Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Thực trạng bất bình đẳng giới tại Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.47 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG

A. Cơ sở lý thuyết
I. Thế nào là bất bình đẳng ?

2

1. Định nghĩa

2

2. Nguyên nhân xảy ra

2

II. Bất bình đẳng giới
1. Khái niệm
2. Hậu quả của bất bình đẳng giới
B. Thực trạng bất bình đẳng giới tại Việt Nam hiện nay
1. Nhìn nhận chung về bất bình đẳng giới ở Việt Nam.
2. Tính cấp thiết của vấn đề.
3. Thực trạng bất bình đẳng giới trên thế giới.
4. Bất bình đẳng giới tại Việt Nam
5. Giải pháp xóa bỏ bất bình đẳng giới
C. Kết luận

A. CƠ SỞ LÝ THUYẾT


4
4
4
7
7
8
10
13
15


I. Thế nào là bất bình đẳng ?
1. Định nghĩa
Bất bình đẳng xã hội là một vấn đề tồn tại trong nhiều chế độ xã hội. Có
nhiều quan điểm khác nhau và chưa có sự thống nhất về bất bình đẳng xã hội.
Nhưng chúng ta đều thừa nhận rằng:
Bất bình đẳng xã hội là sự không bằng nhau về các cơ hội hoặc lợi ích đối
với nhiều cá nhân khác nhau trong một nhóm hoặc nhiều nhóm trong xã
hội
VD: Về sự bất bình đẳng giới: tư tưởng “ trọng nam kinh nữ” vẫn ăn sâu vào
tiềm thức mỗi con người. Phụ nữ ít khi được bình đẳng với nam giới về quyền
lực, các nhà lãnh đạo chính trị ln là nam giới, người đứng đầu các dịng họ
ln là nam giới… Trong gia đình, đa số các bà vợ ln phải đối mặt với nạn
bạo hành, đàn ơng có quyền chi phối vợ mình, phụ nữ ít có quyền đối với đời
sống hôn nhân, người vợ luôn phải thể hiện sự tơn kính đối với chồng…
2. Ngun nhân xảy ra
Ở các nước bình đẳng khác nhau , bất bình đẳng cũng có những nét riêng
biệt. Bất bình đẳng thường xun tồn tại với những nguyên nhân và kết quả
liên quan đến yếu tố tự nhiên, giai cấp xã hội, địa vị kinh tế xã hội, văn hóa,
giới tính chủng tộc, tôn giáo, lãnh thổ… chủ yếu là :

 Sự khác nhau về điều kiện tự nhiên
 Con người sinh ra và tồn tại trong điều kiện môi trường tự nhiên khác
nhau sẽ có cơ hội và được “mang đến” những lợi ích khác nhau.
Những người sinh ra trong điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ có cơ hội tốt
cho sự tiến bộ, ngược lại với điều kiện tự nhiên khó khăn, khắc nghiệt
sẽ có ít cơ hội hơn.
 Yếu tố tự nhiên còn tạo nên đặc điểm tự nhiên của con người, của các
cá nhân như giới tính, thể lực, trí tuệ, nhân cách… đây là yếu tố có tác
động lớn và có ảnh hưởng lâu bền đến bất bình đẳng xã hội. Tuy nhiên

2


xã hội càng phát triển, tiến bộ những khác biệt và phân biệt về các yếu
tố tự nhiên càng được khắc phục dần.
 Sự khác nhau về kinh tế
Cá nhân có điều kiện kinh tế tốt hơn nhiều cá nhân khác trong xã
hội,chủ thể đó sẽ có nhiều cơ hội tốt hơn. VD như dịch vụ giáo dục,y
tế của các cá nhân khác nhau trong xã hội.
 Sự khác nhau về xã hội
Địa vị xã hội là vị trí then chốt của một cá nhân gắn liền với quyền
hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm trong một cơ cấu được xác định.Địa vị xã
hội thường gắn với nghề nghiệp chức vụ của con người.
VD:Trong doanh nghiệp, người lao động trực tiếp và người quản lí có địa vị
xã hội khác nhau nên cơ hội và lợi ích khơng bằng nhau tạo nên mức thu
nhập, mức sống, vị thế xã hội khác nhau.
 Cá nhân trong xã hội có địa vị cao sẽ có nhiều cơ hội và lợi ích hơn so
với cá nhân ở địa vị thấp. Khi cá nhân có địa vị cao trong xã hội, anh ta
có thể lợi dụng quyền lợi đó để tạo ra sự khơng cơng bằng cho nhiều cá
nhân, nhóm khác nhau trong xã hội.

 Sự khác nhau về ảnh hưởng chính trị
 Chính trị có thể tạo ra nhiều quyền lực đặc biệt cho nhiều cá nhân các
nhóm trong xã hội. Nếu cá nhân nắm giữ chức vụ nhất định trong hệ
thống chính trị sé có nhiều cơ hội thuận lợi hơn. VD: Người làm cơng
tác lãnh đạo “có chân” trong bộ máy chính quyền sẽ có cơ hội hơn để
thăng tiến.
 Sư khác nhau về văn hóa
 Có nhiều giá trị văn hóa hạn chế khả năng tiếp cận nhiều cơ hội tốt
trong cuộc sống của con người và ngược lại. VD: phụ nữ trong xã hội
phong kiến trước đây bị quan niệm là những người chỉ làm việc trong
gia đình, khơng được tiếp xúc với xã hội, khơng có cơ hội để tiến bộ,
phụ thuộc vào gia đình. Phụ nữ ngày nay đã có sự bình đẳng hơn, có sự
phát triển và nhiều đóng góp cho xã hội
II. Bất bình đẳng giới
1. Khái niệm
3


Cũng giống như bất bình đẳng xã hội, bất bình đẳng giới là sự đối xử khác
biệt đối với nam và nữ về cơ hội, sự tham gia, tiếp cận, kiểm soát và thụ
hưởng các nguồn lực.
2. Hậu quả của bất bình đẳng giới
a) Bất bình đẳng giới trong giáo dục sẽ làm:
 Giảm chất lượng trung bình của nguồn nhân lực trong xã hội và có tác
động xấu tới phát triển kinh tế. Sở dĩ vậy là vì nó làm hạn chế nguồn
chất xám cho giáo dục, khiến nữ giới khơng được học hành đầy đủ.
VD: Một gia đình có 2 đứa con, 1 trai 1 gái nhưng do hồn cảnh khó
khăn nên người con gái khơng được đi học để nhường cho người con
trai được đến trường. Vì từ xưa đã trọng nam khinh nữ nên người con
trai luôn được ưu tiên cơ hội.

 Giảm năng lực của các nước trong việc tận dụng nguồn nhân lực trong
các ngánh sản xuất. Trên cơ sở bằng chứng thực nghiệm, có nghiên
cứu chỉ ra rằng khoảng cách giới trong giáo dục làm giảm tăng trưởng
kinh tế. Khoảng cách giới trong giáo dục có tác động tiêu cực đến sự
tăng trưởng kinh tế về sau.
VD: Nữ giới không được đi học, không được đào tạo kiến thức cần
thiết sẽ không thể tận dụng nữ giới vào những cơng việc mang tính
chất kỹ thuật mà chr có thể tuyển chọn nam giới bởi nam giới được
đào tạo đầy đủ. Điều đó khiên đất nước khơng tận dụng hết nguồn lực
đang có.
 Khiến nữ giới khơng được phát huy trình độ và khả năng vốn có chỉ vì
khơng có bằng cấp.
VD: chị Hằng ở Hà Tĩnh có thể làm cơ khí, có kinh nghiệm và tay
nghề nhưng nhà nghèo khơng có tiền đi học trường đào tạo nghề để có
tấm bằng nên khi chị đi xin việc tại công ty liền bị từ chối.
b) Bất bình đẳng giới trong gia đình
4


 Phụ nữa phải làm việc nhà nhiều hơn ảnh hưởng đến sức khỏe của chị
em phụ nữ, giảm chức năng xã hội, nhan sắc tàn phai.
VD: Gia đình chị Yến, sau khi làm ở công ty về chị phải đón con, đi
chợ nấu cơm dọn dẹp nhà cửa trong khi anh Vũ chồng chị thì tan giờ
làm đi café với đồng nghiệp.
Hay người phụ nữ chưa đẻ được con trai thì nhà chồng ép phải đẻ tiếp
để có đứa con trai nối dõi cho nhà chồng làm ảnh hưởng đến sức khỏe
của phụ nữ.
 Người phụ nữ mất cơ hội việc làm
VD: Gia đình nhà chị Trang ở Nam Định, chị Trang có việc làm ổn
định lương cao cịn anh Tuấn chồng chị thì cơng viecj khơng ổn định

lương thấp. Chị Trang có nguyện vọng chồng sẽ ở nhà chăm lo gia
đình để chị làm kinh tế chính. Nhưng anh Tuấn khơng đồng ý vì cho
rằng đàn ơng khơng thể làm những việc như thế, việc chăm lo gia đình
ni dậy con cái là việc bất khả kháng của vợ. Kinh tế gia đình khơng
ổn định nên gia đình đã rất khó khăn vậy nên chị Trang phải đi làm
thêm lúc con đi học để thêm số tiền ít ỏi cho ga đình.
 Bạo lực gia đình
VD: người phụ nữ bị lệ thuộc kinh tế, người đàn ông chịu áp lực từ
công việc nên về nhà chút giận lên gia đình, đánh đập vợ con. Bên
cạnh những câu chuyện như vậy vẫn có những người đàn ơng bị vợ
con cư xử không đúng mực.
 Hành động thất đức lấy đi cơ hội sống của trẻ nhỏ.
VD: Trọng nam khinh nữ luôn là vấn nạn từ xưa đến nay. Vậy nên có
gia đình khi vợ có thai là con gái đã đi phá thai hành động này thực
đáng lên án.
c) Bất bình đẳng giới trong xã hội và cơ hội việc làm.

5


 Nam nhiều hơn nữ sẽ dẫn đến mất cân bằng giới tính nghiêm trọng ở
Việt Nam.
 Xuất hiện giới tính thứ 3 do quá ít nữ giới nên nam giới đã nảy sinh
tình cảm với người cùng giới. Điều đó cũng ảnh hưởng đến tâm lý nữ
giới và cũng nảy sinh đồng tính nữ.
 Mại dâm ngày càng nhiều không chỉ nữ giới mà ngày nay mại dâm ở
nam giới do nữ nhiều hơn nam và một phần nữ muốn được giải quyết
nhu cầu sinh lý của bản thân.
 Nữ giới bị hạn chế cơ hội tuyển dụng vì các cơng ty muốn hạn chế chi
phí cho việc sinh đẻ của phụ nữ và muốn tuyển nam giới vì họ có sức

khỏe, dễ điều khiển trong cơng việc.
 Nữ giới mất cơ hội làm lãnh đạo. Đa số những nhà lãnh đạo đều là
nam giới, nữ giới chỉ được bổ nhiệm vào vị trí thấp và những cơng việc
khơng đòi hỏi kỹ năng cao như giáo viên hay lao động thủ công
 Thiếu nhân công nghiêm trọng mặc lực lượng lao động đông nhưng
cac nhà tuyển dụng chỉ muốn tuyển nam giới dẫn đến lao động nữ dư
thừa lao động nam thiếu hụt.

B. Thực trạng bất bình đẳng giới tại Việt Nam hiện nay.
6


1. Nhìn nhận chung về bất bình đẳng giới ở Việt Nam.
Chẳng cần tìm hiểu ở đâu xa, bất bình đẳng giới xuất hiện mọi lúc, mọi nơi
trong cuộc sống ngày nay, nhưng chúng ta dường như bỏ qua nó. Khi nghĩ
đến Tết, bạn nghĩ đến điều gì? Mâm cỗ đầy đủ món ăn, nhà cửa sạch sẽ gọn
gàng, những ngày nghỉ xả hơi khơng phải làm gì… Nhưng đó dường như là
cái nhìn của những người đàn ơng, người có tuổi và trẻ em trong gia đình. Đối
với người phụ nữ lại là một cái nhìn khác, đó là những ngày thức khuya chuẩn
bị nguyên liệu làm món ăn, sáng mai dậy sớm nấu thật nhiều món ngon bày
biện cho mâm cơm của gia đình, là những ngày giáp Tết bận bịu với việc đi
chợ, dọn dẹp, chuẩn bị tươm tất cho gia đình mà quên mất bản thân mình
cũng chưa có gì mới!
Với người phụ nữ thì Tết chính là lịch trình “nghỉ Tết” dài dằng dặc với
những ngày nấu nướng dọn rửa trong khi đấng mày râu ngồi quanh mâm cỗ
ung dung trò chuyện, chén rượu đi chén rượu về. Ngày Tết mọi người đều
được nghỉ nhưng người phụ nữ làm việc khơng lương ít nhất 5h/ 1 ngày. Điều
này vốn đã diễn ra từ xưa đến nay, nhưng rất ít người nhận thức và thay đổi
thậm chí là nhận thức nhưng khơng hề thay đổi.
2. Tính cấp thiết của vấn đề.

Trong thời gian gần đây, vấn đề bất bình đẳng giới đang được tồn thế
giới quan tâm. Bởi vì bất bình đẳng giới khơng chỉ ở phạm vi gia đình, mà
cịn trên tồn xã hội. Bất bình đẳng giới là một trong những nguyên nhân hạn
chế sự phát triển của kinh tế-xã hội của nhiều nước trên thế giới, làm tăng đói
nghèo, thay đổi sự chăm sóc sức khỏe sinh sản, và tạo ra nhiều tổn thất khác.
Theo số liệu thống kê của Quỹ dân số Liên Hợp Quốc(UNFP), dân số thế
giới đã tăng lên rất nhiều, trong đó phụ nữ chiếm 51.8% dân số và 52% lực
lượng lao động. Tuy nhiên chính sự bất bình đẳng giữa nam và nữ đã khiến
cho hàng loạt nữ giới có trình độ học vấn, có tài năng khơng có cơng ăn việc
làm, hay phải làm những cơng việc khơng đúng chun ngành, khả năng của
mình. Quan niệm người phụ nữ chỉ cần lo việc bếp núc, sinh con trai, quán
7


xuyến gia đình đã ăn sâu vào trong suy nghĩ của nhiều thế hệ. Điều đó khơng
chỉ cản trở sự phát triển của người phụ nữ mà còn gây nên áp lực rất lớn với
nam giới. Do đó, bất bình đẳng giới, không phải vấn đề quá mới mẻ nhưng
cũng khơng hề cũ kĩ, nó vẫn ln là vấn đề gây ra nhiều tranh cãi trong dư
luận mà vẫn chưa đi được đến thống nhất chung.
3. Thực trạng bất bình đẳng giới trên thế giới.
Tình trạng bất bình đẳng giới đang có xu hướng tăng ở một số nước, một
số lĩnh vực. Theo Báo cáo thường niên Khoảng cách giới toàn cầu (GGG)
2013 do Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) cơng bố, chưa có quốc gia nào đạt
được bình đẳng giới như nhân loại mong muốn. Thông tin từ báo chí cho biết,
theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thì tình trạng bất bình đẳng trong lao
động và thu nhập tại các công ty ở châu Âu đang tăng mạnh. Sự phân biệt đối
xử với công nhân nữ rõ hơn khi nguy cơ bị sa thải cao hơn công nhân nam,
hoặc họ phải chịu mức lương thấp hơn, nhất là trong điều kiện khủng hoảng
kinh tế, phải áp dụng các biện pháp khắc khổ và cải cách lao động. Ngồi ra,
theo báo cáo của Tổng Cơng đồn quốc tế (ITUC), ở châu Âu trung bình phụ

nữ thu nhập ít hơn 14,5% so với nam giới, trong khi đó, ở Mỹ khoảng cách
này là 22,4%, ở Đức là 21,6%, ở Ca-na-đa là 27,5%, ở Nhật Bản là 33,4%...
và ở các nước châu Á và Mỹ la-tinh, khoảng cách này còn lớn hơn nữa. Tại
các nước là thành viên Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), tỷ lệ
nhân viên nữ thấp hơn 13% so với nhân viên nam, và lương của nữ thấp hơn
16% so với nam trong cùng một loại công việc. Đặc biệt, tỷ lệ lãnh đạo nam
vẫn nhiều hơn nữ, trong lĩnh vực chính trị, nữ giới cũng ít được tham gia giữ
vị trí cao trong nhà nước…
Trong gia đình, phụ nữ vẫn phải làm việc nhiều hơn nam giới, vẫn phải chịu
bạo hành và là nạn nhân của nhiều vụ xâm hại tình dục. Tất nhiên, không thể
phủ nhận là các nước này đã và đang nỗ lực bền bỉ, có hiệu quả, để cải thiện
tình trạng bất bình đẳng giới, nhưng để hồn tồn xóa bỏ bất bình đẳng giới
có lẽ cần những giải pháp bền vững, toàn diện hơn nữa.
8


Theo báo cáo do Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) công bố trước thềm Ngày
Quốc tế phụ nữ 8/3, thế giới tuy đã đạt được một số tiến bộ trong việc thu hẹp
tình trạng bất bình đẳng giới trong 20 năm qua, song nữ giới vẫn có ít cơ hội
tiếp cận việc làm hơn, có xu hướng phải chấp nhận những việc làm chất lượng
thấp nhiều hơn, và phải đối diện với nhiều rào cản trong bổ nhiệm vào các
chức vụ quản lý.
Báo cáo "Triển vọng Xã hội và việc làm của thế giới: Những xu hướng cho
phụ nữ năm 2018 - khái quát" của Liên hợp quốc (LHQ) cho thấy tỷ lệ phụ nữ
tham gia lực lượng lao động toàn cầu là 48,5% trong năm 2018, thấp hơn
26,5% so với tỷ lệ của nam giới. Báo cáo cũng cho thấy tỷ lệ thất nghiệp của
phụ nữ trên toàn thế giới là 6% trong năm 2018, cao hơn khoảng 0,8% so với
tỷ lệ của nam giới. Tính trung bình, cứ 10 nam giới có việc làm thì chỉ có sáu
phụ nữ được tuyển dụng. Phó Tổng Giám đốc ILO, bà Deborah Greenfield
cho biết mặc dù thế giới đã được một số tiến bộ và đưa ra những cam kết cải

thiện tình trạng bất bình đẳng giới, song cơ hội phát triển của phụ nữ trong
cơng việc vẫn cịn thua xa các đồng nghiệp nam giới.
Ở những khu vực như các nước Arab và Bắc Phi, tỷ lệ phụ nữ khơng có việc
làm vẫn cao gấp đơi tỷ lệ ở nam giới, trong khi những quan niệm xã hội phổ
biến tiếp tục ngăn cản phụ nữ có được những việc làm được trả lương. Ngược
lại, phụ nữ ở Đông Âu và Bắc Mỹ có tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn so với nam
giới. Phụ nữ cũng phải đối diện với sự chênh lệch đáng kể về chất lượng công
việc. Số phụ nữ làm việc kinh doanh gia đình cao gấp đơi số nam giới.
Điều này có nghĩa là phụ nữ đóng góp vào hoạt động kinh doanh gia đình
theo định hướng thị trường, song họ thường xuyên phải chịu những điều kiện
lao động nhiều rủi ro do khơng có hợp đồng bằng văn bản, thỏa thuận tập thể
và sự tôn trọng đối với luật lao động. Kết quả là tại các quốc gia đang phát
triển, phụ nữ vẫn chiếm đa số lực lượng lao động khơng chính thức. Báo cáo
trên lưu ý trên phạm vi toàn cầu, số nam giới đảm nhận vai trò chủ lao động
cao gấp 4 lần nữ giới trong năm 2018. Phụ nữ tiếp tục phải chịu những rào
cản trong việc tiếp cận các vị trí quản lý.
9


ILO kết luận giải quyết tình trạng phân biệt đối xử giới tính trong lĩnh vực
việc làm vẫn phải là ưu tiên hàng đầu nếu như thế giới muốn tới năm 2030 đạt
được bình đẳng giới và trao quyền cho mọi phụ nữ và bé gái. Tin tức cho hay
trên phạm vi tồn thế giới, thu nhập trung bình của phụ nữ thấp hơn nam giới tới
23%. Với tốc độ hiện tại, thế giới sẽ cần tới 70 năm để chấm dứt tình trạng này
và hai giới sẽ có mức thu thập ngang nhau. Ngày 7/3, Cơ quan Thống kê châu
Âu (Eurostat) cho biết thu nhập trung bình của phụ nữ tại các nước thành viên
Liên minh châu Âu (EU) thấp hơn nam giới khoảng 16% trong năm 2016. Cụ
thể, nếu nam giới kiếm được 1 euro trong một giờ làm việc, con số này ở nữ giới
chỉ được trung bình là 84 cent.Tại châu Âu, Đức và Anh đứng đầu về mức chênh
lệch trong thu nhập giữa nam và nữ - lên tới 21%. Romania, Italy và

Luxembourg ghi nhận số liệu tích cực hơn (5%) trong khi tại Pháp, một nền kinh
tế lớn khác của châu Âu, phụ nữ thu nhập kém nam giới 14%.
Theo Tổ chức Lao động Quốc tế, bất bình đẳng thu nhập giữa hai giới tại Mỹ
thậm chí cịn cao hơn châu Âu, với trung bình lao động nữ được trả lương thấp
hơn lao động nam tới 20%. Năm ngoái, nước Mỹ đã chứng kiến hơn 2 triệu phụ
nữ xuống đường tuần hành tại nhiều thành phố địi bảo vệ quyền của nữ
giới. Trước đó, ngày 6/3, có 15 trong tổng số 28 thành viên của Ủy ban châu Âu
đã ra tuyên bố tái khẳng định bình đẳng giới là một trong những hịn đá tảng của
EU.
4. Bất bình đẳng giới tại Việt Nam
a. Trong gia đình
Người xưa có câu “Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một
chồng”, hay quan niệm người phụ nữ xuất giá sống làm người của nhà chồng,
chết làm ma của nhà chồng. Thậm chí khi họ bị bạo hành, đánh đập, đối xử tệ
bạc cũng không thể lên tiếng. Tiêu chuẩn cho một người phụ nữ cũng khá
khắt khe,tư tưởng “cơng dung ngơn hạnh” vẫn cịn tồn tại đến bây giờ.
Đối với trẻ em thì nữ giới khơng được học hành quá nhiều, chỉ cho nam giới
đi học. Việc sinh con trai cũng là “gánh nặng” đối với những người phụ nữ.
Nhà nghèo đẻ nhiều con gái nhưng vẫn phải cố đẻ cho được con trai để rồi
10


con cái không được ăn uống đầy đủ, dẫn đến duy dinh dưỡng, kém phát triển.
Trong gia đình mọi cơng việc đều đến tay người phụ nữ, có thể người đàn ông
rảnh rang nhưng cũng sẽ không giúp đỡ vợ con trong chuyện bếp núc, nhà
cửa. Không chỉ thế người phụ nữ vẫn phải tham gia vào những công việc
nặng nhọc khác.
Ở nông thôn, việc trồng trọt, chăn nuôi, làm vườn, làm hàng thủ công,…
những công việc tạo ra thu nhập thì người phụ nữ vẫn phải làm để tạo thu
nhập.Về vấn đề tái sản xuất và nuôi dưỡng: là những hoạt động tạo ra nòi

giống và tái tạo sức lao động, chúng bao gồm việc sinh con và nuôi dạy con,
chăm sóc các thành viên khác trong gia đình và làm các công việc giặc giũ,
lau chùi nhà cửa, nội trợ... các công việc này hầu hết do phụ nữ đảm nhiệm là
những công việc mất thời gian nhưng không được trả thù lao. Người phụ nữ
thực hiện cùng lúc nhiều vai trò như sản xuất tái sản xuất và nuôi dưỡng, cộng
đồng xã hội, thời gian làm việc dài hơn vào công việc vụn vặt hơn nam giới.
Người phụ nữ thực hiện cùng lúc nhiều vai trò khác nhau trong gia đình và
ngồi xã hội trong khi nam giới thường tập trung vào sản xuất và lành đạo
cộng đồng.
b. Trong công việc
Báo cáo “Triển vọng việc làm và xã hội thế giới – Xu hướng cho phụ
nữ” của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) vừa công bố cho thấy, Việt Nam
thuộc nhóm quốc gia có tỷ lệ phụ nữ tham gia lực lượng lao động cao nhất thế
giới, đang đóng góp rất lớn vào sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Tuy
nhiên, lao động nữ (LĐN) còn gặp rất nhiều rào cản trong việc làm và thu
nhập. Báo cáo cho thấy, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của phụ nữ Việt
Nam là 72%, cao hơn mức trung bình thế giới (49%), mức trung bình của khu
vực châu Á và nhóm các nước thu nhập trung bình thấp.
LĐN tại Việt Nam chiếm 48,4% tổng lực lượng lao động. Tuy nhiên tỷ lệ nữ
giới tại Việt Nam có việc làm thấp hơn 9% so với nam giới. Hiện có 7,8 triệu
lao động nữ đang làm việc trong khu vực phi chính thức với điều kiện lao
11


động không bảo đảm. Tỷ lệ LĐN trong khu vực phi chính thức phải làm cơng
việc dễ bị tổn thương lên tới 59,6%, trong khi đó ở nam giới là 31,8%.
Báo cáo cũng chỉ ra, LĐN đang ở vị thế thấp hơn nam giới trong cơ cấu việc
làm. Phụ nữ chỉ chiếm 26,1% các vị trí lãnh đạo nhưng lại đóng góp tới
52,1% nhóm lao động giản đơn và 66,6% lao động gia đình. Điều đó cho thấy
vẫn cịn rất nhiều rào cản đối với phụ nữ trong việc tiếp cận các cơ hội phát

triển nghề nghiệp so với nam giới. Khi DN cắt giảm chi phí, lao động, đối
tượng mà chủ doanh nghiệp hướng tới đầu tiên thường là LĐN với nhiều lý
do sức khỏe không bảo đảm, không có điều kiện nâng cao tay nghề, dẫn tới
năng suất lao động thấp. Báo cáo cũng cho biết, có tới 57,3% số LĐN thất
nghiệp ở nhóm lao động chưa qua đào tạo và 50,2% trong nhóm đã được đào
tạo nghề.
Đáng chú ý, tỷ trọng LĐN trong nhóm thất nghiệp có trình độ đại học lên tới
55,4%. Điều đó cho thấy khả năng tiếp cận việc làm đối với LĐN khó khăn
hơn nam ở hầu hết các nhóm trình độ, nhất là nhóm thấp nhất và nhóm cao
nhất. Thực tế tại Việt Nam cũng cho thấy, LĐN phải làm việc trong điều kiện
chất lượng thấp hơn lao động nam. Chỉ có 49,8% LĐN trong nhóm lao động
làm cơng ăn lương có ký kết hợp đồng lao động với người sử dụng lao động,
trong khi ở nam giới là 58,8%.
Ngoài ra, trong khu vực doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, lao động nam có tỷ
lệ ký hợp đồng lao động khơng xác định thời hạn lên tới 73,91% trong khi với
LĐN chỉ là 67,67%. Lao động nữ cịn phải kí những hợp đồng việc làm với
điều kiện “không mang thai và sinh đẻ trong 2 năm đầu làm việc”,… Việc
thăng chức hoặc giữ cách chức quyền cao thường được ưu tiên cho nam giới
vì nghĩ người phụ nữ khơng đủ năng lực, tâm lí và thời gian.
Một mặt trái khác nữa là tỉ lệ nữ giới bị lạm dụng tình dục nơi làm việc khá
cao. Cuộc khảo sát do nhóm nghiên cứu thuộc Đại học Sydney tiến hành, thực
hiện trên hơn 2,100 phụ nữ từ 16 đến 40 tuổi và 500 đàn ông. Họ chia sẻ về
tất cả những vấn đề liên quan đến sự nghiệp, từ việc bảo đảm công việc, bình
đẳng giới, kỹ năng tay nghề cũng như nguyện vọng nghề nghiệp. Trong đó
12


80% phụ nữ được khảo sát cho biết vấn đề quan trọng nhất tại công sở là
‘được cấp trên tôn trọng’, trong khi với nam giới, ưu tiên hàng đầu là ‘có một
sự nghiệp vững chắc’.

c. Trong chính trị.
Trước đây bộ máy nhà nước hầu như là nam giới, nữ giới không được đề
cử trong những chức vụ quan trọng. Vì tư tưởng “khơng muốn người phụ nữ
tài giỏi hơn mình” hay “khơng muốn dưới quyền phụ nữ” của một số bộ phận
mà người phụ nữ ít khi được tham gia vào các hoạt động chính trị, ngoại giao.
5. Giải pháp xóa bỏ bất bình đẳng giới
a. Đối với chính phủ
Chính phủ cần đẩy mạnh cơng tác truyền thơng, nâng cao nhận thức về bình
đẳng giới cho người dân, kể cả vùng sâu vùng xa, vùng biên giới, hải đảo. Hoàn
thiện hơn nữa hệ thống quy phạm pháp luật về bình đẳng giới và đi vào hoạt
động. Cần phân rõ trách nhiệm của người đứng đầu về các tiêu chí bình đẳng
giới ở các cơ quan quản lí, các đơn vị và địa phương không đạt được. Ủng hộ
thúc đẩy các hoạt động của Hội phụ nữ, Hội Liên Hiệp Phụ nữ Việt Nam,…
Quan tâm hơn nữa các hoạt động nâng cao tri thức, tay nghề của đội ngũ nhân
viên nữ. Xây dựng các hình phạt thích đáng cho những có hành động bạo lực gia
đình, ngược đãi với phụ nữ, xâm hại tình dục,… Tiếp tục đẩy mạnh cơng tác
truyền thơng nâng cao nhận thức về bình đẳng giới tới mọi tầng lớp nhân dân và
bản thân người phụ nữ. Xây dựng và triển khai các hoạt động truyền thơng, các
mơ hình về bình đẳng giới phù hợp với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu,
vùng xa, biên giới, hải đảo.
Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bình đẳng giới: Triển khai
thực hiện chỉ đạo của Ban Bí thư về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết 11NQ/TW ngày 24/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; triển khai nội dung cơng tác bình đẳng
giới theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
XII về tăng cường cơng tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân và
về công tác dân số trong tình hình mới; Chỉ đạo Tổng kết 10 năm thi hành Luật
13


bình đẳng giới, báo cáo cơ quan có thẩm quyền và Quốc hội cho trình dự án Bộ

luật lao động (sửa đổi) vào năm 2019, trong đó bổ sung, sửa đổi những vấn đề
liên quan đến bình đẳng giới
b. Đối với nữ giới
Giới nữ cần nhận thức được quyền lợi của chính mình, khơng bị tư tưởng
“chấp nhận”, “cam chịu” chi phối để rồi bị bó buộc trong “mơ hình” cứng
nhắc của người phụ nữ xưa. Cần phải tự tin với khả năng của bản thân mình
khơng hề thua kém phái mạnh, chăm sóc gia đình nhưng cũng phải chăm chút
cho bản thân. Ở nhà làm nội trợ khơng có nghĩa là khơng cần đọc sách, giao
tiếp, ra ngồi tận hưởng và tìm hiểu thế giới xung quanh. Phải hiểu biết rõ
được quyền bình đẳng của bản thân mình ở vai trị là cơng dân, là một người
mẹ,trong cơng việc và chính trị. Cần phải nâng cao học thức của bản thân, để
không bị coi thường, xem nhẹ.
c. Đối với nam giới
Thực ra có một số nam giới cũng bị chính sự bất bình đẳng giới làm cho cuộc
sống trở nên khó khăn hơn. Họ bị đưa vào tình thế là “người gánh vác”,
“người trụ cột” trong gia đình, phải lăn lộn ngồi xã hội để kiếm tiền ni gia
đình. Chính điều đó khiến họ có tư tưởng bạo lực hơn mỗi khi về nhà, có
nhiều người trở nên nhạy cảm, bị tổn thương bởi áp lực của sự thành cơng.
Họ khơng dám để người phụ nữ của mình tham gia vào việc kiếm tiền vì sợ sẽ
bị lép vế, bị người phụ nữ nắm kinh tế, bị khinh thường. Nên muốn xoay
chuyển vấn đề bình đẳng giới, chúng ta cũng cần thay đổi suy nghĩ của phái
mạnh.
d. Đối với trẻ em
Trẻ em là đối tượng đầu tiền cần được dạy bảo về vấn đề bình đẳng giới tính.
Bố mẹ cần phải cho trẻ em thấy được sự cần thiết của việc bình đằng. Khơng
thiên vị giữa con trai và con gái, đối xử với các con như nhau, không quá áp
đặt suy nghĩ con trai phải là trụ cột gia đình cho các con.
e. Đối với sinh viên.
14



Sinh viên phải biết trau dồi kiến thức về bất bình đẳng giới, cập nhập tình
hình đấu tranh trong và ngồi nước, và có thái độ quyết liệt hơn về vấn đề
này.

C. Kết luận
Vấn đề bất bình đẳng giới đã được đề cập và quan tâm từ lâu ở nước ta và
cũng đã đạt được những thành tựu nhất định. Tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội
khóa XIII (2011-2016) đạt 24,4%, đưa Việt Nam nằm trong nhóm nước có tỷ
lệ nữ đại biểu Quốc hội cao ở khu vực và thế giới (đứng thứ 43/143 nước trên
thế giới và thứ 2 trong ASEAN). Phụ nữ đảm nhiệm nhiều vị trí lãnh đạo chủ
chốt của đất nước như Phó Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch Quốc hội, Bộ trưởng;
14/30 Bộ hoặc cơ quan trực thuộc Chính phủ có Thứ trưởng là nữ. Ở các địa
phương, nhiều phụ nữ giữ vai trò chủ chốt ở các cấp, các ngành, góp phần giải
quyết các vấn đề quan trọng. Nữ doanh nhân là người dân tộc thiểu số tăng,
đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân vai trò của
phụ nữ dân tộc thiểu số được phát huy.
Hiện nay, tỷ lệ lao động có việc làm là nữ giới chiếm 49%. Tính đến hết
năm 2011, tỷ lệ phụ nữ biết chữ là 92%; khoảng 80% trẻ em gái ở vùng sâu,
vùng xa, vùng dân tộc thiểu số được đi học đúng tuổi. Tỷ lệ nữ sinh viên
chiếm trên 50%, tỷ lệ thạc sỹ là nữ chiếm hơn 30% và 17,1% tiến sỹ là nữ
giới.
Nỗ lực bảo đảm bình đẳng giới của Việt Nam đã được quốc tế ghi nhận,
theo xếp hạng năm 2012 của Liên hợp quốc về chỉ số bất bình đẳng giới, Việt
Nam xếp thứ 47/187 quốc gia, so với vị trí 58/136 quốc gia năm 2010 (thứ
hạng càng gần 0 càng thể hiện sự bình đẳng cao)
Tuy nhiên, bên cạnh đó là những thách thức rất lớn như tỷ lệ phụ nữ dân
tộc thiểu số tham gia các vị trí lãnh đạo các cấp cịn ít, tỷ lệ nghèo của đồng
bào dân tộc thiểu số cịn cao. Do đó vẫn cịn phụ nữ dân tộc thiểu số chưa biết
chữ, vấn đề việc làm, dạy nghề cho phụ nữ dân tộc thiểu số để tiếp cận với lao

15


động chất lượng cao cần có sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát hơn của các cấp
chính quyền, sự ủng hộ và hợp tác của cộng đồng quốc tế và bản thân chị em
phụ nữ cũng cần tự mình vươn lên, học hỏi, nâng cao trình độ, kiến thức, kỹ
năng để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Khoảng cách giới còn tồn tại
khá lớn trong một số lĩnh vực của cuộc sống. Trước hết là sự tham gia của
phụ nữ trong lĩnh vực chính trị cịn hạn chế, đặc biệt là ở cấp cơ sở. Tỷ lệ cán
bộ nữ làm cơng tác quản lý, lãnh đạo cịn thấp so với các vị trí quản lý, lãnh
đạo nói chung và so với sự gia tăng của lực lượng lao động nữ. Tỷ lệ nữ đại
biểu Quốc hội chưa đạt chỉ tiêu của Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ
nữ đến năm 2010 (phấn đấu đạt từ 33% trở lên) và chỉ tiêu của Chiến lược
quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020.
Trong lĩnh vực kinh tế, cơ hội của phụ nữ tiếp cận việc làm có thu nhập cao
và các nguồn lực kinh tế vẫn còn thấp hơn so với nam giới. Một số chỉ tiêu
đặt ra ở Chiến lược quốc gia bình đẳng giới về lao động, đào tạo,… vẫn chưa
đạt được. Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê, tỷ lệ lao động nữ nông thôn
dưới 45 tuổi được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật đạt 11,8% năm 2013,
bằng gần một nửa so với chỉ tiêu kế hoạch đề ra.Vì thế, bất bình đẳng giới vẫn
là 1 thách thức lớn trong xã hội, cần có sự hợp tác đồng nhất giữa các bên với
nhau, để tạo nên một xã hội tốt đẹp hơn.

16



×