Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững kinh tế biển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (850.76 KB, 7 trang )

NANG CAO CHÁT LƯỢNG NGUỒN NHẨN Lực
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU PHÁT TRIỂN BỀN VŨNG
KINH TẾ BIỂN
NGUYỄN NHÂM'

Phát triền nguôn nhân lực biên là vân đê luôn được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Điêu
này được khẳng định qua các kỳ Đại hội Đảng, được cụ thể hóa tại Nghị quyết 36-NQ/TW, ngày 2210-2018 của Ban Chấp hành Trương ương khóa XII, Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển
Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và nhiều nghị quyết khác. Bài viết làm rõ chủ
trương, chính sách phát triển nguồn nhân lực biển, phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp góp
phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực biển.
Từ khóa: chất lượng nguồn nhân lực biển, kinh tế biển.

Developing sea human resources is always a matter of special concern to our Party and State. This
is confirmed through the Party Congresses, concretized in Resolution 36-NQ/TWdated October 22,
2018 of the 12th Central Party Committee, Strategy for sustainable development of Vietnam's sea
economy by2030, with a vision to 2045 and many other resolutions. This paper clarifies guidelines
and policies on sea human resource development, analyzes the current situation and proposes
solutions to improve the quality of sea human resources.

Keywords: quality of sea human resources, sea economy.

Ngày nhận: 16/2/2022

Ngày đánh giá, phản biện: 25/2/2022

1. Chủ trương, chính sách phát triển nguồn nhân
lực biển

Trong những năm qua, nhận thức rõ tầm
quan trọng của phát triển kinh tế biển gắn
với bảo đảm quốc phịng, an ninh, Đảng, Nhà


nước ta đã có những quyết sách mang tầm
chiến lược để phát triển bền vững kinh tế
biển. Đại hội XII của Đảng nêu rõ: "Phát triển
mạnh các ngành kinh tế biển gắn với bảo vê
vững chắc chủ quyền quốc gia và nâng cao đời
sống nhân dân vùng biển, đảo. Khuyến khích
các thành phần kinh tế đầu tư phát triển các
ngành khai thác, chế biến dầu khí; cảng biển,
đóng và sửa chữa tàu biển, vận tải biển; khai
thác và chế biến hải sản, các dịch vụ hậu cần
nghề cá; du lịch biển, đảo" [1].
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
XII) đã ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW
ngày 22/10/2018 về Chiến lược phát triển
* Nguyễn Nhâm, nguyên Chủ nhiệm khoa Kinh tế
chính trị, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

Ngày duyệt đăng: 15/3/2022

bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm
2030, tầm nhìn đến năm 2045. Chiến lược
xác định mục tiêu tổng quát đến năm 2030:
"Đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển
mạnh; đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển
bền vững kinh tế biển; hình thành văn hóa
sinh thái biển; chủ động thích ứng với biến
đổi khí hậu, nước biển dâng; ngăn chặn xu
thế ơ nhiễm, suy thối mơi trường biển, tình
trạng sạt lở bờ biển và biển xâm thực; phục
hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan

trọng. Những thành tựu khoa học mới, tiên
tiến, hiện đại trở thành nhân tố trực tiếp thúc
đẩy phát triển bền vững kinh tế biển.
Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam trở
thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền
vững, thịnh vượng, an ninh, an toàn; kinh tế
biển đóng góp quan trọng vào nền kinh tế đất
nước, góp phần xây dựng nước ta thành nước
cơng nghiệp hiện đại theo định hướng XHCN;
tham gia chủ động và có trách nhiệm vào giải

SỐ 43 (3-2022) I TẠP CHÍ KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ I

17


ĐƯA NGHỊ QUYÉT CÚA ĐÀNG VÀO cuộc SÕNG

quyết các vấn đề quốc tế và khu vực về biển
và đại dương" [2],
Ngày 05/3/2020, Chính phủ ban hành Nghị
quyết số 26/NQ-CP về việc ban hành Ke hoạch
tổng thể và Kế hoạch 5 năm thực hiện Nghị
quyết số 36-NQ/TW. Kế hoạch đã xác định nội
dung, giải pháp về quản trị biển và đại dương,
quản lý vùng bờ; phát triển kinh tế biển, ven
biển; nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng
văn hóa biển, xã hội gắn bó, thân thiện với
biển; khoa học cơng nghệ, phát triển nguồn
nhân lực biển; mơi trường, ứng phó với thiên

tai, biến đổi khí hậu và nước biển dâng; bảo
đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hợp
tác quốc tế [3],
Đại hội XIII của Đảng xác định: "Phát triển
bền vững kinh tế biển phù hợp với các chuẩn
mực quốc tế, kiểm soát khai thác tài nguyên
biển, phục hồi hệ sinh thái biển, gắn liền với
bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao đời
sống nhân dân vùng biển, đảo" [4]; "Phát triển
các ngành kinh tế biển có lợi thế, mũi nhọn
như: Du lịch và dịch vụ biển, kinh tế hàng hải,
khai thác dầu khí và các tài ngun khống
sản biển khác, nuôi trồng và khai thác hải sản,
công nghiệp ven biển, năng lượng tái tạo và
các ngành kinh tế biển mới. Huy động nguồn
lực, khuyến khích phát triển bền vững biển,
xây dựng các tập đoàn kinh tế biển mạnh" [5],
Trước những biến động khó lường của tình
hình quốc tế, khu vực và dịch bệnh COVID-19
diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ
ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước nói chung, cũng như các ngành kinh
tế biển, các địa phương có biển, Thủ tướng
Chính phủ ban hành Chỉ thị số 31/CT-Ttg,
ngày 24/11/2021 về đổi mới và tăng cường
thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh
tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến
năm 2045. Chỉ thị yêu cầu các bộ, ngành, ủy
ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương có biển tiếp tục quán triệt sâu

sắc, nhận thức đầy đủ và toàn diện các nội
dung, tăng cường triển khai đồng bộ các khâu
đột phá, giải pháp chủ yếu về phát triển bền
18

vững kinh tế biển; nỗ lực cao, đổi mới sáng
tạo, quyết tâm lớn, hành động quyết liệt, hiệu
quả các nhiệm vụ được giao [6].
Phát triển nguồn nhân lực biển là vấn đề
luôn được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm.
Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển
Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm
2045 xác định: "Phát triển nguồn nhân lực
biển chất lượng cao phù hợp với nhu cầu thị
trường; có cơ chế, chính sách đặc biệt thu hút
nhân tài, từng bước hình thành đội ngũ các
nhà quản lý, nhà khoa học, chuyên gia đạt
trình độ quốc tế, có chun mơn sâu về biển
và đại dương. Có cơ chế hỗ trợ, nâng cao chất
lượng đào tạo, phát triển mạng lưới cơ sở đào
tạo nguồn nhân lực biển đạt trình độ tiên tiến
trong khu vực. Thực hiện có hiệu quả công
tác đào tạo nghề, đáp ứng yêu cầu lao động
của các ngành kinh tế biển và việc chuyển đổi
nghề của người dân" [7],
Chiến lược phát triển bền vững kinh tế
biển Việt Nam đặt mục tiêu cụ thể về chỉ
số phát triển con người (HDI) của các tỉnh,
thành phố ven biển cao hơn mức trung bình
của cả nước; thu nhập bình quân đầu người

của các tỉnh, thành phố ven biển gấp từ 1,2
lần trở lên so với thu nhập bình qn của cả
nước [8], Các đảo có người dân sinh sống có
hạ tầng kinh tế - xã hội cơ bản đầy đủ, đặc
biệt là điện, nước ngọt, thông tin liên lạc, y
tế, giáo dục... Tiếp cận, tận dụng tối đa thành
tựu khoa học cơng nghệ tiên tiến và thuộc
nhóm nước dẫn đầu trong ASEAN, có một
số lĩnh vực khoa học và cơng nghệ biển đạt
trình độ tiên tiến, hiện đại trên thế giới. Đào
tạo và phát triển nguồn nhân lực biển, hình
thành đội ngũ cán bộ khoa học và cơng nghệ
biển có năng lực, trình độ cao.
Đồ án Hợp tác quốc tế số 647/QĐ-TTg ngày
18/5/2020 về phát triển bền vững kinh tế biển
Việt Nam đến năm 2030 được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt, nêu rõ "Đào tạo phát
triển nhân lực biển chất lượng cao, chú trọng
các lĩnh vực kinh tế hàng hải, du lịch biển,
thủy hải sản, y học biển; xây dựng cơ chế thu

I TẠP CHÍ KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ I số 43 (3-2022)


hút chuyên gia, nhà khoa học, nhân lực chất
lượng cao trong nước và quốc tế; đào tạo lại,
đào tạo mới, hình thành đội ngũ chuyên gia,
đặc biệt là các chuyên gia khoa học đầu đàn,
cán bộ quản lý nhà nước có trình độ cao về tài
ngun, mơi trường biển. Có cơ chế khuyến

khích, tạo điều kiện để các nhà khoa học Việt
Nam tham gia vào các tổ chức khoa học công
nghệ biển quốc tế, các ban biên tập các tạp chí
quốc tế về biển" [9],
2. Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực biển

Những năm qua, công tác phát triển nguồn
nhân lực biển đã được các ngành, các cấp
quan tâm và đạt được nhiều kết quả tích cực.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) chủ trì, phối
hợp với các bộ, ngành, địa phương triển khai
rà soát các đề án phát triển nguồn nhân lực,
trong đó chú trọng phát triển nguồn nhân lực
biển thông qua đào tạo, dạy nghề, xây dựng cơ
sở đào tạo và các chương trình đào tạo nhân
lực cho quản lý, khai thác biển. Bộ GD&ĐT
đã đưa vào quy chế tuyển sinh đại học, thạc
sỹ, tiến sỹ các chính sách ưu tiên đối với sinh
viên, học viên có hộ khẩu thường trú tại các xã
đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và
hải đảo; rà soát các chương trình đào tạo phục
vụ phát triển kinh tế biển, hướng dẫn, hỗ trợ
các cơ sở đào tạo mở mã ngành đào tạo phù
hợp, phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế biển.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
(LĐ-TB&XH) triển khai rà soát, điều chỉnh,
bổ sung quy hoạch mạng lưới các cơ sở dạy
nghề, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế biển
và theo dõi việc thực hiện chiến lược, quy
hoạch phát triển nguồn nhân lực đối với lao

động phục vụ Chiến lược biển. Theo đó, đưa
15 nghề thuộc lĩnh vực kinh tế biển vào danh
mục nghề trọng điểm đào tạo nhân lực. Đồng
thời, Bộ LĐ-TB&XH phối hợp với Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT)
xây dựng và thực hiện chương trình đào tạo
nghề và chương trình bồi dưỡng hoàn thiện kỹ
năng nghề cho ngư dân vùng biển.
Các ngành học về biển và đại dương được

giảng dạy tại nhiều trường đại học. Một số
trường đại học đã bổ sung các chương trình
đào tạo mới về kinh tế biển và quản lý biển.
Các địa phương ven biển tăng cường hoạt
động đào tạo, dạy nghề cho lao động trong các
ngành kinh tế biển trên địa bàn, lồng ghép nội
dung phát triển nguồn nhân lực biển trong
xây dựng và thực hiện quy hoạch phát triển
nguồn nhân lực của địa phương. Các trường
đào tạo nghề, dạy nghề tại các địa phương ven
biển được đầu tư nâng cấp và thành lập mới.
Các mô hình dạy nghề trong lĩnh vực thủy
sản thơng qua tổ chức thí điểm dạy nghề máy
trưởng, thuyền trưởng cũng được triển khai và
nhân rộng [10],
Nhiều hình thức bồi dưỡng thường xuyên
được tiến hành, như tổ chức tham quan; tập
huấn kỹ năng và nghiệp vụ; bồi dưỡng ngắn
hạn thông qua các hoạt động khoa học - công
nghệ và hợp tác quốc tế về biển, đảo, thông

qua "vừa học, vừa làm". Các chính sách hỗ
trợ ngư dân cũng đã được sửa đổi, bổ sung,
do đó, nguồn nhân lực biển đã đáp ứng được
một phần nhu cầu phát triển bền vững kinh
tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Nhiều địa bàn, vùng kinh tế gắn với biển phát
triển mạnh mẽ, không chỉ tạo ra giá trị kinh tế
phục vụ đời sống nhân dân, nhu cầu xã hội,
mà còn tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu với
nhiều thị trường trên thế giới. Quốc phòng, an
ninh biển, đảo được tăng cường và giữ vững.
Tuy nhiên, nguồn nhân lực biển và công tác
phát triển nguồn nhân lực biển vẫn còn một
số hạn chế, bất cập cần được khắc phục. Theo
đánh giá của Tổng cục Biển và Hải đảo Việt
Nam, nhân lực biển Việt Nam còn thiếu về số
lượng và yếu về chất lượng, cơ cấu nhân lực
mất cân đối, đội ngũ guản lý yếu về chuyên
môn, nghiệp vụ. Đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ về biển chưa đáp ứng được yêu cầu
về số lượng, chất lượng và cơ cấu. Lực lượng
thuyền trưởng, máy trưởng, đội phó và sĩ quan,
thủy thủ lành nghề phục vụ trên tàu biển thiếu.
Nguồn nhân lực thực hiện công tác quản lý
tài nguyên và môi trường biển đang bị phân

SỐ 43 (3-2022) I TẠP CHÍ KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ I

19



ĐƯA NGHỊ QUYẾT CỦA ĐÀNG VÀO cuộc SÓNG

tán và chủ yếu là quản lý gián tiếp. Tính đến
năm 2020, có 132 huyện, quận, thị xã, thành
phố trực thuộc tỉnh ven biển và cấp xã (hơn
700 xã, phuờng, thị trấn ven biển) và tại các
đơn vị Cảnh sát biển, cảnh sát môi trường bị
thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao cho lĩnh
vực quản lý biển [11], Đa số nguồn nhân lực
từ các sở, ngành địa phương làm kiêm nhiệm,
chưa có sự phân tách giữa một số các lĩnh
vực liên quan đến tài nguyên môi trường và
phân biệt những người làm việc trong các cơ
quan quản lý nhà nước và những người làm
công tác bảo vệ môi trường trong các đơn vị
sự nghiệp.
Theo thống kê của Cục Hàng hải Việt
Nam, 8 tháng đầu năm 2021, sản lượng hàng
container thông qua cảng biển tăng trưởng
18% so với cùng kỳ năm 2020 [12], Tuy nhiên,
nguồn nhân lực của ngành hàng hải lại thiếu
hụt trầm trọng khiến nhiều đơn vị đã tuyển
dụng thuyền viên chưa có kinh nghiệm hoặc
phải chấp nhận tuyển dụng thuyền viên yếu
về chun mơn, miễn có đủ bằng cấp, chứng
chỉ để bảo đảm đủ định biên an toàn tối thiểu
theo quy định để vừa làm việc, vừa đào tạo.
Nhân lực ngành đóng tàu có nguy cơ thiếu
hụt trầm trọng và nguy cơ bị "chảy máu, nhất
là thợ bậc cao do thu nhập giảm sút, việc làm

bấp bênh [13]. Nhân lực ngành du lịch biển,
đảo và ngành quản lý tổng hợp vùng biển,
hải đảo chưa đáp ứng được yêu cầu. Hầu hết
chuyên gia, cơng nhân của ngành dầu khí hội
đủ tay nghề và kinh nghiệm đều phải thuê từ
nước ngoài. Nhiều loại hình du lịch mới như
du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, spa... phát triển
mạnh, nhưng trình độ chuyên nghiệp trong
quản lý và kỹ năng nghề nghiệp của nhân lực
ngành du lịch hạn chế và thiếu đồng bộ dẫn
tới chất lượng dịch vụ chưa đạt chuẩn.
Khả năng làm chủ trang thiết bị hiện đại
cho ngành đánh bắt hải sản xa bờ chưa cao.
Ngư dân còn thiếu hiểu biết luật quốc tế về
biển, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản
xuất và tính mạng con người. Thực tế, đang
có nhiều tàu cá cơng suất lớn phải nằm bờ,
20

do khơng có lao động đi biển. Nhiều ngư dân
phải bán tàu. Nhiều người trong lớp trẻ cũng
như nhiều gia đình khơng muốn cho con em
làm nghề biển, do lao động trên biển quá vất
vả, thu nhập thiếu ổn định và chịu nhiều rủi
ro. Vì vậy, nguồn nhân lực chính được đào tạo,
tuyển dụng đi biển theo cách truyền thống
ngày càng ít. Thay vào đó là lao động mang
tính thời vụ, khơng ổn định.
Những hạn chế, yếu kém trên, một mặt do
quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân

lực biển cịn có những hạn chế nhất định. Việc
kiểm định đánh giá chất lượng đào tạo của các
cơ quan quản lý nhà nước đối với các cơ sở đào
tạo còn bất cập, thiếu các tổ chức kiểm định
chất lượng đào tạo độc lập. Chưa có hệ thống
thơng tin thị trường lao động đầy đủ để nắm
bắt chính xác nhu cầu của thị trường, làm căn
cứ để xây dựng kế hoạch đào tạo cho các cơ
sở đào tạo. Mặt khác, sự gắn bó của người
lao động sau khi được đào tạo với các ngành
nghề kinh tế biển không cao do có nhiều rủi
ro. Ngồi ra là những bất cập chế độ bảo hiểm
xã hội và bảo hiểm y tế.
Các cơ sở đào tạo, viện nghiên cứu về biển
chưa được đầu tư phát triển tương xứng;
cán bộ nghiên cứu, giảng dạy, phương tiện,
trang thiết bị chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo
nguồn nhân lực biển chất lượng cao; thiếu sự
kết nối giữa các cơ sở đào tạo với hệ thống
doanh nghiệp; công tác đào tạo, dạy nghề, hỗ
trợ chuyển đổi việc làm cho người dân ven
biển chưa được tổ chức cơ bản, khoa học. Việc
đào tạo lao động biển chủ yếu theo kiểu cha
truyền, con nối, người đi trước truyền kinh
nghiệm cho người đi sau, việc kế tục nghề
nghiệp được đa số ngư dân xem như sự mặc
định, không thay đổi. Hiệu quả hợp tác quốc
tế trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo nguồn nhân
lực biển chưa cao.
3. Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực biển


Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
biển, thực hiện có hiệu quả Chiến lược phát
triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm

I TẠP CHÍ KINH TÊ VÀ QUẢN LÝ I số 43 (3-2022)


2030, tầm nhìn đến năm 2045, cần chú trọng
một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục hồn thiện hệ thống
chính sách, pháp luật về biển, khung pháp lý
cho phát triển nguồn nhân lực biển; thực hiện
tốt quy hoạch nguồn nhân lực biển; có chính
sách hỗ trợ, phát triển mạng lưới cơ sở đào
tạo nhằm xây dựng nguồn nhân lực biển có
chất lượng cao. Theo đó, cần dự báo chính xác
tổng nhu cầu phát triển nhân lực biển của cả
nước, các vùng miền, địa phương, trong đó có
số nhân lực được đào tạo qua hệ thống đào tạo
chính quy, hệ thống dạy nghề và giáo dục, bồi
dưỡng thường xuyên.
Việc quy hoạch phát triển nguồn nhân lực
biển phải đáp ứng thực hiện thành công các
mục tiêu phát triển kinh tế biển và có tầm
nhìn dài hạn, bước đi thích hợp theo u cầu
phát triển từng giai đoạn; đồng thời, bảo đảm
tính hài hòa về cơ cấu và cân đối nhân lực
theo ngành, lĩnh vực, vùng miền, lãnh thổ
và gắn với yêu cầu của hội nhập quốc tế...

Trong quy hoạch nhân lực biển, cần định
hướng rõ phát triển nhân lực biển theo từng
ngành nghề dựa trên những thế mạnh, yêu
cầu của từng địa phương, từng vùng, từ đó
đưa ra những yêu cầu, định hướng đáp ứng
nhu cầu thực tế. Tập trung phát triển nhân
lực cho các ngành như du lịch biển, đảo;
kinh tế hàng hải; khai thác dầu khí và các
tài ngun khống sản khác; nuôi trồng, khai
thác thủy hải sản và phát triển hạ tầng nghề
cá; cơng nghiệp đóng tàu; năng lượng tái tạo
và các ngành kinh tế biển mới.
Thứ hai, đẩy mạnh công tác nghiên cứu,
phát triển ngành khoa học cơ bản, khoa học
ứng dụng về các vùng biển, đảo. Nghiên cứu
thành lập thêm các trung tâm nghiên cứu về
biển, đảo và đầu tư vốn, trang thiết bị thích
đáng để thực hiện chức năng nghiên cứu và
đào tạo nguồn nhân lực biển. Triển khai các
đề tài nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực,
đổi mới cơ cấu nghề nghiệp, phát triển các
ngành nghề mới thích ứng với các vùng mặn
hóa, hạn hán, ngập nước; áp dụng công nghệ

hiện đại vào các lĩnh vực khai thác khống
sản, dầu khí, băng cháy, đóng tàu và chế biến
các sản phẩm của biển...
Đổi mới hệ thống giáo dục, đào tạo theo
chương trình tiên tiến để đào tạo nguồn nhân
lực biển có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu

thực tế của nền kinh tế. Đa dạng hóa cơng tác
đào tạo và mở rộng ngành học về biển ở các
trường đại học, viện nghiên cứu, chú trọng
đào tạo nhân lực cho các lĩnh vực ưu tiên, xây
dựng các tổ chức kiểm định, đánh giá chất
lượng giáo dục, đào tạo độc lập. Tăng cường
hợp tác, trao đổi chuyên gia nhằm đào tạo bồi
dưỡng cán bộ với các nước có trình độ tiên
tiến, các tổ chức quốc tế đã thiết lập quan hệ
đối tác về lĩnh vực chuyên môn nghiệp vụ với
Việt Nam.
Bảo đảm gắn kết nhu cầu đào tạo, đơn vị
sử dụng nhân lực biển với các cơ sở đào tạo để
nguồn lực sau khi đào tạo được cung ứng một
cách có hiệu quả nhất. Khuyến khích và phát
triển các hình thức liên kết, hợp tác giữa các
trường đại học, các cơ quan, các tổ chức nghiên
cứu và các doanh nghiệp để đáp ứng yêu cầu
nguồn nhân lực và khoa học công nghệ phục
vụ cho yêu cầu sản xuất kinh doanh. Phối hợp
chặt chẽ giữa Tổng cục Biển và Hải đảo Việt
Nam với các cơ sở đào tạo trong nước và nước
ngoài trong đào tạo, phát triển nguồn nhân
lực biển. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất,
trang thiết bị nghiên cứu, giảng dạy cho các
viện nghiên cứu, cơ sở đào tạo nguồn nhân
lực biển.
Thực hiện tốt chính sách thu hút, khuyến
khích con em ngư dân theo học các ngành
nghề về biển tại các trường chuyên nghiệp;

hỗ trợ đào tạo đội ngũ lao động về kỹ năng
hoạt động trên biển, về sử dụng các trang
thiết bị hiện đại trong khai thác, đánh bắt
hải sản và kiến thức pháp luật về biển nhằm
nâng cao năng suất, hiệu quả hoạt động. Các
địa phương ven biển tăng cường hoạt động
đào tạo, dạy nghề cho lao động trong các
ngành kinh tế biển trên địa bàn, lồng ghép
nội dung phát triển nguồn nhân lực biển

SỐ 43 (3-2022) I TẠP CHÍ KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ I

21


ĐƯA NGHỊ QUYẾT CÚA ĐÃNG VÀO cuộc SÓNG

trong xây dựng và thực hiện quy hoạch phát
triển nguồn nhân lực địa phương. Có chế độ
đãi ngộ và thu hút nhân tài, từng bước hình
thành đội ngũ nhà quản lý, nhà khoa học,
chun gia đạt trình độ quốc tế, có chun
mơn sâu về biển và đại dương.
Thứ ba, thực hiện tốt các chính sách tiền
lương, chính sách hỗ trợ ngư dân, đáp ứng
yêu cầu lao động của các ngành kinh tế biển
và việc chuyển đổi nghề của người dân. Giải
quyết các khó khăn của ngư dân về nhu cầu
đóng mới, nâng cấp tàu cá, trang thiết bị, bảo
quản sản phẩm; trang bị máy móc, thiết bị

cơng nghệ hiện đại, bảo đảm thơng tin liên
lạc, tạo thuận lợi cho ngư dân phát triển kinh
tế biển kết hợp thực hiện nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh trên biển.
Với những chính sách hỗ trợ ngư dân, cần
ưu tiên cao nhất đối với việc đóng mới các tàu
dịch vụ hậu cần vỏ thép hoặc vật liệu mới,
chuyên cung cấp các nhu yếu phẩm, nước,
dầu và thu mua hải sản ngay trên biển; hình
thành các đội tàu đánh bắt xa bờ lớn, hiện đại,
vươn khơi xa, bám biển dài ngày. Tập trung
đầu tư cơ sở hạ tầng, các khu cảng, neo đậu,
trú tránh bão cho ngư dân, tạo điều kiện thuận
lợi để tổ chức lại hoạt động đánh bắt, khai thác
thủy sản bền vững. Hướng dẫn người dân
trong việc phát triển các hoạt động theo mơ
hình quản lý nghề cá dựa vào cộng đồng; thúc
đẩy hình thức tổ chức khai thác theo tổ, đội
sản xuất, hợp tác xã đánh bắt xa bờ, nghiệp
đoàn nghề cá...
Thứ tư, nâng cao dân trí, phát triển văn hóa
- xã hội cho cộng đồng dân cư vùng biển, ven
biển và hải đảo. Ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở
vật chất, trường học, quan tâm đời sống giáo
viên, tạo điều kiện tốt để nâng cao chất lượng
dạy và học ở vùng biển, đảo. Tăng cường giáo
dục nâng cao kỹ năng sinh tồn, thích ứng với
biến đổi khí hậu và nước biển dâng, phịng,
tránh thiên tai cho học sinh, sinh viên cho tất
cả các bậc học, cấp học. Tiếp tục củng cố và

phát triển mạng lưới y tế vùng biển, đảo; ưu
tiên đầu tư xây dựng trạm y tế, trang thiết bị
22

y tế và lực lượng cán bộ y tế ở các xã đảo phục
vụ tốt cho việc chăm sóc, khám, chữa bệnh
cho nhân dân.
Đầu tư cơ sở vật chất, nguồn nhân lực cho
các bệnh viện ở huyện đảo; xây dựng các trạm
y tế cho vùng biển, đảo theo tiêu chí của Bộ Y
tế. Quan tâm chăm sóc sức khỏe, tăng cường
dinh dưỡng cho người lao động. Phát triển các
thiết chế văn hóa cho cộng đồng dân cư vùng
biển, đảo; phát huy bản sắc, giá trị văn hóa
dân tộc, tri thức ứng xử với biển, tạo nền tảng
để xây dựng văn hóa biển. Bảo đảm đời sống,
an ninh, an toàn cho dân cư vùng ven biển,
trên đảo và người lao động trên biển.
Thứ năm, phối hợp chặt chẽ giữa lực lượng
trong các ngành kinh tế biển với lực lượng vũ
trang, vừa phát triển kinh tế, vừa bảo đảm
quốc phòng, an ninh biển, đảo. xây dựng lực
lượng vũ trang, nịng cốt là hải qn, khơng
qn, bộ đội biên phòng, cảnh sát biển, kiểm
ngư, dân quân tự vệ biển mạnh, làm chỗ dựa
vững chắc cho ngư dân và các thành phần
kinh tế sản xuất và khai thác tài nguyên biển.
Xử lý tốt các tình huống, hỗ trợ ngư dân khai
thác hải sản, cứu hộ - cứu nạn trên biển, hỗ
trợ hậu cần, y tế... để ngư dân có thể hoạt

động dài ngày trên biển. Củng cố, xây dựng
các xã, phường trọng điểm về kinh tế biển và
quốc phòng, an ninh.
Thứ sáu, mở rộng hợp tác quốc tế, tranh
thủ tối đa các nguồn lực để nâng cao năng lực
quản lý, khai thác biển cũng như đào tạo, phát
triển nguồn nhân lực biển chất lượng cao.
Phối hợp với các nước có thế mạnh về khoa
học biển trong hợp tác, nghiên cứu xây dựng
các trung tâm nghiên cứu khoa học, ứng dụng
công nghệ tiên tiến; chủ động tham gia tích
cực các hoạt động quốc tế trong khn khổ
Thập kỷ của Liên hợp quốc về khoa học biển vì
sự phát triển bền vững giai đoạn 2021-2030.
Có cơ chế thu hút chuyên gia, nhà khoa học,
nhân lực chất lượng cao trong nước và quốc tế
làm việc và cống hiến cho sự nghiệp biển, đảo
của nước ta. Đẩy mạnh hợp tác, tranh thủ sự
hỗ trợ của các đối tác, các tổ chức quốc tế và

I TẠP CHÍ KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ I số 43 (3-2022)


khu vực để phát triển nguồn nhân lực, cơ sở
hạ tầng vùng biển, nghiên cứu khoa học và
ứng dụng công nghệ hiện đại vào các ngành
kinh tế biển, bảo vệ mơi trường, phịng, chống
thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu,
nước biển dâng. Khuyến khích, tạo điều kiện
để các nhà khoa học Việt Nam tham gia vào

các tổ chức khoa học công nghệ biển quốc tế,
các ban biên tập các tạp chí quốc tế về biển.
Phát triển nguồn nhân lực biển là chìa
khóa của sự thành cơng trong phát triển bền
vững kinh tế biển, quản lý, sử dụng và bảo vệ

tài nguyên môi trường biển Việt Nam. Đổ có
nguồn nhân lực biển chất lượng cao, cần thực
hiện những giải pháp đồng bộ, bao gồm cả
hoàn thiện thể chế, chính sách; đổi mói giáo
dục, đào tạo; thực hiện các chính sách tiền
lương, hỗ trợ ngư dân; nâng cao hiệu quả hợp
tác quốc tế; phát triển dân trí, văn hóa - xã hội
cho cộng đồng dân cư vùng biển, ven biển và
hải đảo, cùng với sự nỗ lực của cả hệ thống
chính trị, các cấp, các ngành, các địa phương
ven biển và tồn xã hội.

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN:

[1] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr. 71-72.
[2], [7], [8] Nghị quyết về Chiến lược phát triển bền
vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, https://
bnews.vn/nghi-quyet-ve-chíen-luoc-phat-trien-benvung-klnh-te-bien-viet-nam-den-nam-2030/99434.
html, truy cập ngày24/10/2018.
[3] Nghị quyết số 26/NQ-CP của Chính phủ: Ban hành
Ke hoạch tổng thể và Kế hoạch 5 năm của Chính phủ
thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018
của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương

Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững
kinh tế biển Việt Nom đén năm 2030, tầm nhìn đen
năm 2045, httpsy/lawnet. vn/vb/nghi-quyet-26-nqcp-2020-thuc-hien-nghi-quyet-36-nq-tw-chien-luocphat-trien-ben-vung-kinh-te-bien-6a831.html,
truy
cập ngày 11/3/2020.
[4] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII, t.l, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021,
tr.257-258.
[5] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
xm, t.2, Sđd, tr.l 20-121.
[6] Chỉ thị số 31/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ: về
đổi mới và tăng cường tổchức thực hiện Chiến lượcphát
triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030,
tầm nhìn đến năm 2045, />default. aspx?pageid=27160&docid=204538, truy cập

ngày24/11/2021.
[9] Quyết định số 647/QĐ-TTg phê duyệt Đe án hợp
tác quốc tế về phát triển bền vững kinh tế biển Việt
Nam đến năm 2030, -647- QD-TTg-2020phe-duyet-De-an-hop-tac-phat-trien-ben-vung-kinhte-bien-Viet-Nam-2030-442946.aspx, truy cập ngày
18/5/2020.
[10] Hoàng Nam: 10 năm thực hiện Chiến lược biển Việt
Nam - Bài 3: Tập trungphát triển nguồn nhân lực biển,
https.//baotintuc. vn/kinh-te-bien-dao/10-nam-thuchien-chien-luoc-bien-viet-nambai-3-tap-trung-phattrien-nguon-nhan-luc-bien-20181003070220277.
htm, truy cập ngày 03/10/2018.
[11] Tuyensính.hunre.edu.vn: Việt nam đang thiếu
nguồn nhân lực chất lượng cao cho Quản lý biển Quản trị Đại dương, , truy cập
ngày 03/02/2020.
[12] Đặng Tiến: Vận tải biển thiếu thuyền viên, https://
laodong. vn/xa-hoi/van-tai-bien-thieu-thuyen-vien-967082.1do, truy cập ngày20/10/2021.
[13] Quang Hưng: Chảymáu chất xám ngành đóng tàu,

truy cập ngày
18/02/2022.

SỐ 43 (3-2022) I TẠP CHÍ KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ I

23



×