Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Viêm phúc mạc truyền nhiễm trên mèo (FIP)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.45 KB, 7 trang )

VIÊM PHÚC MẠC TRUYỀN NHIỄM TRÊN MÈO (FIP)
Đoàn Thanh Hà, Đinh Thị Lan Anh
Khoa Thú y – Chăn nuôi, Trường Đại học Cơng nghệ thành phố Hồ Chí Minh
GVHD: ThS. Đặng Hồng Đạo

TĨM TẮT
Viêm phúc mạc truyền nhiễm ở mèo (FIP) lần đầu tiên được mô tả trong một bài báo năm 1963 là viêm
phúc mạc xơ mãn tính. Các tổn thương ở mắt do nhiễm trùng hệ thống với FlP được báo cáo lần đầu tiên
vào năm 1971. Mặc dù có tiến bộ trong việc hiểu cơ chế bệnh sinh của các biểu hiện bệnh FIP, tỷ lệ tử vong
liên quan đến FIP phức tạp không giảm. Virus FIP (FlPV) lây nhiễm cho tất cả các loài mèo nhà và mèo
hoang dã. Khám sức khỏe tổng quát và lấy tiền sử là những yếu tố cực kỳ quan trọng để chẩn đốn chính
xác FIP. Việc chẩn đốn và điều trị viêm màng bồ đào trước và sau là những yếu tố quan trọng nhất trong
việc chăm sóc động vật có biểu hiện FIP ở mắt.
Từ khóa: Coronnavirus, mèo, viêm phúc mạc, FIP
1. MỞ ĐẦU
Viêm phúc mạc truyền nhiễm ở mèo (FIP) là một trong những bệnh phổ biến nhất do coronavirus gây ra.
Hơn nữa, ngày càng có nhiều minh chứng về sự tồn tại của FIP. Liên quan đến các hiện tượng qua trung
gian miễn dịch như tăng cường kháng thể phụ thuộc vào sự lây nhiễm của virus và bệnh lý do phức hợp
miễn dịch gây ra. Các coronavirus gây ra bệnh FIP trên mèo đã được tìm hiểu (Pedersen N. c., 1976b).
Trong 10 năm qua, kiến thức của chúng ta về sinh học phân tử về coronavirus ở mèo đã tăng lên đáng kể.
Chúng tôi sẽ chỉ tóm tắt các phát hiện bệnh lý lâm sàng và lịch sử của nghiên cứu FIP. Hầu hết các tổng
quan này đều nhấn mạnh đến bệnh lý học, dịch tễ học và virus học cổ điển.
2. LÂM SÀNG
Bệnh này được đặc trưng bởi tình trạng viêm mơ mủ quanh mạch không rõ ràng và viêm thanh mạc dạng
sợi xuất tiết ở khoang bụng và lồng ngực. Đối với FIP cổ điển "ướt" hoặc tràn dịch, các dấu hiệu này đi
kèm với tình trạng căng chướng bụng dần dần do sự tích tụ của một chất lỏng màu vàng nhớt. Ngồi ra,
cịn có dạng FIP "khơ" hoặc khơng có dịch tiết. Các tổn thương vi thể bao gồm các ổ hoại tử và viêm tuyến
nhân, thường nằm xung quanh các mạch nhỏ hơn. Các dạng FIP ướt và khô là những biểu hiện khác nhau
của cùng một bệnh nhiễm trùng. FIP là một bệnh gây chết do suy nhược trên họ mèo nội và ngoại. (Montah,
1972). FIP tổng thể xuất hiện dưới dạng nhiều nốt trắng xám (1 đến 10 mm) ở màng thanh mạc, gan, phổi,
lách, ruột và thận (Wolfe, 1971).


3. LỊCH SỬ BỆNH

643


FIB có lẽ đã được tìm thấy sớm hơn. Đầu những năm 1960 thường được coi là thời kỳ FIP lần đầu tiên
được công nhận (Feldmann, 1964). Vào năm 1912, một trường hợp nặng được phát hiện ở xoang bụng và
dễ thấy do hình thành cổ trướng ở mèo nhà đã được báo cáo (Jakob, 1914). Căn nguyên của virus đã được
chính thức chứng minh bằng các thí nghiệm lây truyền sử dụng virus được nuôi cấy trong môi trường nuôi
cấy đại thực bào màng bụng (Pedersen, 1976a). Bản chất lây nhiễm của FIP được thiết lập bởi (Wolfe và
cs, 1966). Các tác giả này đã chỉ ra rằng FIP có thể được tạo ra ở những con mèo khơng có mầm bệnh đặc
hiệu bằng cách cấy vào màng bụng chất dịch vô trùng lấy từ những con mèo bị bệnh. (Zook và cs, 1968) là
người đầu tiên đưa ra bằng chứng hỗ trợ căn nguyên của virus. Trong các khu vực bị viêm, các mầm virus
được quan sát bằng kính hiển vi điện tử bên trong hoặc sự phát triển vào lưới nội chất của các tế bào thực
bào (Ward và cs, 1968, 1970)
4. DỊCH TỄ HỌC
Mặc dù FIP là bệnh chủ yếu ở mèo nhà, nhưng nó đã được báo cáo ở một số loài vật hoang dã, chẳng hạn
như sư tử (Colby, 1970), báo hoa mai (Tuch, 1974), mèo rừng châu Âu (Watt, 1993). Ở mèo từ 5 đến 13
tuổi, FIP ít phổ biến hơn; nhưng có vẻ như có sự gia tăng tỷ lệ mắc bệnh ở mèo trên 14 tuổi (Pedersen,
1976c). FIP xảy ra ở mèo nhà của cả hai giới tính với tần suất như nhau (Pedersen, 1976c). Virus được thải
ra từ miệng và trong phân (Stoddart, 1988a). Kết quả của một ca nhiễm FCoV khơng chỉ phụ thuộc vào
chủng virus mà cịn phụ thuộc vào liều lượng gây nhiễm và đường lây nhiễm (Pedersen N. c., 1981a).
5. SINH HỌC PHÂN TỬ CỦA FCOV
Lúc đầu RNA đặc hiệu với virus được tìm thấy trong các tế bào bị nhiễm, với độ dài từ 1,4 đến hơn 20 kb.
Một bộ RNA giống hệt nhau đã được tìm thấy trong các tế bào bị nhiễm chủng FIPV NOR15 . Bộ gen FCo
V là một phân tử ARN sợi dương với chiều dài ước tính khoảng 30 kb. (de Groot, 1987a). Tổ chức gen
giống với tổ chức gen CCV Insavc-1 (Horsburgh, 1992). Ngồi các gen mã hóa N, M, S và sM, có năm
khung đọc mở (ORF) (Hình 1).

Hình 1. Cấu trúc RNAs của FIPV chủng 79 - 1164

Các RNA như được chỉ ra trong Hình 1. Các ORF ở đầu 3 'của bộ gen FIPV nên được gọi là 7a và 7b (trước
đây là 6a và 6b), theo danh pháp được khuyến nghị bởi Nhóm Nghiên cứu Coronavirus (Cavanagh, 1990).
6. KHÁNG THỂ FIP
644


Thời điểm gây bệnh chính trong FIP là sự lây nhiễm của bạch cầu đơn nhân và thực khuẩn thể vĩ mô (Ward,
1970). Độc lực của các chủng FCoV dường như tương quan với khả năng lây nhiễm các đại thực bào phúc
mạc của chúng trong ống nghiệm. Hơn nữa, các chủng vi khuẩn có lợi ít có khả năng duy trì sự xâm nhập
của virus và lây lan sang các thể thực khuẩn vĩ mô khác (Stoddart và cs, 1989). Những con mèo có huyết
thanh dương tính FCOV bị nhiễm FIPV trong thực nghiệm thường phát triển một đợt bệnh nhanh hơn và
chấm điểm. Các chủng FCoV độc vẫn giới hạn trong đường tiêu hóa và thường khơng lan ra ngồi biểu mơ
ruột và các khu vực xung quanh (Pedersen và cs, 1981b). Tuy nhiên, các chủng độc lực lây lan đến các cơ
quan khác rất có thể qua các tế bào đơn nhân truyền máu (Weiss và cs, 1981a). Bằng chứng trực tiếp về sự
liên quan của kháng thể trong hội chứng chết sớm đã thu được bằng cách cho mèo miễn dịch thụ động với
phần immunoglobulin (IgG) của kháng huyết thanh FCoV ở mèo. Có rất nhiều bằng chứng về sự tham gia
của hệ thống miễn dịch vào cơ chế bệnh sinh của FIP. Miễn dịch dịch thể rõ ràng là khơng có tính bảo vệ.
Một số tác giả đã nhấn mạnh sự tương đồng giữa FIP và các bệnh qua trung gian miễn dịch như bệnh
Aleutian của chồn và sốt xuất huyết (Horzinek và cs, 1979).Mèo con đã bị nhiễm virus tái tổ hợp (recVV)
biểu hiện S đã chết trong vòng 9 ngày sau khi nhiễm virus FIPV.
Số lượng đại thực bào bị nhiễm FIPV UCD-1* trong ống nghiệm đã tăng lên gấp 12 lần khi virus được ủ
trước với huyết thanh của một con mèo đã mẫn cảm với FIPV. Có một mối tương quan rõ ràng giữa khả
năng của MAbs để vơ hiệu hóa sự lây nhiễm của các tế bào CrFK và sự cảm ứng của ADE,15 trong số 19
kháng thể trung hòa tăng cường sự lây nhiễm FIPV. Sự tăng cường này cũng xảy ra khi sử dụng sắc ký
lỏng cao áp (HPLC)-phân đoạn IgG tinh khiết của huyết thanh. Những quan sát này một phần có thể giải
thích tại sao FIPV không phải lúc nào cũng gây chết sớm qua trung gian kháng thể ở mèo có huyết thanh
dương tính. Do đó, khơng xảy ra tử vong sớm ở mèo con đã được tiêm FECV UCD, FECV 79-1683 hoặc
FIPV UCD-2 trước khi thử nghiệm gây chết người với FIPV 79-1146 (Pedersen và cs, 1984). Ghi nhận các
biến thể biến dạng của ADE trong đó MAbs nhất định sẽ tăng cường FIPV UCD-1* hơn 79-1146 và ngược
lại. Phù hợp với dữ liệu của Vennema (Vennema và cs,1990b). Có ít nhất năm vị trí trung hịa riêng biệt

trên protein S của FIPV, bốn vị trí trong số đó có liên quan đến ADE (Corapi và cs, 1992).
Do đó, coronavirus rất có thể xâm nhập vào tế bào chủ bằng cách hợp nhất ở màng sinh chất, hơn là qua
đường nội mạc. Trong quá trình xâm nhập bình thường, sự dung hợp màng được thực hiện qua trung gian
của các gai virus, nó xảy ra dễ dàng ở pH trung tính, nhưng bị ức chế ở các giá trị pH thấp hơn. Các thí
nghiệm của Corapi với tế bào IC-21 của chuột (Corapi và cs, 1992) sẽ cho thấy rằng trong quá trình ADE
FcRs đủ cho sự xâm nhập của virus.Kết luận, thụ thể cho FIPV phải được xác định trước khi vấn đề này
có thể được giải quyết. Cơ chế này tương tự như cơ chế được tìm thấy đối với virus suy giảm miễn dịch ở
người (HIV). ADE của nhiễm HIV yêu cầu cả FCR và thụ thể tế bào HIV, CD4 (Takeda và cs, 1990).

645


Hình 2. Cơ chế tác phát triển của virus tấn công vào tế bào
7. MIỄN DỊCH QUA TRUNG GIAN CỦA FIP
Hầu hết các nhà nghiên cứu coi các tổn thương mạch và quanh mạch trong bệnh FIP là qua trung gian miễn
dịch, nhưng vẫn chưa chắc chắn về cơ chế gây bệnh thực sự. Ít nhất một số tổn thương mạch máu có thể là
do qua đường miễn dịch ly giải các tế bào bị nhiễm bệnh. Các tế bào bạch cầu nhiễm FlPV được phát hiện
bên trong, nội mạc và thành tĩnh mạch và ở các vị trí quanh mạch (Weiss và cs , 1981a). Kết quả cuối cùng
của việc này là tăng cường sản xuất virus cục bộ và tăng tổn thương mô. Hơn nữa, các chất trung gian gây
viêm như cytokine (Goitsuka và cs, 1988), leukotrienes và prostaglandin (Weiss và cs, 1988) được giải
phóng bởi các đại thực bào bị nhiễm bệnh có thể đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của
pyogranulomata quanh mạch. Để chống lại với tình trạng viêm, các tế bào bị thu hút có thể giải phóng thêm
các mơ đệm và các chất độc tế bào, các tế bào đơn nhân cũng sẽ đóng vai trị là mục tiêu mới cho FlPV.
Các sản phẩm này có thể gây ra những thay đổi tính thấm thành mạch và cung cấp thêm các kích thích hóa
học cho bạch cầu trung tính và bạch cầu đơn nhân.
Sự suy giảm các phức hợp miễn dịch và kích hoạt bồ thể sau đó được cho là gây ra phản ứng viêm dữ dội
có thể kéo dài qua thành mạch máu. Kết quả là tổn thương mạch máu sẽ cho phép rò rỉ chất lỏng vào khoảng
gian bào và cuối cùng dẫn đến tích tụ dịch tiết ở ngực và bụng (Hayashi và cs, 1977).
8. PHÁT TRIỂN VACCINE PHÒNG FIP
Việc phát triển vaccine chống lại FIPV rất phức tạp và đã bị thất bại do sự xuất hiện của ADE. Thể đột biến

không khác với virus tự nhiên về sự tổng hợp RNA và protein, nhưng tạo ra ít thế hệ con cháu ở nhiệt độ
khơng cho phép (Christianson và cs, 1989). Việc tiêm chủng ngừa bằng vaccine virus sống dị hợp (TGEV,
CCv, HCV 229E) không mang lại hiệu quả bảo vệ (Witte và cs, 1977). Đơi khi, miễn dịch bảo vệ có thể
được tạo ra bằng cách sử dụng FECV độc lực thấp (ví dụ, FlPV UCD-3), hoặc sử dụng lại lượng FlPV độc
lực (Pedersen và cs, 1983). Sau khi tiêm chủng cho tám con mèo có tái tổ hợp virus vaccine biểu hiện M,
646


ba con mèo con sống sót, trong khi hai con mèo con khác cho thấy thời gian sống sót kéo dài hơn so với
đối chứng (Vennema và cs, 1991). Khi cấy vào mũi mèo, sự nhân lên của virus dường như bị hạn chế đối
với đường hơ hấp trên.Vai trị của M trong miễn dịch chống lại FlPV vẫn chưa rõ ràng. Việc chế tạo vaccine
FIP an toàn và hiệu quả để tránh bệnh lý miễn dịch có thể sẽ đòi hỏi sự hiểu biết rõ hơn về sự tương tác
phức tạp giữa virus và hệ thống miễn dịch của vật chủ có lẽ cũng quan trọng khơng kém, việc xác định các
protein của virus có liên quan.
9. KẾT LUẬN
Nghiên cứu FIP đã đạt được tiến bộ nhiều và đáng kể. Các lĩnh vực khác sẽ yêu cầu kiểm tra kỹ hơn, ví dụ,
vai trị của miễn dịch tế bào trong việc bảo vệ chống lại FIP. Hiểu biết của chúng tôi về di truyền học phân
tử của FCoVs đã tăng lên đáng kể cũng như hiểu biết của chúng tôi về cơ chế của ADE và hội chứng chết
sớm. Khi các gen cytokine của mèo được khai thác và biểu hiện, các cơng cụ mới trở nên sẵn có để điều
chỉnh phản ứng miễn dịch của mèo và có thể cả cơ chế bệnh sinh FIP. Vẫn còn phải xác định liệu FCoV có
thể gây ra nhiễm trùng dai dẳng thực sự hay khơng, và nếu có, thì virus cư trú ở tế bào và mô nào của vật
chủ và cách nó quản lý để tránh giám sát miễn dịch mũi. Cuối cùng, FCoV tạo ra một số protein không thể
thiếu để sao chép trong tế bào nuôi cấy mô, đáng chú ý nhất là GP7b. Một trường thú vị khác là trạng thái
sống mang FCoV giả định. Mặc dù 10 năm qua nghiên cứu FIP đã rất thú vị, nhưng những năm tới hứa hẹn
vẫn cịn nhiều khó khăn. Chức năng của các protein này trong quá trình lây nhiễm tự nhiên là gì?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Christianson, K. K., Ingersoll, J. D., Landon, R. M., Pfeiffer, N. E., and Gerber, J. D., 1989, Characterization of a temperature sensitive feHne infectious peritonitis coronavirus, Arch. Viral. 109:185.
[2] Colby, E. D., and Low, R. J., 1970, FeHne infectious peritonitis, Veto Med. Small Anim. Clin. 65:783.
[3] Corapi, W. V., Olsen, C. W., and Scott, E W., 1992, Monoclonal antibody analysis of neutraHzation
and antibody-dependent enhancement of feHne infectious peritonitis, J. Viral. 11:6695.

[4] Cavanagh, D., Brian, D. A, Enjuanes, L., Holmes, K. V., Lai, M. M. c., Laude, H., Siddell, S. G.,
Spaan, W., Taguchi, E, and Talbot, P. J., 1990, Recommendations of the coronavirus study group for
the structural proteins, mRNAs and genes of coronaviruses, Viralogy 176:306.
[5] De Groot, R. J., Ter Haar, R. J., Horzinek, M. C., and van der Zeijst, B. A. M., 1987a, Intracellular
RNAs of the feHne infectious peritonitis coronavirus strain 79-1146, j. Gen. Viral. 68:995
[6] Feldmann, B. F., and Jortner, B. S., 1964, CHnico-pathology conference, J. Am. Veto Med.
Assac.144:1409.
[7] Goitsuka, R., Onda, C., Hirota, Y., Hasegawa, A, and Tomoda, 1., 1988, Feline interleukin 1
production induced by feline infectious peritonitis, 'pn. J. Vet. Sci. 50:209.
[8] Hayashi, T., Goto, N., Takahashi, R., and Fujiwara, K., 1977, Systemic vascular lesions in feHne
infectious peritonitis, Jpn. J. Vet. Sei. 39:365.
[9] Horsburgh, B. C., Brierley, 1., and Brown, T. D. K., 1992, Analysis of a 9.6 kb sequence frorn the 3'
end af canine coronavirus genomic RNA, J. Gen. Virol. 73:2849.
647


[10] Horzinek, M. c., Osterhaus, A. D. M. E., and Ellens, D. J., 1977, FeHne infectious peritonitis, Zbl. Vet.
Med. [B] 24:398.
[11] Jakob, H., 1914, Therapeutische, kasuistische und statistische Mitteilungen aus der Klinik für kleine
Haustiere an der Reichstierarzneischule in Utrecht (Holland). Jahrgang 1912/13, Zsehr. Tiermed.
18:193.
[12] Montah, R. J., and Strandberg, J. D., 1972, Extraperitoneallesions in fehne infectious peritonitis,
[13] Pedersen, N. C., 1976a, Morphologic and physical characteristics of feHne infectious peritonitis virus
and its growth in autochtonous peritoneal cell cultures, Am. J. Veto Res. 37:567
[14] Pedersen, N. c., 1976b, Feline infectious peritonitis: Something old, something new, Feline Pract.
6:42.
[15] Pedersen, N. C., 1976c, Serologie studies of naturally occurring fehne infectious peritonitis, Am. J.
Vet.Res.37:1449.
[16] Pedersen, N. c., and Black, J. W., 1983, Attempted immunization of cats against feHne infectious
peritonitis, using avirulent Hve virus or sublethai amounts of virulent virus, Am. J. Vet Res. 44:229.

[17] Pedersen, N. c., Boyle, J. F., and Floyd, K., 1981a, Infection studies in kittens utiHzing feline
infectious peritonitis virus propagated in cell culture, Am. J. Vet. Res. 42:363.
[18] Pedersen, N. c., Boyle, J. F., Floyd, K., Fudge, A., and Barker, J., 1981b, An enteric coronavirus
infection of cats and its relationship to feHne infectious peritonitis, Am. J. Vet. Res. 42:368.
[19] Pedersen, N. C., Evermann, J. F., Alison, J., McKeirnan, A. J., and Ott, R. 1., 1984, Pathogenicity
studies of feline coronavirus isolates 79-1146 and 79-1683, Am. j. Vet Res. 45:2580.
[20] Stoddart, C. A., 1989, PhD thesis, Cornell University, Ithaca, NY.
[21] Takeda, A., Sweet, R. W., and Ennis, F. A., 1990, Two receptors are required for antibody-dependent
enhancement of human immunodeficiency virus type 1 infection: CD4 and FC'yR, j. Virol. 64:5605.
[22] Tuch, K., Witte, K. H., and Wüller, H., 1974, Feststellung der felinen infektiösen Peritonitis (PIPI bei
Hauskatzen und Leoparden in Deutschland, Zbl. Veto Med. [B]21:426.
Watt, N. J., MacIntyre, N. J., and McOrist, S., 1993, An extended outbreak of infectious peritonitis in
a closed colony of European wildcats (Felis silvestrisl, r. Camp. Pathol. 108:73.
[23] Vennema, H., de Groot, R. J., Harbour, D. A., Horzinek, M. c., and Spaan, W. J. M., 1991, Primary
structure of the membrane and nucleocapsid protein genes of feline infectious peritonitis virus and
immunogenicity of recombinant vaccinia viruses in kittens, Virology 181:327.
[24] Vennema, H., de Groot, R. J., Harbour, D., Daalderup, M., Gruffydd-Jones, T., Horzinek, M. C., and
Spaan, W. J. M., 1990b, Early death after feline infectious peritonitis virus challenge due
torecombinant vaccinia virus immunization, j. Virol. 64:1407.
[25] Vennema, H., de Groot, R. J., Harbour, D., Daalderup, M., Gruffydd-Jones, T., Horzinek, M. C., and
Spaan, W. J. M., 1990b, Early death after feline recombinant vaccinia virus immunization, j. Virol.
infectious 64:1407.

648


[26] Ward, J. M., 1970, Morphogenesis of a virus in cats with experimental feline infectious peritonitis,
Virology .41:191.
[27] Ward, J. M., Munn, R. J., Gribble, D. H., and Dungworth, D. 1., 1968, An observation of PlP, Vet.
Res. 83:416.

[28] Weiss, R. C., and Scott, F. W., 1981a, Pathogenesis of feline infectious peritonitis: Nature and
development of viremia, Am. f. Veto Res. 42:382.
[29] Weiss, R. C., Vaughn, D. M., and Cox, N. R., 1988, Increased plasma levels of leukotriene B4 and
prostaglandin E2 in cats experimentally inoculated with feline infectious peritonitis virus, Vet. Res.
Commun. 12:313.
[30] Witte, K. H., Tuch, K., Dubenkropp, H., and Walther, c., 1977, Untersuchungen über die Antigen
verwandtschaft der Viren der Felinen infektiösen Peritonitis und der transmissibelen Gastro- enteritis
des Schweines, Berl. Münch. Tierärztl. Wschr. 90:396.
[31] Wolfe, 1. G., and Griesemer, R. A., 1966, Feline infectious peritonitis, Pathol. Vet.3:255.
[32] Wolfe, 1. G., and Griesemer, R. A., 1971, Feline infectious peritonitis: Review of gross and histopathologie lesions, I. Am. Vet. Med. Assoe. 158:987.

649



×