Thể hiện sự yêu thương, sự chăm sóc nhiệt tình, chu đáo giúp trẻ dần làm quen
và tích cực hơn trong các hoạt động của lớp.
Nhà trường mua bổ sung đồ dùng đồ chơi cho lớp.
Giáo viên nhiệt tình làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo phục vụ cho các hoạt động học
của trẻ được linh hoạt, sinh động hơn.
Bản thân cô giáo năng động, nhiệt tình, ln chủ động tích cực, ln đồng hành
cùng trẻ trọng mọi hoạt động. Cô luôn quân tâm, chăm sóc trẻ từ bữa ăn, giấc ngủ đến
việc học hành.

Phụ huynh học sinh luôn quan tâm, tạo mọi điều kiện để giúp các con có tâm thế
tốt nhất khi đến lớp.
Trẻ có độ tuổi đồng đều, các cháu nhanh nhẹn, khỏe mạnh, có tỷ lệ chun cần
cao.
1.2. Khó khăn:
Diện tích phịng học cịn khiêm tốn nên việc bố trí các góc chơi chưa có
nhiều khơng gian để trang trí phù hợp với độ tuổi của trẻ.
Nhiều trẻ mới đi lớp cịn khóc nhiều, khơng chịu vào lớp. Cơ bế cùng khơng
chịu, thậm chí cịn cào cấu và đánh cơ. Có trẻ ngày nào đi học cũn khóc địi mẹ,
chạy ra cửa gọi mẹ. Phụ huynh thấy vậy nên thương con, khơng cho con đi học
nữa. Điều này gây khó khăn rất lớn trong việc dạy trẻ và giáo dục đối với các trẻ
khác. Trong những ngày đó, các cơ phải tất bật từ sáng nào dỗ dành, ẵm bồng. Đến
giờ ăn, trẻ quấy khóc, nơn trớ, khơng chịu hợp tác. Giờ ngủ, các cô phải ru trẻ ngủ.


Có trẻ mệt q, ngủ thiếp đi. Có trẻ khơng chịu ngủ, cô phải bế ra hành lang chơi
cùng con để khơng làm ảnh hưởng đến những trẻ khác.Tình trạng này kéo dài sẽ
gây ra những hệ lụy không tốt cho sức khỏe của trẻ như: Sụt cân, ho, viêm họng, sợ
hãi đám đơng, trở nên nhút nhát hơn…
Diện tích sân chơi cịn nhỏ hẹp gây khó khăn trong hoạt động ngoài trời của
trẻ
1.3. Đánh giá thực trạng của đề tài:
Số liệu điều tra trước khi thực hiện:
Từ những vấn đề liên quan đến đề tài nên ngay từ đầu năm học tôi đã tiến
hành khảo sát đối với 30 trẻ của lớp tại thời điểm đầu năm học. Và thu được kết
quả như sau:

Số liệu trẻ đầu năm
Tổng số trẻ
30


Nội dung

Số lượng

Tỷ lệ %

Trẻ ham thích đến lớp

8

26,7

Trẻ chưa ham thích đến lớp

10

33,3

Trẻ khơng muốn đến lớp

12

40

Qua bảng khảo sát trên, tơi thấy băn khoăn với trẻ lớp mình. Tơi nhận thấy cịn
nhiều trẻ chưa tích cực, hứng thú đến lớp. Đa số trẻ đi học khóc rất nhiều, có những
cháu đến lớp cịn nơn trớ ra cả người cơ giáo, thậm chí đánh cả cơ giáo… Là giáo
viên mầm non, những ngày này thật sự tôi cảm thấy rất mệt mỏi. Có những trẻ ngày
hơm sau khơng dám đi học vì lạ bạn, sợ cơ. Tất cả với chúng đều là những người xa

lạ, chưa từng gặp bao giờ. Về phía phụ huynh, khơng tin con mình có đi học được
hay khơng? Sợ con khóc nhiều khi dời xa vòng tay bố mẹ. Làm sao để phụ huynh
yên tâm khi trao con cho các cô? Là người giáo viên tâm huyết với nghề, tôi luôn
trăn trở về vấn đề này. Chính vì vậy, tơi đưa ra một số giải pháp sau để giúp trẻ tích
cực, hứng thú khi đến lớp.


2. Các biện pháp thực hiện đề tài “ Một số biện pháp giúp trẻ nhà trẻ 2436 tháng tuổi ham thích đến lớp học trong trường mầm non”:
2.1. Biện pháp 1: Xây dựng lớp học hạnh phúc, là “Ngôi nhà thứ hai”
của trẻ
“Mỗi ngày đến trường là một ngày vui” là một tiêu chí quan trọng mà bất kỳ
trường học nào cũng mong muốn đạt được. Để đạt được điều đó thì trường học đó
phải là trường học hạnh phúc. Muốn có một trường học hạnh phúc thì phải có từng
lớp học hạnh phúc. Khi xây dựng được những lớp học hạnh phúc, trường học hạnh
phúc thì lúc đó giáo viên và học sinh đều cảm thấy thoải mái, vui vẻ, hứng thú
trong quá trình dạy và học. Lớp học hạnh phúc phải dựa trên cơ sở cô và trẻ hiểu
nhau, tơn trọng lẫn nhau. Từ đó, tạo điều kiện để trẻ được phát triển bản thân mình
và hạnh phúc khi là chính mình.
Bởi mỗi trẻ là một cá thể khác biệt. Trò chuyện với phụ huynh về trẻ để biết
trẻ thích ăn gì? Khơng thích ăn gì? Và có thói quen như thế nào? Những ngày đầu
tiên đến trường đối với trẻ là những ngày khó khăn. Vì vậy cô giáo phải là người
bạn đáng tin cậy của trẻ. Những ngày đầu tiên, khi được bố mẹ đưa tới lớp, trẻ
thường có tâm lý dị xét, sợ sệt. Trẻ thường ơm chầm lấy bố mẹ, dù nói thế nào
cũng không chịu buông ra. Những lúc như vậy, tôi thường trò chuyện với trẻ để tạo
một sự tin tưởng nhất định. Sau đó trị chuyện với phụ huynh để nắm bắt được tâm
lý trẻ. Rồi từ từ tạo sự thân mật, gần gũi với trẻ như: Vuốt tóc, nắm tay hay chỉ là
một cái ơm nhẹ nhàng. Đó là bước khởi đầu để trẻ an tâm khi đến lớp. Sau đó tơi
bày biện đồ chơi để thu hút trẻ. Để tạo được sự chú ý từ trẻ, tôi thường tổ chức cho
cả lớp chơi trò chơi. Mặt khác, việc tuyên truyền với các bậc phụ huynh yên tâm
gửi con cho các cô, tạo được sự tin tưởng nhất định đối với trẻ và phụ huynh. Từ

những tình trạng thực tế đã giúp tơi tìm ra một số biện pháp để giúp trẻ thích nghi
với lớp được tốt hơn. Đầu năm, trẻ lớp tơi khóc rất nhiều. Khi trị chuyện với phụ
huynh tôi thường an ủi, động viên họ. Bởi bố mẹ lúc nào cũng thương con. Đó là


tâm lý chung của những bậc làm cha, làm mẹ. Họ sợ con khóc nhiều, sợ con đói sẽ
ảnh hưởng đến sức khỏe cũng như tâm lý của trẻ.
Đối với các cháu lần đầu tiên đến trường, bước đầu tôi chỉ dừng lại ở mức
chào hỏi, làm quen, không vội vàng tách các cháu ra khỏi vòng tay bố mẹ tránh cho
trẻ cảm giác hụt hẫng và bị bỏ rơi.
Ngoài những biện pháp giúp trẻ thích nghi sớm với trường lớp mầm non từ
những kinh nghiệm thực tiễn và kinh nghiệm học hỏi từ đồng nghiệp, tôi đã áp
dụng trong những năm học qua, tơi cịn đến với trẻ của bằng chính tình thương của
mình, bằng lịng u nghề, u trẻ như chính những đứa con của mình, ln hồ
mình vào thế giới của trẻ, luôn đáp ứng kịp thời những nhu cầu của trẻ nhưng
không vượt qua giới hạn. Chăm sóc, u thương trị chuyện để mỗi ngày trẻ đến lớp
càng có thêm nhiều niềm vui, trẻ u thích đến lớp và ngày càng ngoan ngoãn lễ
phép hơn. Thậm chí có những cháu bị ốm đầu dán cao hạ sốt nhưng sáng ngủ dậy
vẫn đòi bố mẹ cho con đi học với cô giáo và các bạn.
Tôi luôn cố gắng trở thành người bạn tin cậy của trẻ khi đến lớp, ln thu hút
trẻ vào những trị chơi nhỏ, hay vào những bài thơ, câu chuyện, ca dao, đồng dao
nhằm tạo sự quen thuộc như trẻ đang ở nhà với mẹ. Giờ ngủ nếu trẻ chưa chịu ngủ,
tôi cũng không ép trẻ vào nằm chung với các bạn, tôi sẽ để trẻ tự do ngồi đâu trẻ
thích, khi đó tơi sẽ đến nói với trẻ lại đây nằm chơi với cơ, con chỉ cần nằm chơi tí
xíu khi nào các bạn ngủ dậy cô sẽ cho con về. Hoặc tơi sẽ ngồi trị chuyện với trẻ
đến khi trẻ thấy buồn ngủ thì lúc đó tơi sẽ để trẻ vào gối nằm.
Khi đón trẻ tơi cũng thường dặn phụ huynh đón trẻ đúng giờ để trẻ tập quen
dần với mơi trường mới và sẽ khơng có cảm giác bị bố mẹ bỏ lại trường.
2.2. Biện pháp 2: Xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm
Tôi tổ chức cho cả lớp cùng chơi một trị chơi nào đó nhằm gây hứng thú cho

trẻ và quan sát biểu hiện của trẻ mới vào lớp. Để kích thích sự sáng tạo của trẻ hiếu


động, tôi giới thiệu cho trẻ tham gia chơi ở góc vận động tạo sự hứng thú cho trẻ.
Sau đó tiếp tục cho những trẻ khác chơi ở những góc chơi cịn lại.
Trưng bày ở các góc chơi nhiều đồ chơi hấp dẫn do nhà trường mua sắm
phục vụ cho các hoạt động của trẻ. Ngồi ra, tơi cịn tận dụng quỹ thời gian của
mình để làm ra nhiều đồ dùng đồ chơi từ những nguyên vật liệu phế thải như hộp
sữa chua tạo thành những con vật ngộ nghĩnh, từ những bìa catton, những miếng
xốp vụn tạo thành những cây hoa xinh xắn…kích thích trẻ chú ý và trẻ chơi.
Mặt khác, tôi cùng nhập vai chơi với trẻ để tạo sự thân thiện, gần gũi và để trẻ dễ
dàng thích ứng với vai chơi của mình.
Mỗi trẻ là một cá thể riêng biệt. Những sự khác biệt này bao gồm cả về
thể chất, năng lực, xu hướng, tính cách, hứng thú. Tất cả các trẻ đều có quyền địi
hỏi được quan tâm, yêu thương, đáp ứng nhu cầu bản thân. Mặt khác, các nhà giáo
dục cũng nhận thấy rằng về bản chất, phạm vi năng lực tiềm tàng của trẻ rộng hơn
rất nhiều những gì chúng thể hiện ở lớp. Để có thể bộc lộ năng lực tiềm ẩn này, trẻ
cần có mơi trường học tập cho phép chúng được học mọi lúc mọi nơi, theo nhiều
cách khác nhau. Mỗi trẻ là một cơ thể duy nhất. Vì vậy trẻ sẽ hoạt động trong mơi
trường theo cách của mình. Do đó, cơ giáo cần tạo cho trẻ một tâm thế tốt nhất khi
ở lớp, luôn bên cạnh trẻ để trẻ cảm thấy mình được u thương, được tơn trọng.
Điều này giúp trẻ biết nghe lời cô và phát triển khả năng bẩm sinh sẵn có của mình,
hứng thú nhận thức càng cao, trẻ càng thể hiện rõ năng lực của bản thân. Đối với
lớp nhà trẻ 24-36 tháng thì hoạt động với đồ vật là hoạt động mang tính chủ đạo.
Chính những hoạt động này tạo nên những biến đổi về chất trong tâm lý của trẻ làm
cho các hoạt động khác nhau mang màu sắc riêng của nó. Trong trường mầm non,
hoạt động với đồ vật ln có sự hướng dẫn, tổ chức của cô giáo. Trẻ được học tập
và tiếp thu kiến thức dưới hình thức “Chơi mà học - học mà chơi”. Trong giờ học,
trẻ được học các kỹ năng, còn trong các hoạt động khác trẻ được ứng dụng các kỹ
năng đó. Hoạt động ở các góc là hoạt động cá nhân hoặc một nhóm trẻ nên trẻ có

cơ hội được lựa chọn góc chơi mà trẻ ưa thích. Trẻ được tự do giao tiếp, tự do chọn


đồ chơi, được trải nghiệm hứng thú qua các trò chơi sẽ giúp trẻ tự tin hơn. Vì vậy
việc xây dựng môi trường giáo dục cũng là điều rất quan trọng đối với trẻ mầm non
đặc biệt là trẻ nhà trẻ 24-36 tháng.
* Mơi trường ngồi lớp học
Yếu tố trường lớp cũng là yếu tố cần thiết cho sự ham thích đi học của
trẻ. Trường Mầm Non Yết Kiêu có sự hạn chế về diện tích nhưng có khơng gian
sạch sẽ, thống mát, khu vực chơi ngồi trời sạch sẽ, đồ chơi phong phú thu hút
được trẻ.
Tôi sẽ dắt trẻ ra sân chơi, tổ chức nhiều trò chơi dân gian như mèo đuổi
chuột, dung dăng dung dẻ…. hay chỉ cần trò chuyện hoặc cho trẻ xem cảnh vật
xung quanh sân trường, cho trẻ chơi trượt cầu, chơi thú nhún, kể chuyện cho trẻ
nghe, tham quan vườn cây của trường. Việc này sẽ gây hứng thú và chiếm được
nhiều cảm tình của trẻ.
* Mơi trường trong lớp học
Ngồi việc xây dựng mơi trường giáo dục ngồi trời thì việc xây dựng môi
trường giáo dục trong lớp cần chú trọng hơn nhiều.Để trẻ thích được đến lớp tơi
cùng với giáo viên trong lớp trang trí, xây dựng mơi trường giáo dục thật đẹp bằng
những nguyên vật liệu sẵn có phù hợp với lứa tuổi của trẻ lớp tôi, phù hợp với chủ
đề, chủ điểm tạo không gian mới lạ đẹp mắt để trẻ quên đi nỗi nhớ bố mẹ, làm quen
môi trường mới tốt hơn.
Bố trí các góc chơi phù hợp khoảng cách giữa góc động và tĩnh bố trí hợp lý
cùng những hình ảnh ngộ nghĩnh, đẹp mắt với trẻ. Giáo viên cần sang tạo thêm
nhiều góc chơi có nhiều đồ dùng đẹp mắt để lôi cuốn trẻ. Khi dắt trẻ vào lớp, tôi
cùng trẻ dạo quanh lớp, gợi hỏi trẻ những đồ vật, đồ chơi này tên là gì để trẻ trả lời,
nếu trẻ trả lời không được hoặc không thích trả lời, tơi sẽ gợi ý và giúp trẻ trả lời.
Ngồi việc trang trí xây dựng mơi trường giáo dục đẹp thì trường lớp phải, thống
mát, sạch sẽ, được lau chùi thường xuyên, nhiều đồ chơi hấp dẫn, thu hút trẻ.



Từ khi sử dụng biện pháp trên vào đối với học sinh của lớp mình tơi thấy trẻ
có sự tiến bộ rõ rệt, đạt kết quả rất tốt.
2.3. Biện pháp 3: Động viên, khích lệ trẻ kịp thời, hàng ngày
Trong chương trình giáo dục mầm non, phương pháp tiếp cận với trẻ rất quan
trọng. Việc khích lệ trẻ là một trong những “Chìa khóa vàng” để các bài học bổ ích
nhanh chóng được trẻ tiếp thu. Khích lệ là hành động khen ngợi, động viên khi trẻ
làm đúng. Chẳng hạn như: Trẻ ăn ngoan, ăn hết xuất, trẻ chơi đồ chơi xong biết cất
vào đúng nơi quy định, trẻ biết chào hỏi người lớn. Khi làm được những điều ấy
chứng tỏ trẻ đã quan sát và học hỏi rất nhiều từ việc dạy dỗ của các cơ và gia đình.
Khi được khen ngợi, trẻ tỏ ra hứng thú và ngoan ngoãn, nghe lời hơn.
Khi cho trẻ tham gia vào bất kỳ hoạt động nào, tôi thường đưa ra phương pháp
“Thi đua” giữa các tổ, nhóm và các bạn với nhau. Xuyên suốt một hoạt động, tôi
thường nhận xét, đánh giá và động viên kịp thời. Chẳng hạn như: Con làm rất tốt
nhưng hơi chậm một chút, lần sau con hãy cố gắng hơn nữa nhé!hoặc cô nghĩ “Lần
sau con sẽ làm tốt hơn”. Vì vậy để trẻ hứng thú hơn trong các hoạt động, tự tin thể
hiện năng lực của bản thân, giáo viên cần động viên, khích lệ trẻ kịp thời, hàng
ngày.
2.4. Biện pháp 4: Đổi mới các hình thức giáo dục theo hướng lấy trẻ làm
trung tâm.
Qua các giờ học ngoài việc truyền tải kiến thức đến trẻ, thu hút trẻ vào bài dạy
của mình để trẻ khơng cịn khóc và khi về nhà địi bố mẹ ngày mai con lại đi học
với cô giáo. Tôi đã học tập nghiên cứu rất nhiều qua tài liệu, công nghệ thơng tin để
tích lũy, học hỏi kinh nghiệm cho mình những kiến thức hay cách lên lớp tốt tạo sự
thoải mái cho trẻ khi học tập, không tạo áp lực với trẻ.
Ví dụ: Qua giờ học vui nhộn như âm nhạc. Tùy vào từng chủ đề tôi áp dụng
làm những chiếc mũ xinh, hay những bộ quần áo ngộ nghĩnh, cho trình diễn thời
trang. Từ đó trẻ rất thích và hứng thú trong từng hoạt động.



Qua giờ văn học: Cô giáo luôn là người bạn tin cậy của trẻ khi đến lớp, luôn
thu hút trẻ vào những bài thơ câu chuyện, ca dao, đồng dao, hát ru nhằm tạo sự
quen thuộc như trẻ đang ở nhà với mẹ. Ngồi ra tơi cịn sử dụng cơng nghệ thông
tin sử dụng Power Point áp dụng vào những bài dạy khiến hình ảnh thêm sinh
động rõ nét. Thay đổi nhiều hình thức trên bài dạy như các câu chuyện vừa sử dụng
Power Point vừa sử dụng tranh, mô hình kết hợp hài hịa để tạo sự tị mị đối với
trẻ từ đó mỗi khi lên lớp tơi cảm thấy tự tin phấn khởi hơn khi thấy các cháu chăm
chú học tập.
Đối với những giờ học trầm: như nhận biết tập nói, hoạt động với đồ vật tơi

thường kết hợp các hoạt động âm nhạc hay các trò chơi vào cho tiết học sinh động
không tạo sự nhàm chán đối với trẻ. Hỏi trẻ những câu hỏi đơn giản, kích thích trẻ
trả lời. Tạo cho trẻ sự hứng thú khi học bài. Sử dụng những đồ chơi gây hứng thú
đối với trẻ.
- Về màu sắc: Sử dụng ba màu cơ bản để trẻ dễ ràng nhận biết. Ngoài ra còn
mở rộng một số màu khác để trẻ nhận biết thêm.
- Chất liệu: Sử dụng nhiều chất liệu dễ kiếm dễ tìm.
- Đồ chơi đảm bảo tính giáo dục an tồn đối với trẻ.
Hay đối với giờ học tạo hình:
Từ hoạt động tạo hình mà trẻ biết được thế giới tự nhiên, cuộc sống con người
vô cùng phong phú đa dạng và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Từ đó trẻ sẽ tái
tạo những cảnh vật bằng sự cảm nhận ban đầu đầy ngộ nghĩnh hồn nhiên, đáng yêu
của tâm hồn trẻ thơ thông qua các sản phẩm của trẻ. Hoạt động tạo hình giúp trẻ
hiểu một cách sâu sắc về các mối quan hệ về sự vật, hiện tượng xung quanh trẻ. Từ
đó trẻ có thái độ, tình cảm, các hành vi ứng xử tốt qua việc thể hiện các sản phẩm
tạo hình. Dạy vẽ cịn giúp cho trẻ bước đầu làm quen với các phương tiện và ngơn
ngữ tạo hình như: Phát triển khả năng tri giác đồ vật về hình dáng, đường nét, cấu
trúc, màu sắc, hình thành cho trẻ các thao tác tư duy nhằm phát triển khả năng sáng



tạo. Với trẻ lứa tuổi nhà trẻ hoạt động tạo hình bao gồm vẽ, tơ màu, chấm màu,
dán…Thơng qua hoạt động này giúp trẻ tìm hiểu khám phá, tái tạo lại những sự vật
hiện tượng của thế giới xung quanh hình thành cho trẻ xúc cảm, tình cảm, trẻ nhận
thức được cái đẹp, biết yêu quý sáng tạo ra cái đẹp, biết trân trọng những sản phẩm
của mình làm ra. Từ đó trẻ biết u lao động, biết giữ gìn đồ dùng đồ chơi.
* Đối với giờ ăn
Có thể vài ngày đầu, tơi vẫn sẽ chiều theo nhiều thói quen không tốt của trẻ
như: không ăn thịt, rau, đậu, ăn rất ít cơm, hay giờ ngủ phải bế lên vai ru ngủ, nằm
bên cạnh trẻ mới ngủ, tiểu tiện trong quần… Tơi sẽ từ từ tập dần thói quen cho trẻ
đến khi trẻ quen dần và hiểu chuyện tôi sẽ đưa trẻ vào nề nếp ăn ngủ, vệ sinh. Nếu
trẻ khơng muốn ăn nữa hoặc muốn ói cơ phải ngưng cho trẻ ăn vì nếu nơn thức ăn,
trẻ sẽ rất sợ thức ăn ở trường. Khi đó cơ sẽ cho trẻ uống sữa bù lại khẩu phần ăn
của trẻ. Vài ngày sau cho trẻ ăn tăng dần lên một ít cơm hoặc cháo, trẻ sẽ dễ thích
nghi với thức ăn ở trường, sau đó sẽ ăn nhanh gọn và hết suất. Không cho trẻ ăn
quà vặt trước giờ ăn để tạo sự thèm ăn cho trẻ.
* Đối với giờ ngủ:
Cháu chưa quen với giấc ngủ ở trường hay có cháu ở nhà không chịu ngủ
trưa, tôi bế cháu dỗ dành để đưa cháu dần vào giấc ngủ. Hiện nay, với lớp tôi giờ
ăn ngủ của các cháu rất là ngoan, vào nề nếp ăn xong rửa tay đi vệ sinh và vào
chỗ của mình nằm ngủ. Đơi khi khơng cần cô phải nhắc nhở.
Là giáo viên mầm non, tôi luôn ý thức trách nhiệm của bản thân là phải tạo
không khí vui tươi, thoải mái cho trẻ, động viên trẻ đi học đều, tạo điều kiện, quan
tâm đến những trẻ nhút nhát, dành thời gian gần gũi, trò chuyện với trẻ để trẻ mạnh
dạn, tự tin tham gia các hoạt động tập thể giúp trẻ được giao tiếp nhiều hơn.
2.5. Biện pháp 5: Phối hợp giữa giáo viên và gia đình.
Để cùng cơ giáo đưa các cháu vào nề nếp học tập, hứng thú đi học thì mỗi
phụ huynh cũng góp phần khơng nhỏ. Tơi cùng với các cơ giáo ở lớp luôn động



viên phụ huynh đưa con đi học đều để tạo cho các cháu thói quen trong học tập.
Trước hết, nhà trường phải giúp phụ huynh nắm được quy định của trường, chế độ
ăn, lịch sinh hoạt của học sinh. Sau đó, cha mẹ sẽ tập cho trẻ sinh hoạt ở nhà gần
giống như ở trường
Ví dụ: 7h30 - 8h30 là giờ đón trẻ, tập cho trẻ thói quen ăn sáng để đi học đúng
giờ. Tập cho trẻ một số thói quen như: Ăn, ngủ, vệ sinh... Khi ăn không làm rơi vãi
cơm, ngủ trên giường chứ không nằm võng hay nơi, biết ngồi bơ... Nói chuyện với
bé về những điều thú vị ở trường mầm non. Hàng ngày phụ huynh cũng nên đưa bé
đến trường chơi vào giờ trả trẻ. Bé sẽ chơi ngoài sân hoặc vào trong lớp học để làm
quen với cô giáo, với đồ dùng, đồ chơi...
Cùng cơ động viên khích lệ trẻ phối kết hợp liên hồi để biết được những phản
ứng của trẻ, có cách khắc phục có hiệu quả hơn. Tơi động viên phụ huynh mỗi tuần
một tối cho trẻ học bài như vẽ tranh tùy vào sở thích. Trẻ thích vẽ gì nên để trẻ vẽ
bố mẹ nên hướng dẫn con tô vẽ thế nào cho đẹp. Hay trẻ hát cho bố mẹ, cả nhà
cùng nghe, động viên khích lệ trẻ. Sáng mai trao đổi cùng cơ giáo, động viên
khuyến khích trẻ, đưa sản phẩm trẻ làm cho cơ để cơ trang trí lớp. Dùng chính đồ
dùng mà trẻ mang đến cho trẻ chơi. Cho phụ huynh xem những sản phẩm tạo hình
của trẻ mà trẻ làm được trong giờ học. Điều đó vừa tạo cho phụ huynh sự tin tưởng
ở cô giáo vừa tạo cho cho trẻ sự thoải mái thích thú và muốn được đi học.
Từ những biện pháp trên mà các cháu lớp tôi kể cả việc đến lớp cũng như
trong học tập đều đạt kết quả rất tốt.. Điều đó cũng làm cho phụ huynh yên tâm và
phấn khởi rất nhiều khi gửi con cho cô giáo. Lớp tôi cũng dần thu hút được rất
đông trẻ đến lớp học. Và một điều thường không hay thấy ở lớp nhà trẻ đó là trẻ
lớp tơi cịn đi học rất đều. Từ khi bản thân đã đưa ra được những biện pháp để giúp
trẻ thích được đến lớp hơn.
III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận:


Sau khi nghiên cứu đề tài trên, cũng như áp dụng một số biện pháp trên vào

việc “Đưa trẻ thích được đến lớp học”của lớp tơi nói riêng và trẻ thích được đến
trường mầm non nói chung, tơi đã rút ra được một số kinh nghiệm:
- Khảo sát trẻ để nắm chắc tình hình tâm lý trẻ nhất là trẻ nhà trẻ.
- Giáo viên luôn nghiên cứu kỹ các phương pháp để hướng dẫn trẻ thực hiện.
- Cần học hỏi và nâng cao nghệ thuật lên lớp, trong cách ứng xử tình huống sư
phạm. Dạy trẻ có kế hoạch bồi dưỡng thêm những trẻ yếu hơn, tiếp thu chậm. Luôn
khuyến khích động viên, khen ngợi trẻ tạo sự hứng thú cho trẻ.
- Xây dựng môi trường học tập.
- Kết hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường trong cơng tác chăm sóc giáo
dục trẻ làm đồ dùng đồ chơi phục vụ cho viêc chơi và học của trẻ.
Hơn nữa việc đưa trẻ thích đến lớp là vơ cùng quan trọng hàng ngày đối với
trẻ. Vì thế là một giáo viên cần xác định đây là nhiệm vụ quan trọng phải khắc phục
mọi khó khăn chuẩn bị tốt đồ dùng, đồ chơi để tổ chức cho trẻ hoạt động hàng ngày
tạo điều kiện cho trẻ được tiếp xúc với các hoạt động hàng ngày bằng nhiều hình
thức khác nhau. Qua việc thực hiện áp dụng biện pháp mới tôi thấy trẻ thích chơi
hơn, sáng tạo hơn, linh động hơn, nhanh nhẹn hơn, thay vào sự nhàm chán của trẻ ở
những năm học trước bằng những sự hứng thú, tập trung, giúp trẻ chơi với đồ chơi
thể hiện được sự khéo léo, sự giao lưu giữa bạn bè và trẻ.
Giúp cho giáo viên thêm phần khéo léo, sáng tạo trong việc tìm ra các giải
pháp để thực hiện tốt chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của bản thân đã áp dụng vào việc đưa trẻ
ham thích được đến lớp và cũng có một số kinh nghiệm rút ra từ thực tế của lớp
học để áp dụng vào. Bản thân tôi sẽ cố gắng học hỏi hơn nữa để tìm ra những giải
pháp tối ưu nhằm đáp ứng nhu cầu cho trẻ theo chương trình hiện hành.
Từ những cơ sở thực tiễn trên, tơi nhận ra rằng giữa giáo viên, nhà trường, gia
đình trẻ phải có sự thống nhất trong tồn bộ q trình chăm sóc, bảo vệ và giáo dục


trẻ em ở cả hai môi trường: trường mầm non và gia đình. Trẻ mầm non cịn rất non
nớt, khơng thể tự phát triển mà có vai trị dẫn dắt của người lớn .Vì vậy việc giáo

dục mầm non phải thể hiện được vai trò chủ đạo của giáo viên, đưa ra những yêu
cầu phù hợp với đặc điểm cá nhân, vốn sống của trẻ. Qua các bước phân tích trên,
tôi đã rất đạt hiệu quả trong việc thu nhận trẻ mới và rất mong sẽ có nhiều phụ
huynh tin u gửi con ln an tâm về cách chăm sóc, giáo dục trẻ theo các hướng
đã đề ra.
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
- Đối với giáo viên:
+ Nắm chắc tâm lý của từng trẻ, nắm được phương pháp giúp cho trẻ thích đến

lớp.
+ Có nhiều kinh nghiệm trong việc chiêu sinh trẻ đến lớp học.
+ Nâng cao kinh nghiệm trong giảng dạy, cũng như trong việc chăm sóc trẻ
hàng ngày.
- Đối với trẻ:
+ Qua một thời gian áp dụng những biện pháp trên tôi nhận thấy trẻ lớp tôi có
khả năng giao tiếp mạnh dạn hơn, thích được đi học hơn.
+ Biết thể hiện tình cảm, giao lưu giữa bạn bè, giữa trẻ và cơ, thích chơi cùng
bạn, biết được nhiệm vụ của mình và bạn trong khi chơi, có thái độ tự giác cùng
bạn đến góc chơi, hứng thú trong khi chơi và có ý thức giữ gìn đồ dùng, đồ chơi.
Biết chia sẻ phân vai chơi cùng nhau một cách hịa đồng hơn, đồn kết hơn.
Qua việc áp dụng các biện pháp trên, tôi đã thu được kết quả như sau:

Số liệu cuối năm


Tổng số trẻ
30

Nội dung


Số lượng

Tỷ lệ %

Trẻ ham thích đến lớp

27

90

Trẻ chưa ham thích đến lớp

3

10

Trẻ khơng muốn đến lớp

0

0

Bảng tổng hợp so sánh số liệu điều tra trên trẻ trước và sau khi thực
hiện đề tài
Trẻ hứng thú đi hoc
Tổng số trẻ

Kết quả đầu Kết quả cuối Kết quả đầu
năm


30

Trẻ chưa hứng thú đi học

năm

năm

Kết quả
cuối năm

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

8

26,7


27

90

22

73,3

3

10

Bảng khảo sát trên đây thể hiện rõ sự thay đổi vượt bậc của trẻ vào thời điểm
đầu năm và cuối năm học: Qua việc áp dụng những phương pháp trên, tôi nhận
thấy tích cực, hứng thú hơn khi đến lớp. Thể hiện rõ khả năng quan sát, sáng tạo
trong các hoạt động trên lớp. Gạt bỏ nỗi sợ hãi khi phải đến trường mầm non, thay
vào đó là sự thích thú, hào hứng khi được vừa học vừa chơi, khám phá những điều
mình muốn, tạo tâm lý thoải mái khi vui chơi cùng các bạn và cô giáo.
2. Khuyến nghị, đề xuất:
Qua thời gian áp dụng những biện pháp trên vào thực tiễn, tôi đã thu được kết
quả đáng kể. Tôi cũng đã đóng góp được một phần cơng sức của mình vào trong sự
nghiệp dạy trẻ. Tôi đã cố gắng hết sức để làm thật tốt sự nghiệp giáo dục của mình.
Để làm tốt hơn nữa tối có một số đề nghị như sau:
- Đề nghị ban giám hiệu trường tạo điều kiện cho chị em được dự giờ thăm
lớp nhiều hơn. Đặc biệt là đối với hoạt động giúp trẻ ham thích đi học để chị em
học hỏi vận dụng kiến thức vào thực tế cho mình tốt hơn.


- Tạo điều kiện cho giáo viên đi tham quan, học hỏi để lấy kinh nghiệm ở

trường bạn.
Trên đây là một số ý kiến nhỏ của tôi khi thực hiện đề tài: “Một số biện pháp
giúp trẻ nhà trẻ 24-36 tháng ham thích đến lớp học trong trường mầm non”.
Trong thời gian nghiên cứu có hạn, chắc chắn đề tài cịn nhiều hạn chế và những
thiếu sót nhất định. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo và
đồng nghiệp giúp đỡ, bổ sung thêm để tơi có nhiều kinh nghiệm trong việc thực
hiện chun mơn của nhà trường trong những năm tiếp theo.
Tôi xin chân thành cảm ơn!



×