TR LI U TÂM LÝ TR EM VÀ THIẾU NIÊN
BS. NGUY N MINH TIẾN
PH N 1 : TR LI U CÁ NHÂN
L CH S
Việc thực hành trị liệu tâm lý cho trẻ em bắt nguồn từ nhiều lý thuyết khác nhau. Cho đến đầu thập niên 1970,
các lý thuyết phân tâm học (psychoanalysis) và tâm động học (psychodynamic) vẫn là nền tảng cho việc trị liệu
tâm lý trẻ em
các bệnh viện và phòng khám. Liệu pháp Roger lấy đứa trẻ làm trọng tâm (child-centered
therapy) đ ợc áp dụng chủ yếu b i các nhà tâm lý học đ ng (school psychologist). Việc tham vấn và trị liệu tâm
lý cho trẻ em chịu ảnh h ng b i các tr ng phái phân tâm học, với sự tham gia của “bộ ba” gồm bác sĩ tâm
thần, nhà tâm lý và nhân viên xã hội, nhấn mạnh vào trò chơi trị liệu (play therapy), làm việc với phụ huynh và
tham vấn giáo dục trong th i gian lâu dài, và các liệu pháp dành cho ng i lớn th ng đ ợc cải biên rất ít khi áp
dụng cho trẻ em.
Hiện nay, nhiều lý thuyết và kỹ thuật trị liệu sẵn có cho phép điều trị đ ợc một số l ợng lớn các tr ng hợp tâm
bệnh trẻ em. Do ảnh h ng của tâm thần học cộng đồng (community psychiatry) nên có sự nhấn mạnh vào
việc chăm sóc đứa trẻ bị rối nhiễu trên cơ s ngoại trú, th i gian trị liệu ngắn hơn, cùng những biện pháp can
thiệp định h ớng theo vấn đề (problem-oriented intervention), quan tâm nhiều hơn đến các yếu tố gây stress từ
môi tr ng sống, quan hệ gia đình và các xung đột hữu thức (conscous conflict), nhấn mạnh hơn đến mối quan
hệ giữa đứa trẻ và nhà trị liệu.
KHÁC BI T GI A TR LI U TÂM LÝ
TR EM VÀ NG
Có những nguyên tắc chung cho trị liệu tâm lý
hợp với việc áp dụng trẻ em.
trẻ em và ng
IL N
i lớn, nh ng biện pháp cần đ ợc cải biên cho phù
Tr ớc tiên, đứa trẻ hiếm khi trực tiếp đòi hỏi việc trị liệu, mà th ng là do cha mẹ đ a trẻ đến nhà trị liệu. Việc tr
liệu vừa phải giải quyết những yêu cầu của phụ huynh, vừa phải thiết lập mối quan hệ trị liệu với đứa trẻ.
Kế đến, phụ huynh của trẻ cũng phải tham gia vào quá trình trị liệu. Phụ huynh phải bảo đảm việc thay đổi mô
tr ng sống của đứa trẻ để tạo điều kiện tốt cho sự thay đổi hành vi nơi đứa trẻ. Dù rằng trẻ đ ợc xem là “ng
bệnh” nh ng nhà trị liệu phải xem cả đứa trẻ và phụ huynh của trẻ nh những đối t ợng cần đ ợc trị liệu.
Sau cùng, nhà trị liệu tâm lý cho trẻ em cần phải năng động hơn. Nhà trị liệu cần gắn bó trực tiếp hơn với đứa
trẻ, cần bắt đầu bằng những chủ đề “bên ngoài” mối quan hệ giữa đứa trẻ và nhà trị liệu, cả hai cùng nói chuyện
và chọn lựa trị chơi, và trong vài tr ng hợp, có thể hạn chế những hành vi khơng thích đáng.
NH NG MỤC ĐÍCH C A TR LI U TÂM LÝ
TR EM
Mục đích của trị liệu tâm lý phụ thuộc vào mơ hình trị liệu, nhà trị liệu, bản thân đứa trẻ và gia đình của trẻ. Một
mục đích cơ bản của hầu hết mơ hình trị liệu là nhằm làm giảm sự đau khổ của trẻ và tạo điều kiện cho sự hồ
phục; nói chung là làm giảm các triệu chứng của rối nhiễu tâm lý trẻ. Những mục đích khác gồm: tạo điều kiện
cho trẻ phát triển một cách bình th ng, giúp trẻ học đ ợc những kỹ năng thích nghi và đ ơng đầu với các vấn
đề cảm xúc và các vấn đề trong giao tiếp với ng i khác, củng cố những thành quả trị liệu và duy trì chúng sau
khi trị liệu.
Những mục đích lâu dài và những mục tiêu ngắn hạn phải đ ợc cụ thể hóa trong từng tr ng hợp, xem xét phạm
vi và mức độ nghiêm trọng của từng vấn đề, cùng khả năng của đứa trẻ, gia đình, cộng đồng và của nhà trị liệu
Để đạt đến sự thay đổi hành vi tối u cần kết hợp nhiều ph ơng pháp trị liệu khác nhau. Nhà trị liệu càng có
nhiều kỹ năng, kinh nghiệm và linh động trong làm việc với trẻ, thì kết quả trị liệu càng cao.
CH I
Chơi là một thành phần không thể thiếu trong hầu hết các liệu pháp tâm lý trẻ em. Chơi giúp tạo nên một mô
tr ng tự nhiên mà qua đó những suy nghĩ, cảm giác, những mối mâu thuẫn và nỗi sợ hãi bị dồn nén của đứa trẻ
có thể đ ợc giải bày.
Nhà trị liệu có thể dùng môi tr ng vui chơi của trẻ để áp dụng các chủ đề của việc trị liệu, biết đ ợc những tình
huống gây ra sự rối nhiễu của đứa trẻ, hiểu đ ợc cách thức suy nghĩ, cảm giác và ứng xử của đứa trẻ trong
những tình huống đó.
Chơi cũng giúp bản thân đứa trẻ hiểu đ ợc những suy nghĩ, cảm giác và hành vi ứng xử của chính mình trong
từng tình huống nhất định. Qua chơi, trẻ cũng sẽ phát triển đ ợc các kỹ năng ứng xử trong những tình huống đó.
CÁC PH
NG TI N C N THIẾT
Trị liệu tâm lý cho ng i lớn đơn giản chỉ cần một văn phòng làm việc với bàn, ghế, chiếc ghế dài (sofa), cùng sự
bảo đảm bí mật cho thân chủ. Trong trị liệu tâm lý cho trẻ em đòi hỏi ph ơng tiện trang bị nhiều hơn.
Một phòng trị chơi trị liệu điển hình phải có đủ những đồ chơi, trò chơi, con rối, cùng các vật liệu để trẻ có thể
thao tác bằng tay nh đất sét, bột nặn, bút chì, giấy vẽ, bút màu, và đặc biệt là những “ngôi nhà búp bê” (dol
house). Cũng cần có những hộp đựng cát, vật dụng để chơi với n ớc nh thau, chậu, bình, lọ... và màu vẽ mà trẻ
có thể dùng các ngón tay nhúng vào để vẽ tự do.
Nhà trị liệu áp dụng ph ơng pháp không h ớng dẫn (nondirective approach), hạn chế hoặc tránh việc “diễn giải”
trò chơi cho đứa trẻ và th ng đ a ra rất nhiều loại đồ chơi khác nhau. Điều cần nhớ là chơi quan trọng hơn công
việc trị liệu; hay nói cách khác: Chơi là ph ơng pháp trị liệu cho trẻ em.
Một số tr ng hợp trị liệu theo kiểu phân tâm học cũng bố trí phịng chơi sao cho đứa trẻ có thể giải bày những
huyễn t ng (fantasy). Một số đồ chơi khác có thể thêm vào nh những búp bê có hình những giống dân khác
nhau, vai trò khác nhau (cảnh sát, bác sĩ, ng i lính...), những con thú, con rối...
Phịng chơi cần tạo cho trẻ có cảm giác riêng t , an toàn, và trẻ đ ợc tự do sáng tạo trong việc sử dụng những
vật liệu chơi để giao tiếp với nhà trị liệu.
QUAN H V I NHÀ TR LI U
Hiện t ợng chuyển di (transference) và vai trị của nó trong trị liệu tâm lý trẻ em khác biệt rất nhiều so với ng
lớn. Đây là một khái niệm trong phân tâm học và liệu pháp tâm động học (dynamic psychotherapy), hiện vẫn
đ ợc xem xét đến trong tất cả các liệu pháp tâm lý cho trẻ em.
Theo lý thuyết học tập (learning theory), cách thức đáp ứng và kỳ vọng của một đứa trẻ có thể đ ợc đốn biết từ
những l i nói và hành vi ứng xử của trẻ đối với cha mẹ của trẻ. Các phản ứng chuyển di trẻ em không mạnh
nh
ng i lớn do sự hiện diện th ng xuyên của cha mẹ trẻ.
NH NG ĐÒI H I
NHÀ TR LI U
Nhà trị liệu cần phải năng động để xử lý vô số yếu tố và giả thuyết trong khi tiến hành các buổi trị liệu. Trong tr
liệu tâm lý trẻ em, nhà trị liệu cần phải hết sức nhẫn nại, chịu đựng, vì trẻ em th ng xuyên không yên một
chỗ, mà hay di chuyển và hoạt động. Không cần thiết giữ “khoảng cách” giữa nhà trị liệu và trẻ. Trẻ cũng th ng
biểu hiện những hành vi bất chợt và không tự chủ để giải tỏa những nỗi lo âu và sợ hãi khơng nói thành l i
Những tình huống nh vậy địi hỏi nhà trị liệu phải hết sức trầm tĩnh và tỉnh táo. Ngoài ra, nhà trị liệu tâm lý cũng
phải th ng xuyên duy trì mối giao tiếp với phụ huynh, tr ng học của trẻ và các cơ quan chăm sóc trẻ em khác
để cùng phối hợp trị liệu.
CÁC M C Đ
PHÁT TRI N
Trẻ em có tiềm năng phát triển theo những chiều h ớng khác nhau, với những khả năng và nhu cầu tùy theo giai
đoạn phát triển của lứa tuổi. Mức độ phát triển của đứa trẻ đóng một vai trị rất quan trọng trong việc xác định
những nhu cầu của việc trị liệu. Trẻ em th ng có khuynh h ớng phóng chiếu ra bên ngồi những xung đột nội
tâm và th ng tìm kiếm những giải pháp đơn giản để giải quyết các vấn đề của bản thân. Trẻ th ng bị hạn chế
khả năng “tự quan sát” chính mình. Vì thế, kỹ thuật trị liệu cũng cần đ ợc điều chỉnh cho phù hợp với giai đoạn
phát triển về nhận thức, cảm xúc, tâm lý-xã hội của từng đứa trẻ.
MỤC ĐÍCH TR LI U
Trị liệu tâm lý cá nhân trẻ em chủ yếu nhằm “tập luyện” (habilitation) hơn là để “phục hồi” (rehabilitation). Việc
trị liệu nhằm tạo điều kiện giúp trẻ phát triển bình th ng, đặc biệt là phát triển tính tị mị về bản thân mình và
thế giới xung quanh; giúp trẻ phát triển những hành vi thích nghi, và tạo môi tr ng tốt cho sự tr ng thành của
trẻ.
TR LI U
Việc hoạch định kế hoạch trị liệu bắt đầu ngay từ khi tiếp xúc lần đầu tiên với trẻ, cha mẹ hoặc ng i thân của
trẻ. Kế hoạch trị liệu bao gồm một sự đánh giá về đứa trẻ để xác định đâu là “vấn đề”, những chẩn đoán phân
biệt, những u điểm và nh ợc điểm, các triệu chứng chính, và xác định các giai đoạn của việc trị liệu.
Việc tham vấn hoặc trị liệu tâm lý cá nhân cần xem xét các yếu tố sau:
1. Nội tâm, tức là cách thức mà đứa trẻ suy nghĩ, cảm giác, cùng những quan tâm và sự tham gia của đứa trẻ
vào thế giới xung quanh;
2. Hành vi, tức là cách thức và thái độ của đứa trẻ trong việc đáp ứng với những tình huống nhất định, kể cả
những tình huống đã gây ra vấn đề cho trẻ lẫn tình huống kích thích các đáp ứng tích cực và sự thỏa mãn
nơi đứa trẻ;
3. Trí tuệ - nhận thức, những u điểm và nh ợc điểm của trí khơn của trẻ, mà nh đó trẻ có thể thích nghi đ ợc
với những nhu cầu của đ i sống hằng ngày;
4. Gia đình và cộng đồng, những nguồn lực hỗ trợ từ xã hội hoặc những nguy hiểm có thể gặp phải;
5. Tình trạng thể chất, tức những vấn đề sức khỏe có thể hạn chế hoặc tạo điều kiện tốt cho trị liệu tâm lý.
PH NG V N PHỤ HUYNH
Nhà trị liệu tâm lý cho trẻ em phải làm việc với đứa trẻ và gia đình của trẻ để xác định những vấn đề của trẻ là
gì, tại sao có, xảy ra cách nào và theo một trình tự ra sao. Qua phỏng vấn phụ huynh, mối quan hệ trị liệu sẽ
đ ợc thiết lập.
Phỏng vấn phụ huynh là gặp gỡ phụ huynh, có hoặc khơng có sự hiện diện của đứa trẻ, xem xét và đánh giá
những vấn dề mà phụ huynh nêu ra trong việc nuôi dạy trẻ, những diễn tiến tr ớc kia và tình hình hiện tại.
Phỏng vấn phụ huynh cũng xem xét những kết quả trắc nghiệm và đánh giá tr ớc đó (nếu có), đồng th i đánh
giá tình trạng của đứa trẻ, gia đình và cộng đồng nơi trẻ sống. Việc phỏng vấn cũng chuẩn bị cho phụ huynh tiếp
nhận những khuyến cáo trị liệu sau đó.
TR LI U BẰNG THU C
Nhà trị liệu th
ng phối hợp nhiều ph ơng pháp trị liệu khác nhau, do vậy có lúc việc trị liệu bằng thuốc cũng
đ ợc xem xét đến khi cần thiết (Do Bác sĩ tâm thần đảm trách). Thái độ của trẻ, ng i chăm sóc trẻ và giáo viên
của trẻ trong việc tiếp nhận trị liệu bằng thuốc có ảnh h ng đến đáp ứng của trẻ với điều trị, cả trị liệu tâm lý
và trị liệu bằng thuốc. Nhiều nhà trị liệu cho rằng việc dùng thuốc có tác dụng tích cực trên quá trình trị liệu, rút
ngắn th i gian trị liệu, và làm giảm khả năng bỏ trị. Chỉ định dùng thuốc là do thầy thuốc quyết định.
CÁC MÔ HÌNH TR LI U TÂM LÝ
TR EM
TR LI U PHÂN TÂM
Kỹ thuật phân tâm đ ợc xem là sự kết hợp giữa khoa học và nghệ thuật. Mỗi tr ng hợp phân tâm là một hiện
t ợng độc đáo, có một không hai. Tâm bệnh đ ợc hiểu là những xung đột h ớng vào thế giới nội tâm của trẻ.
Nền tảng cơ bản là lý thuyết của Freud. Tình trạng rối nhiễu tâm lý và hành vi của trẻ đ ợc xem là kết quả của
những t ơng tác giữa trẻ với môi tr ng sống dẫn đến sự mất cân bằng và biến đổi trong quá trình phát triển.
Đối với Melanie Klein, chơi trong tình huống phân tâm sẽ thể hiện biểu t ợng của những huyễn t ng hung tính
và huyễn t ng tính dục, đồng th i góp phần tạo nên tình trạng chuyển di giữa đứa trẻ và nhà phân tâm. Sự can
thiệp bằng ph ơng pháp phân tâm giúp tháo bỏ những hàng rào ngăn cản sự phát triển bình th ng của cái Tơi
của đứa trẻ.
Chỉ định chính của trị liệu phân tâm trẻ em là tình trạng nhiễu tâm cắm chốt (fixed neurosis) gây cản tr cho sự
phát triển của trẻ. Trẻ cần có một trí thơng minh nhất định, khả năng dung nạp với sự hụt hẫng và khả năng
kiểm soát các xung động. Phân tâm không đ ợc chỉ định những trẻ có các triệu chứng thối lùi (regressive
symptom) do rối nhiễu phát triển tạm th i. Trẻ chậm khôn cũng khơng có chỉ định.
Cha mẹ cần nhận biết đ ợc những nỗi khổ của trẻ, mong muốn trẻ đ ợc trị liệu thành công và hợp tác tốt với
nhà trị liệu trong việc nêu vấn đề và cung cấp thơng tin. Phụ huynh cũng phải có khả năng “nới lỏng” những gắn
bó với trẻ và đ ơng đầu với những thay đổi d ợc dự kiến.
Chống chỉ định đối với trị liệu phân tâm trẻ em tùy thuộc vào quan điểm của nhà trị liệu. Những ng i theo
tr ng phái Freud cho rằng trẻ khơng nói đ ợc và những trẻ có cha mẹ khơng hợp tác là những tr ng hợp khó
áp dụng trị liệu phân tâm. Các nhiễu tâm và loạn tâm giáp ranh (bordeline) cũng đ ợc xem là chống chỉ định.
Những tác giả khác lại xem những trẻ thiếu một cái Tôi mạnh mẽ để có thể biểu lộ các xung đột hoặc bộc lộ thế
giới nội tâm thơng qua l i nói hoặc trị chơi, những trẻ thiếu khả năng tự kiểm sốt và tự quan sát, là những đối
t ợng khó áp dụng trị liệu phân tâm.
Thực hi n
Kiến thức, kỹ năng, tình cảm của nhà phân tâm là những cơng cụ chính của trị liệu phân tâm. Mỗi giai đoạn phát
triển của đứa trẻ đ ợc tiếp cận theo những cách thức khác nhau.
Di n gi i
Việc diễn giải đ ợc xem là kỹ thuật cơ bản của phân tâm học trẻ em. Nhà phân tâm diễn giải những ý nghĩa của
l i nói, hành vi và trị chơi của đứa trẻ. Sự thấu cảm của nhà trị liệu cũng là một công cụ quan trọng. Đứa trẻ
đ ợc tạo điều kiện để phóng chiếu cái thế giới nội tâm của trẻ thơng qua trị chơi và những đồ chơi. Nhà trị liệu
chú trọng đến các vấn đề nội tâm của đứa trẻ và sẽ thực hiện những thay đổi cần thiết.
trẻ lớn, nhà trị liệu sẽ giúp trẻ dùng l i nói để diễn đạt, nh ng khơng dùng những diễn giải quá phức tạp đối
với trẻ. Công việc của nhà trị liệu là phải hiểu và sử dụng tình cảm, trị chơi, l i nói để thay thế cho kỹ thuật liên
t ng tự do dùng thiếu niên và ng i lớn.
Quan h gi a nhà tr li u và gia đình c a đ a tr
Sự cộng tác trị liệu phải đ ợc thiết lập giữa đứa trẻ, cha mẹ trẻ và nhà trị liệu. Mối quan hệ này giúp duy trì sự
thăng bằng giữa cảm giác thỏa mãn và hụt hẫng
quan sát chứ không phải ng i cùng chơi với trẻ.
đứa trẻ. Trong khi trẻ chơi, nhà trị liệu đóng vai trị ng
i
Kỹ thu t
Chơi trẻ em đóng vai trị nh liên t ng tự do trong trị liệu phân tâm ng i lớn. Trong phòng trị liệu, đứa trẻ
đ ợc tự do hoạt động, chơi và nói. Giấc mơ đ ợc xem là con đ ng trực tiếp nhất để đi đến cõi vô thức của trẻ.
Trẻ nhỏ th ng hành động nh thể giấc mơ là thật, và nhà trị liệu phải đáp ứng với trẻ theo cùng một mức độ
nh thế. Muốn diễn giải, nhà trị liệu cần phải dựa vào những t liệu từ l i nói và các biểu lộ tích cực từ đứa trẻ vì
trẻ khơng có khả năng liên t ng tự do.
Nhà trị liệu cần phải đối chất các t liệu đ ợc ghi nhận qua trò chơi, hành vi hoặc l i nói của trẻ. Điều này giúp
hiểu và diễn giải đ ợc các cơ chế phòng vệ của đứa trẻ. Bằng nhiều cách, nhà trị liệu
Nh ng nguyên lý c b n c a tr li u theo h
ng tâm đ ng h c
Quan sát đứa trẻ và nghiên cứu môi tr ng xã hội của đứa trẻ có vai trị quan trọng trong trị liệu phân tâm trẻ
em, nhằm giúp trẻ đạt đ ợc sự thăng bằng giữa đ i sống nội tâm và môi tr ng sống.
Ph ong pháp cổ điển nhắm vào những quá trình nội tâm hơn là những tác nhân gây stress từ môi tr ng hoặc từ
những mối quan hệ giữa trẻ với ng i khác. Nhiều tác giả khác lại tin rằng gia đình là một yếu tố quan trọng góp
phần vào q trình tâm bệnh của trẻ và sự cộng tác của gia đình là yếu tố bắt buộc cần thiết cho thành công của
trị liệu. Mục đích của trị liệu phân tâm nhắm vào việc đánh giá lại các thái độ hơn là thay đổi các cấu trúc gia
đình. Cho trẻ chơi và nói chuyện sẽ cung cấp t liệu cho nhà trị liệu thực hiện sự diễn giải, với trọng tâm là “tháo
gỡ” những xung đột nội tâm thơng qua chơi và nói chuyện.
Có bốn nguyên lý cơ bản của trị liệu theo h ớng tâm động học:
1. Chức năng tâm trí vơ thức là khái niệm trung tâm;
2. Hành vi là biểu hiện của các xung đột nội tâm;
3. Những triệu chứng có một ý nghĩa đối với đứa trẻ;
4. Sự chuyển di giúp hiểu đ ợc quan hệ giữa trẻ và nhà trị liệu, dựa vào những kinh nghiệm tr ớc đó của trẻ với
cha mẹ và những ng i khác.
Các triệu chứng bệnh đ ợc xem là biểu t ợng của những nhu cầu và ớc muốn nội tâm.
Yêu c u c a vi c tr li u
Mơ hình trị liệu này đòi hỏi những buổi trị liệu th ng xuyên trong nhiều năm, tập trung nhắm vào những gì xảy
ra trong các buổi trị liệu; với khoảng 2 buổi trị liệu mỗi tuần. Sự bố trí th i gian nh thế cho phép đứa trẻ hiểu
đ ợc mối quan hệ giữa những cảm xúc với những sự kiện xảy ra trong đ i sống của trẻ.
Trọng tâm trị liệu nhắm vào: (1) nội tâm của đứa trẻ, giúp phát triển sự nhận thức của trẻ, và (2) liên hệ giữa trẻ
với ng i khác, giúp thiết lập những quan hệ thân tình, khơng gây cho trẻ sự sợ hãi, xoa dịu và giải tỏa những
mâu thuẫn nội tâm.
Gia đình có vai trị rất quan trọng trong sự hình thành những cảm xúc, xung đột và những huyễn t ng của đứa
trẻ. Xác định vai trò này là một trong những việc quan trọng của nhà trị liệu. Và trị liệu cho trẻ cần kèm theo trị
liệu cho cả gia đình của trẻ.
Nhà trị liệu cần giúp trẻ giải tỏa những dồn nén, làm tăng sự tự trọng (self-esteem) của trẻ, diễn giải những động
cơ vô thức của trẻ vào đúng lúc mà trẻ có thể chấp nhận đ ợc một sự bộc lộ hiển nhiên nh thế.
Việc kết thúc trị liệu phải đ ợc hoạch định tr ớc. Trị liệu chỉ chấm dứt khi nào gia đình và đứa trẻ hiểu đ ợc
những mối xung đột và cơ chế phịng vệ đã góp phần làm nên những vấn đề của trẻ, khi nhà trị liệu nhận thấy
trẻ và gia đình có thể tự họ giải quyết đ ợc vấn đề hoặc khi đứa trẻ cảm thấy mình có khả năng tự đ ơng đầu
đ ợc với những vấn đề của chính mình trong hiện
tại và trong t ơng lai. Trong thực tế, trị liệu th ng bị chấm dứt b i đứa trẻ hoặc gia đình khi vấn đề đ ợc giải
quyết, nh ng các kiểu hành vi thích nghi ch a đ ợc hình thành. Do vậy, việc chấm dứt trị liệu cũng cần phải
đ ợc thảo luận tr ớc với đứa trẻ và gia đình ngay từ lúc bắt đầu trị liệu.
LI U PHÁP QUAN H T
NG H
(SUPPORTIVE RELATIONSHIP PSYCHOTHERAPY)
L ch s
Liệu pháp quan hệ t ơng hỗ bắt nguồn từ tr ng phái trị liệu không h ớng dẫn (non-directive) của Roger. Đ ợc
áp dụng rộng rãi b i các nhà tham vấn học đ ng. Bản thân Roger cũng chịu ảnh h ng của Freud, Rank, và
Frederick Allen.
N n t ng c a li u pháp
Liệu pháp là dựa trên lý thuyết cơ bản về tiềm năng tự hiện thực hóa (self-actualisation)
quả trị liệu phải nhằm đạt đ ợc khả năng tự hiện thực hóa và sự tự trọng nơi đứa trẻ.
tất cả mọi ng
i. Kết
Các nguyên tắc cơ bản:
1. Phát triển một mối quan hệ thân thiện và nồng ấm với đứa trẻ.
2. Chấp nhận hiện trạng của đứa trẻ nh nó đang thật sự biểu hiện.
3. Thiết lập một cảm giác lạc quan, cho phép trẻ tự do giải bày cảm xúc.
4. Nhận diện và đáp ứng lại với những cảm xúc của trẻ theo một cách thức sao cho đứa trẻ tự hiểu đ ợc ý nghĩa
của những hành vi của nó.
5. Trơng đợi trẻ một khả năng tự giải quyết vấn đề và có trách nhiệm trong việc lựa chọn quyết định cũng nh
thực hiện quyết định đó.
6. Tránh việc h ớng dẫn hành vi và l i nói của trẻ; nhà trị liệu cần phải “đi theo” sự h ớng dẫn của đứa trẻ.
7. Trị liệu là một q trình từ từ, khơng có gì phải vội vã.
8. Đặt ra một ít giới hạn cần thiết cho việc trị liệu và giúp trẻ có trách nhiệm trong trị liệu.
Liệu pháp kinh nghiệm (experiential psychotherapy) cho rằng nhận thức đi theo sau cảm xúc, và những thay đổi
về cảm xúc sẽ dẫn đến sự thay đổi trong ý nghĩ. Khả năng nội thị (insight) đ ợc coi là kết quả của những thay
đổi trong trị liệu. Những thay đổi về hành vi và suy nghĩ sẽ theo sau sự thay đổi về cảm xúc.
Việc trị liệu phải trải qua các giai đoạn: thiết lập mối thân tình, biểu hiện những cảm xúc tr ớc đó, và sự phát
triển của trẻ phải t ơng đồng với mức độ tăng tr ng thể chất (vd. trẻ diễn đạt cảm xúc qua l i nói tốt hơn).
Trọng tâm của trị liệu luôn là mối quan hệ giữa trẻ và nhà trị liệu nhằm tái cấu trúc nhân cách của đứa trẻ.
Nhiệm vụ thực hiện sự thay đổi là của đứa trẻ.
Ch đ nh
Liệu pháp quan hệ t ơng hỗ có thể áp dụng hầu hết trẻ em có vấn đề về cảm xúc và hành vi, kể cả những trẻ
nhỏ 2-4 tuổi. Để có kết quả, trẻ cần có đ ợc những kỹ năng cơ bản trong việc liên hệ và giao tiếp với ng i
khác. Khơng có chỉ định hoặc chống chỉ định đặc biệt nào đối với liệu pháp này.
Kỹ thu t
Điều cơ bản để đ a đứa trẻ vào trị liệu là giúp trẻ giải bày những cảm xúc và phát triển khả năng nội thị thông
qua sự tự diễn đạt ngay trong buổi trị liệu đầu tiên. Nhà trị liệu cố gắng tập trung vào những cảm xúc hơn là vào
những nội dung. Kỹ thuật phản hồi (reflection) nh đặt ra những câu hỏi cảm thông nh : “Cháu cảm thấy nh
thế phải không?” hoặc “Nghĩ nh thế này... đúng không?”. Nhà trị liệu phải giúp trẻ có trách nhiệm bằng cách
khơng đặt ra những hoạt động hoặc chủ đề cho cuộc thảo luận, cũng không tìm cách đánh giá, khuyên răn hoặc
diễn giải những hành vi và suy nghĩ của trẻ. Nhà trị liệu cần thể hiện sự cảm thông, am hiểu và chân thật. Th i
gian trị liệu th ng kéo dài 6-18 tháng.
Bản chất của vấn đề, tuổi của đứa trẻ và giai đoạn quan hệ giữa trẻ và nhà trị liệu là những yếu tố quan trọng
cần đ ợc xem xét. Vd. một đứa trẻ nhỏ đ ợc trị liệu trong một căn phịng có q ít đồ chơi và vật dụng sẽ tr
nên xao lãng với nhà trị liệu. Môi tr ng và vật liệu chơi phải đ ợc chọn lựa để tạo thuận lợi cho quan hệ trị liệu.
Chơi phải đ ợc xem là một hoạt động trị liệu.
Những buổi đầu tiên th ng đ ợc dành cho việc giải thích về mối quan hệ, những gì sẽ xảy ra trong quá trình trị
liệu và về những kỳ vọng khi kết thúc trị liệu. Ng i thân trong gia đình trẻ cũng cần đ ợc thông tin về những
điều này. Mức độ sẵn sàng tham gia vào công việc của trẻ phải đ ợc đánh giá. Trị liệu đ ợc kết thúc khi đã đạt
mục đích hoặc khi khơng thể đạt thêm sự tiến bộ nào khác.
LI U PHÁP HÀNH VI CÁ NHÂN (INDIVIDUAL BEHAVIOR THERAPY)
L ch s
Liệu pháp hành vi trẻ em bắt nguồn từ tâm lý học thực nghiệm, cho rằng hành vi trẻ em chịu ảnh h ng lớn
b i môi tr ng sống. Dựa trên những nguyên lý về học tập (learning) để giải thích bằng cách nào mà hành vi
trẻ em đ ợc củng cố (cả trẻ bình th ng và bất th ng).
Từ thập niên 1970, trị liệu hành vi đã đ ợc áp dụng rộng rãi
bế (autism), đái dầm, bỏ học, trầm cảm, rút lui khỏi xã hội...
N n t ng c a li u pháp
trẻ em, cả trong các rối loạn tâm thể, loạn tâm, tự
Các hành vi, cả bình th ng lẫn lệch lạc, của trẻ em đều đ ợc “học tập” thông qua q trình điều kiện hóa
(conditioning). Và các q trình học tập hay điều kiện hóa với cùng cơ chế nh vậy cũng có thể đ ợc dùng để
làm thay đổi hành vi của trẻ theo nh mong muốn.
Đi u ki n hóa c đi n (classical conditioning)
Điều kiện hóa cổ điển hoặc việc học tập theo kiểu đáp ứng (respondent learning) có liên quan đến đáp ứng của
cơ thể đối với một sự kiện từ môi tr ng, một kích thích từ bên ngồi. Điều cần thiết để làm xuất hiện các hành
vi (cả thích nghi lẫn khơng thích nghi) là có sự hiện diện của các tác nhân gây củng cố (reinforcer).
Đi u ki n hóa có tác đ ng (operant conditioning)
Trong tình trạng điều kiện hóa có tác động, hệ thần kinh tự động sẽ chọn lựa một trong số những hành vi có thể
đáp ứng với một kích thích tr ớc đó từ mơi tr ng. Một hành vi khơng mong muốn có thể làm giảm hoặc mất đi
bằng cách loại trừ (extinction) và điều kiện hóa ng ợc (counterconditioning). Những hành vi mong muốn sẽ đ ợc
gia tăng nh sự khen th ng (reward) hoặc củng cố tích cực (positive reinforcement). Hành vi có đ ợc là kết quả
của một hoạt động có trình tự. Tâm bệnh đ ợc xem là kết quả của sự củng cố không đúng đắn và không đầy đủ
khiến dẫn đến những hành vi đáp ứng khơng thích nghi. Các đáp ứng lệch lạc này, đến l ợt chúng, lại ngăn tr
việc “tiếp thu” những hành vi bình th ng và thích nghi. Nói chung, các nhà trị liệu hành vi ít chú ý đến nguyên
nhân của các hành vi lệch lạc, mà tập trung vào việc thay đổi các hành vi đó. Nhà trị liệu lập một danh sách các
hành vi, đánh giá ý nghĩa các hành vi nơi một đứa trẻ, rồi xác định các hành vi “trọng điểm” để có h ớng tác
động trị liệu. Việc đánh giá các hành vi tập trung xác định các yếu tố có ảnh h ng đến hành vi của trẻ và tạo
điều kiện cho sự thay đổi các hành vi lệch lạc.
Werry và Wollersheim định ra 7 giai đoạn của trị liệu hành vi nh sau;
1. Xác định vấn đề.
2. Phân tích vấn đề.
3. Vạch ra kế hoạch trị liệu.
4. Khuyến khích bệnh nhân vào trị liệu.
5. Định hình hành vi.
6. Khái qt hóa hành vi (Generalization of behavior).
7. Cố định hành vi.
Ch đ nh
Các nhà trị liệu hành vi áp dụng một mơ hình “định h ớng triệu chứng” (symptom-oriented). Hầu hết các rối loạn
tâm thần có triệu chứng phức tạp đều đáp ứng với trị liệu sửa đổi hành vi, mục đích là làm giảm triệu chứng, chứ
không nhằm vào khả năng nội thị. Nhiều tác giả theo khynh h ớng tâm động học cũng cho rằng trị liệu hành vi
nên đ ợc xem xét khi đứa trẻ không thể áp dụng đ ợc liệu pháp nội thị sử dụng l i nói. Các rối nhiễu trong ăn
uống trẻ nhũ nhi,