Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

LỄ HỘI CỔ TRUYỀN Ở PHỐ HIẾN HƯNG YÊN LUẠN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌ LICH SỬ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.28 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Một là, sự bùng nổ của thông tin, khoa học kĩ thuật và công nghệ, lượng kiến
thức cập nhật ngày càng nhiều bên cạnh đó không thể nhồi nhét tất cả tri thức đó
cho học sinh mà phải dạy học sinh phương pháp học ngay từ các cấp học phổ thông.
Hai là, trong các phương pháp dạy học thì tốt nhất là dạy phương pháp tự
học. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, tự học thì sẽ nâng
cao kết quả học tập. Ở trường phổ thông, học sinh không chỉ tự học ở nhà sau bài
lên lớp mà tự học ngay cả trong tiết học trên lớp có sự hướng dẫn của giáo viên.
Ba là, nghị quyết hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung Ương Đảng Cộng
Sản Việt Nam (Khoá VII, năm 1993) đã chỉ rõ: Về phương pháp giáo dục phải
khuyến khích tự học, phải áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi
dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề.
Nghị quyết hội nghị lần thứ II Ban chấp hành Trung Ương Đảng Cộng Sản
Việt Nam (Khoá VIII, năm 1997) khẳng định “phải đổi mới phương pháp đào tạo,
khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người
học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá
trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh”.
Bốn là, việc ứng dụng của Công nghệ thông tin-Truyền thông đặc biệt là
Internet – Website học tập phát triển rất mạnh góp phần rèn luyện khả năng tự học
cho người học, dẫn đến những thay đổi trong cả nội dung và phương pháp dạy và
học. Đây thực sự đã trở thành cầu nối giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh và
học sinh, các tài liệu tham khảo, các bài tập tham khảo, các đề thi, các hình thức
luyện thi đại học được đưa lên mạng để giáo viên và học sinh có thể tham khảo,
nghiên cứu ở mọi lúc, mọi nơi.
Tuy vậy các Website dành cho học sinh học tập trong đó có hoạt động ôn tập
củng cố kết hợp với tự kiểm tra đánh giá được xây dựng trên cơ sở lí luận dạy học
vật lí hiện đại vẫn còn chưa được nghiên cứu nhiều. Đến nay mới có Website về ôn
tập củng cố và kiểm tra đánh giá dựa trên cơ sở lí luận dạy học hiện đại về các nội
1
dung sau: Chương “ Động lực học” Vật lí 10 nâng cao; Chương “Dòng điện xoay


chiều” Vật lí lớp 12 chương trình chuẩn; Chương "Dao động cơ" -Vật lí 12 nâng
cao; Chương “Sóng cơ và sóng âm”, chương trình Vật lí 12 cơ bản; Chương “Điện
tích. Điện trường” trong chương trình Vật lí lớp 11 ban cơ bản; Chương “Các định
luật bảo toàn” trong chương trình Vật lí 10 cơ bản; Chương “Mắt và các dụng cụ
quang học" -Vật lí 11 nâng cao; Chương “Dòng điện không đổi” chương trình Vật
lí 11 ban cơ bản; Chương “Động học chất điểm” sách giáo khoa Vật lí 10 nâng
cao; Chương “Dòng điện không đổi” - Vật lí 11 nâng cao; Chương “Hạt nhân
nguyên tử”; Chương “Dòng điện xoay chiều” Vật lí lớp 12 theo chương trình nâng
cao;
Đối với nội dung về phần “ Tổng hợp kiến thức lí thuyết và bài tập thuộc
chương “Lượng tử ánh sáng” trong SGK lớp 12 theo chương trình nâng cao” vẫn
chưa có website nào được nghiên cứu xây dựng theo các lí luận dạy học hiện đại.
Hơn nữa, qua điều tra thực tiễn cho thấy, trong và sau khi học xong phần “Lượng
tử ánh sáng ” học sinh còn gặp nhiều khó khăn, mắc rất nhiều sai lầm.
Chính vì vậy việc thiết kế các trang Web về nội dung này giúp việc tự ôn tập
củng cố và kiểm tra đánh giá sau khi học xong ở trên lớp phần nội dung này theo
quan điểm của lí luận dạy học hiện đại là hết sức cần thiết.
Với những lí do trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài: Thiết kế trang web hỗ trợ
học sinh tự ôn tập củng cố và kiểm tra, đánh giá kiến thức chương “Lượng tử
ánh sáng” – Vật lí 12 nâng cao.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu vận dụng lí luận dạy học vật lí về hoạt động ôn tập củng cố,
kiểm tra đánh giá và công nghệ xây dựng trang Web tự học nhằm thiết kế trang
Web hỗ trợ học sinh tự ôn tập củng cố và kiểm tra, đánh giá kiến thức chương
“Lượng tử ánh sáng” – Vật lí 12 nâng cao.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1 Khách thể nghiên cứu: Hoạt động tự ôn tập củng cố và kiểm tra, đánh giá của
học sinh với sự hỗ trợ của trang Web.
2
3.2. Đối tượng nghiên cứu:

- Hệ thống các kiến thức, kĩ năng học sinh cần nắm vững khi học xong phần
chương “Lượng tử ánh sáng” – Vật lí 12 nâng cao.
- Hoạt động tự ôn tập củng cố và kiểm tra, đánh giá của học sinh đối với
phần “Lượng tử ánh sáng”.
- Các chức năng của trang Web hỗ trợ học sinh tự ôn tập củng cố, kiểm tra
đánh giá kiến thức, kĩ năng phần “Lượng tử ánh sáng”.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu vận dụng lí luận dạy học vật lí hiện đại về ôn tập củng cố, xác định các
sai lầm phổ biến về kiến thức và những thiếu hụt về kĩ năng cần thiết đối với học
sinh và ứng dụng công nghệ thiết kế Web thì có thể thiết kế được trang Web hỗ trợ
học sinh tự ôn tập củng cố và kiểm tra, đánh giá phần “Lượng tử ánh sáng” góp
phần rèn cho học sinh kĩ năng tự học, kích thích hứng thú học tập và nâng cao hiệu
quả tự ôn tập củng cố của học sinh.
5. Phạm vi nghiên cứu
Xây dựng trang Web hỗ trợ hoạt động ôn tập củng cố và kiểm tra đánh giá
chương “Lượng tử ánh sáng” Vật lí 12 nâng cao nhằm rèn luyện kĩ năng tự học,
nâng cao hứng thú và hiệu quả việc tự ôn tập củng cố cho học sinh.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của việc tự ôn tập củng cố:
- Nghiên cứu chương “Lượng tử ánh sáng” – Vật lí 12 nâng cao.
- Điều tra xác định các khó khăn, sai lầm của học sinh khi học chương
“Lượng tử ánh sáng” – Vật lí 12 nâng cao.
- Nghiên cứu việc thiết kế trang Web hỗ trợ việc tự ôn tập củng cố.
- Thực nghiệm sư phạm đánh giá tính khả thi và hiệu quả trang Web xây
dựng được.
7. Phương pháp nghiên cứu
a) Phương pháp nghiên cứu lí luận:
3
- Nghiên cứu văn kiện của Đảng, chỉ thị của Bộ Giáo dục - Đào tạo
- Nghiên cứu các tài liệu về phương pháp giảng dạy vật lí và giáo dục học

- Nghiên cứu cở sở lí luận của việc ôn tập củng cố trong dạy học hiện đại;
cơ sở lí luận của việc rèn luyện kĩ năng tự học và tự nghiên cứu đối với học sinh
phổ thông; cơ sở lí luận của hoạt động kiểm tra đánh giá và tự kiểm tra đánh giá
trong dạy học phổ thông.
- Nghiên cứu tài liệu về thiết kế xây dựng website.
b) Phương pháp điều tra, quan sát thực tiễn:
- Nghiên cứu thực tiễn hoạt động ôn tập củng cố và kiểm tra đánh giá của giáo
viên và học sinh trong các trường phổ thông. Tiến hành khảo sát bằng phương pháp
Ăngket (điều tra), phương pháp nghiên cứu sản phẩm (bài kiểm tra của học sinh),
phương pháp phỏng vấn và đàm thoại với học sinh và giáo viên ở các trường THPT.
- Trao đổi với giáo viên về việc sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học
vật lí ở trường THPT
- Nghiên cứu một số website dạy học trên internet
c) Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Thực nghiệm đối chứng giữa hai quá trình
ôn tập phần “Lượng tử ánh sáng” của hai nhóm học sinh, một nhóm có sử dụng
trang Web ôn tập và nhóm còn lại sử dụng phương pháp ôn tập truyền thống.
d) Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng phương pháp thống kê toán học để
phân tích, đánh giá kết quả thực nghiệm sư phạm.
8. Những đóng góp mới của luận văn
- Trình bày hệ thống cơ sở lí luận của việc ôn tập củng cố theo quan điểm
của lí luận dạy học hiện đại.
- Thiết kế trang Web dưới sự vận dụng của các lí luận trên và sự hỗ trợ của
công nghệ thông tin giúp học sinh rèn luyện kĩ năng tự ôn tập củng cố, phát huy
hứng thú và nâng cao chất lượng ôn tập củng cố phần “Lượng tử ánh sáng” .
9. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn
4
Về mặt lí luận, luận văn góp phần lựa chọn và hệ thống hoá các lí luận về
việc ôn tập củng cố theo quan điểm của lí luận dạy học hiện đại cũng như vận dụng
lí luận này và công nghệ thông tin trong việc xây dựng trang Web về nội dung ôn
tập củng cố.

Trang Web xây dựng là tài liệu tham khảo tốt về cho học sinh tự ôn tập củng
cố phần “Lượng tử ánh sáng”, nhằm rèn luyện kĩ năng tự ôn tập củng cố, nâng cao
hiệu quả ôn tập củng cố.
Trang Web là một phương tiện giúp giáo viên có thể kiểm tra đánh giá kiến
thức đạt được của học sinh trong phần “Lượng tử ánh sáng”.
10. Cấu trúc của luận văn
Luận văn có cấu trúc như sau:
- Phần mở đầu
- Phần nội dung
Chương I. Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc OTCC, kiểm tra và đánh giá
của HS trong các trường THPT.
Chương II. Xây dựng trang Web hỗ trợ HS tự OTCC, kiểm tra và đánh giá
phần “Lượng tử ánh sáng”- Chương trình Vật lí lớp 12 nâng cao.
Chương III. Thực nghiệm sư phạm.
- Phần kết luận
5
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC ÔN TẬP CỦNG CỐ VÀ
KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ TRONG CÁC TRƯỜNG THPT
1.1. Cơ sở lí luận của hoạt động ôn tập củng cố
1.1.1. Ôn tập củng cố và mục đích của ôn tập củng cố
Theo từ điển Tiếng Việt (2001) của Viện khoa học Việt Nam, ôn tập có hai
nghĩa, nghĩa thứ nhất: ôn tập là học để nhớ, để nắm chắc; nghĩa thứ hai: ôn tập là hệ
thống hóa lại kiến thức đã dạy để học sinh nắm chắc chương trình; củng cố có hai
nghĩa, nghĩa thứ nhất: củng cố là làm cho trở nên bền vững, chắc chắn hơn lên,
nghĩa thứ hai: củng cố là nhớ lại để nắm vững và nhớ cho kĩ hơn.[35]
Như vậy, OTCC theo từ điển Tiếng Việt có thể được hiểu là quá trình học lại
và luyện lại những điều đã học để nhớ, để cho kiến thức trở nên bền vững, chắc
chắn hơn.
Theo các nhà tâm lí học [17]; [30]: Ôn tập không chỉ để nhớ lại mà còn là sự

cấu trúc lại các thông tin đã lĩnh hội, sắp xếp các thông tin đó theo một cấu trúc mới
kết hợp với những mẫu kiến thức cũ để tạo ra sự hiểu biết mới. Khi cần có thể tái
hiện lại những thông tin và sử dụng những thông tin đó có hiệu quả cho nhiều hoạt
động khác nhau. Sự lưu giữ thông tin được bắt đầu từ quá trình ghi nhớ, quá trình
ghi nhớ có liên quan đến những thông tin được chuyển từ trí nhớ ngắn sang trí nhớ
dài. Thông tin được lưu giữ trong trí nhớ ngắn chỉ chừng vài giây trong thời gian
người học làm viêc, tiến hành thao tác trên các thông tin đó, còn trí nhớ dài lưu giữ
thông tin trong suốt cả cuộc đời. Trí nhớ ngắn lưu giữ những gì ta đang suy nghĩ
vào lúc đó, cùng với những thông tin chuyển từ các giác quan như tai, mắt của con
người. Sau khi lưu giữ và xử lí những thông tin ấy trong vài giây, trí nhớ ngắn lập
tức quên hầu hết số thông tin ấy. Để lưu giữ thông tin thì những nội dung của trí
nhớ ngắn phải được chuyển sang trí nhớ dài. Nhưng muốn chuyển được sang được
trí nhớ dài thì các thông tin đó trước hết cần được xử lí , sắp xếp cấu trúc trong trí
nhớ ngắn sao cho nó có nghĩa đối với người học. Thực chất của hoạt động này là
thực hiện việc phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, hệ thống hóa để xác nhận và tổ
6
chức lại thông tin đã thu nhận trong một cấu trúc mới sao cho nó có nghĩa đối với
người học. Để tổ chức được thông tin, điều đầu tiên người học phải xác nhận lại
thông tin, bổ sung, chỉnh lí , chính xác hóa những thông tin đã lĩnh hội qua các thao
tác trí tuệ để tìm ra những vấn đề cơ bản , những kết luận mấu chốt, những vấn đề
chưa rõ, chưa hiểu , trao đổi với bạn bè, với thầy cô giáo để làm sáng tỏ những
thông tin đó. Tức là phải thông hiểu thông tin, phải trả lời được câu hỏi “tại sao như
vây?”. Trên cơ sở của sự thông hiểu thông tin, người học tiến hành các hoạt động
phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa, hệ thống hóa để tổ chức lại các
thông tin đã lĩnh hội đó trong một cấu trúc mới. Sau khi trí nhớ ngắn đã “làm nên ý
nghĩa” cho thông tin đã được lĩnh hội thì nó được chuyển thành trí nhớ dài. Từ đây
cho thấy chất lượng của việc cấu trúc lại thông tin như thế nào để chuyển sang lưu
trữ tại vùng trí nhớ dài hoàn toàn phụ thuộc vào nội dung, phương pháp, hình thức
tổ chức ôn tập của GV và vào chính cá nhân HS.
Trí nhớ dài giống như một tủ hồ sơ chứa những thông tin đã được lập thành

tệp để phục vụ cho việc khai thác trong tương lai. Tuy nhiên trí nhớ dài có khuynh
hướng chỉ coi một dữ liệu hoặc một ý tưởng nào đó là “hữu ích” một cách lâu dài
nếu nó thường gặp phải những dữ liệu hoặc những ý tưởng đó. Do vậy, với những
thông tin cần được lưu giữ trong trí nhớ dài thì chúng cần phải được sử dụng và gợi
nhớ lại một cách thường xuyên. Điều đó có nghĩa là khi thông tin đã được chuyển
từ trí nhớ ngắn sang trí nhớ dài, nếu không có sự sử dụng thường xuyên thì những
thông tin đó sẽ bị lãng quên. Vì vậy để lưu giữ thông tin lâu dài, GV cần phải tổ
chức cho HS sử dụng những thông tin đã được lĩnh hội một cách thường xuyên
bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó cách sử dụng tốt nhất là vận dụng những
thông tin ấy vào việc giải quyết các nhiệm vụ nhận thức và thực hành.
Theo các nhà giáo dục học (Nguyễn Ngọc Bảo; Hà thị Đức; Nguyễn Bá
Kim;…): Ôn tập là giúp học sinh củng cố tri thức, kĩ năng, kĩ xảo; tạo khả năng cho
giáo viên sửa chữa những sai lầm lệch lạc trong nhận thức của học sinh, rèn luyện
kĩ năng, kĩ xảo, phát huy tính tích cực độc lập tư duy cũng như phát triển năng lực
nhận thức, chú ý cho học sinh. Ôn tập còn giúp học sinh mở rộng đào sâu, khái quát
7
hóa, hệ thống hóa những tri thức đã học, làm vững chắc những kĩ năng, kĩ xảo đã
được hình thành.[30]
Ôn tập còn là quá trình giúp học sinh xác nhận lại thông tin đã lĩnh hội, tổ
chức lại thông tin đó nếu thấy có chỗ chưa hợp lí hay có chỗ chưa tối ưu, góp phần
củng cố và khắc họa thông tin để có thể sử dụng thông tin có hiệu quả trong các
hoạt động ở nhiều mức độ khác nhau.
Từ những quan niệm của các tác giả trên, chúng tôi cho rằng OTCC là quá
trình người học xác nhận lại thông tin đã lĩnh hội, bổ sung, chỉnh lí thông tin và tổ
chức lại thông tin theo một cấu trúc khoa học hơn giúp cho người học vận dụng
thông tin đã lĩnh hội một cách nhanh chóng, dễ dàng và hiệu quả. Thông qua OTCC
tri thức của người học được hệ thống hoá, đào sâu và mở rộng, trên cơ sở đó mà
từng bước rèn luyện được các kĩ năng, kĩ xảo, phát triển trí nhớ cũng như tư duy
của người học.
1.1.2. Vai trò và vị trí của ôn tập củng cố trong quá trình nhận thức

OTCC được tổ chức tốt chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong quá trình
dạy học ở bất cứ môn học nào trong nhà trường. Nó là biện pháp cần thiết mà GV
phải sử dụng trong việc dạy học của mình và để giúp người học trong quá trình
hoàn thiện tri thức và rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo. Nhờ ôn tập được tổ chức tốt mà
những kiến thức đã được học không chỉ được ghi lại trong trí nhớ mà còn được cấu
trúc lại, khắc sâu một cách khoa học hơn, cái thứ yếu sẽ được loại bỏ ra ngoài và cái
chủ yếu được gắn lại với nhau và có một chất lượng mới. Kiến thức giữ lại trong trí
nhớ nếu thiếu ôn tập, và nói chung nếu thiếu bất kỳ sự vận dụng nào thì sẽ bị “teo
lại” giống như các cơ trong cơ thể nếu thiếu sự luyện tập.
Ôn tập cần thiết cho việc củng cố tri thức, hiểu rõ tri thức và hoàn thiện tri
thức và sau đó là để làm mới lại chúng trong trí nhớ lúc này hoặc lúc khác. Ôn tập
còn có một ý nghĩa lớn hơn trong việc rèn luyện kĩ năng đặc biệt là kĩ năng vận
dụng kiến thức vào trong các tình huống cụ thể khi ôn tập vật lí. Không có gì tai hại
hơn là khi tiếp thu một kiến thức rời rạc và thiếu ổn định, người thầy nếu cung cấp
một lượng kiến thức rời rạc và không ổn định như vậy cho học sinh sẽ gây khó khăn
8
cho việc tri giác kiến thức mới và củng cố kiến thức cũ. Những kiến thức cũ cần
được củng cố, điều chỉnh là để “giải phóng bộ óc” giúp cho việc lĩnh hội kiến thức
mới dễ dàng và nhanh chóng, bởi vì chỉ có thể cố định kiến thức cũ thì mới dùng nó
làm chỗ dựa cho kiến thức mới được.
Thông qua việc OTCC giúp học sinh hệ thống hoá kiến thức, có một “bức
tranh” tổng thể, hệ thống về những kiến thức, luyện tập và phát triển các kĩ năng đã
được học, giúp học sinh đào sâu, mở rộng, khắc sâu các kiến thức, sửa và tránh
được các quan niệm sai lầm thường mắc phải trong và sau khi học lần đầu.
1.1.3. Nội dung cần ôn tập củng cố trong dạy học vật lí
Ôn tập là một khâu trong các hình thức tổ chức dạy học ở trường phổ thông,
vì thế ôn tập không tự đề ra nội dung, chương trình riêng cho nó mà trên cơ sở nội
dung chương trình của môn học qui định cho từng khóa học mà lựa chọn những vấn
đề cơ bản cần ôn tập và sắp xếp có hệ thống những vấn đề đó. Ôn tập cũng không tự
đề ra phương pháp riêng cho mình mà dựa trên phương pháp dạy học của bộ môn

với nội dung cần ôn tập để lựa chọn phương pháp thích hợp nhất trong khoảng thời
gian cho phép được quy định của chương trình. [32]
Đối với môn vật lí cái tạo thành nội dung chính của môn học là những kiến
thức vật lí cơ bản. Thông qua việc hình thành những kiến thức cơ bản đó mà thực
hiện các nhiệm vụ khác của dạy học vật lí , trước hết là phát triển năng lực nhận
thức, năng lực sáng tạo, hình thành thế giới quan khoa học. Trong quá trình dạy học
vật lí cần chú ý đến những tác động sư phạm khác nhằm điều hành quá trình dạy
học từ đầu đến cuối, thí dụ như: gợi động cơ, gợi hứng thú, củng cố, ôn tập, điều
chỉnh, kiểm tra, đánh giá. Trong học tập vật lí một mặt HS phải quan sát thực tế để
cảm nhận được sự tồn tại của thực tế khách quan và những đặc tính bên ngoài của
nó nhờ các giác quan, mặt khác HS phải thực hiện các phép suy luận, biến đổi trong
óc để rút ra được các đặc tính bản chất và những mối quan hệ phổ biến khách quan,
nhờ thế mà rút ra chân lí mới. Trình tự hợp lí của những hoạt động vật chất và tinh
thần đảm bảo cho kết luận cuối cùng rút ra phản ánh đúng thực tế khách quan gọi là
phương pháp nhận thức vật lí . Các phương pháp nhận thức vật lí đều do các nhà
9
bác học đúc kết được thông qua hoạt động thực tiễn, đã được thực tiễn khẳng định.
Muốn cho HS làm quen dần với phương pháp đi tìm chân lí mới trong quá trình
học tập, nhất thiết phải dạy cho họ các phương pháp nhận thức phổ biến. Tuy nhiên,
việc vận dụng các phương pháp đó để nghiên cứu một hiện tượng, một tính chất,
một định luật vật lí là một việc không dễ dàng. Chính vì thế, trong nhà trường, cần
cố gắng làm cho HS biết được người ta thực hiện những hành động nào, trải qua
những giai đoạn nào trên con đường đi tìm chân lí ; đồng thời tuỳ theo trình độ của
HS và các điều kiện cụ thể của nhà trường mà tổ chức cho HS tham gia trực tiếp
một số giai đoạn của các phương pháp nhận thức đó.
Những kiến thức vật lí cơ bản cần hình thành trong quá trình học kiến thức
mới cũng như trong quá trình OTCC trong chương trình vật lí ở trường phổ thông
gồm các loại sau:
- Những khái niệm vật lí , đặc biệt là những khái niệm về đại lượng vật lí .
- Những định luật vật lí.

- Những thuyết vật lí.
- Những ứng dụng của vật lí trong kĩ thuật.
- Những phương pháp nhận thức vật lí.
Bên cạnh những kiến thức vật lí cơ bản cần hình thành ở trên thì học sinh cần
phải có một số kĩ năng sau để nâng cao hiệu quả của việc tự OTCC:
- Kĩ năng thu thập thông tin: Thông qua việc tự làm thí nghiệm hoặc việc
quan sát các hiện tượng trong tự nhiên, các mô hình, biểu bảng hay đọc tài liệu sách
giáo khoa… học sinh thu thập những thông tin cần thiết cho việc giải quyết vấn đề
học tập của mình. Để thu thập được đúng và đủ các thông tin cần thiết, học sinh cần
bám sát mục tiêu hoạt động học tập. Mục tiêu này do học sinh tự xác định dưới sự
hướng dẫn của giáo viên, trong một vài trường hợp có thể giáo viên nêu mục tiêu.
- Kĩ năng xử lí thông tin: Đây là kĩ năng đòi hỏi tư duy cao. Học sinh cần
được hướng dẫn lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch xử lí các thông tin thu thập
10
được để rút ra các kết luận cần thiết. Hoạt động này thường được tiến hành bởi các
hình thức:
+ Thiết kế một phương án thí nghiệm để kiểm tra dự đoán.
+ Sử dụng biểu bảng, đồ thị, công thức toán để xử lí các số liệu thu được từ
thí nghiệm.
+ Tiến hành các thao tác tư duy: phân tích, tổng hợp, so sánh, qui nạp, suy
diễn… các thông tin thu được để rút ra các kết luận [7].
- Kĩ năng truyền đạt thông tin: Khi tham gia vào ôn tập dưới sự hỗ trợ của
Website, mỗi học sinh sẽ thông báo những thông tin, kết quả xử lí thông tin của cá
nhân hay của nhóm, báo cáo kết quả hoạt động của nhóm, nhận xét đánh giá ý kiến
của cá nhân…Hoạt động này không những góp phần phát triển ngôn ngữ ở học sinh
mà con giúp các em rèn luyện các phẩm chất cần thiết để hoà nhập với cuộc sống
cộng đồng.
1.1.4. Các hình thức ôn tập củng cố chủ yếu
Hoạt động học tập ôn tập của học sinh chủ yếu thông qua hoạt động học tập
trên lớp và cả hoạt động tự học ở nhà của học sinh. Ôn tập của học sinh ở nhà chính

là tạo điều kiện để học tập trên lớp theo giờ giảng đạt hiệu quả hơn. OTCC có thể
thực hiện dưới nhiều hình thức nhưng chủ yếu là hai hình thức: OTCC ngay trong
giờ học chính khóa trên lớp và OTCC ngoài giờ học chính khóa.
1.1.4.1. OTCC ngay trong giờ học chính khóa
- Ôn tập ngay trước và trong khi học sinh tìm hiểu, tiếp thu kiến thức mới
dựa trên cơ sở của những kiến thức đã học trước đó. Hình thức này thường được
tiến hành ngay trong mỗi bài học hằng ngày, thực hiện thông qua hệ thống các câu
hỏi được giáo viên chuẩn bị sẵn, đó là các câu hỏi kiểm tra bài cũ đầu giờ, hoặc
những câu hỏi đặt ra trong tiết học nhằm gợi lại kiến thức cũ mà nó là cơ sở để hình
thành kiến thức mới trong bài học.
- Ôn tập được thực hiện ngay sau khi học sinh vừa học bài mới, nhằm củng
cố những kiến thức học sinh vừa mới lĩnh hội, chốt lại những kiến thức cơ bản, cốt
lõi của bài học. Hình thức này có thể tiến hành bằng cách đưa ra các câu hỏi để học
11
sinh trả lời hoặc làm các bài tập có tính chất hệ thống hóa, tổng kết những kiến thức
cơ bản của bài học.
- Ôn tập sau khi kết thúc một chương hoặc một phần chương trình. Hình thức
ôn tập này thường được thực hiện trong một (hoặc một vài) tiết học riêng biệt. Mục
đích sư phạm của các tiết ôn tập như vậy là chỉnh lí lại, hệ thống lại, tìm ra mối liên
hệ logic giữa các kiến thức mà học sinh đã được lĩnh hội trong một phần của tài liệu
học; tạo cho học sinh có cái nhìn toàn diện về nội dung kiến thức trong phần đó.
- Ôn tập tổng kết được áp dụng khi chương trình kết thúc vào cuối kỳ, cuối
năm. Ôn tập tổng kết không phải đơn thuần khôi phục lại trong trí nhớ mọi tri thức
đã học. Mục đích của nó là nâng cao tri thức cho học sinh lên một trình độ mới cao
hơn. Trước hết là nó phải đảm bảo hệ thống hóa lại các tri thức đã học, điều đó đạt
được nhờ nội dung của vấn đề cần ôn tập.
1.1.4.2. OTCC ngoài giờ học chính khóa
Hình thức này diễn ra sau giờ học chính khóa và dưới sự hướng dẫn gián tiếp
của giáo viên thông qua hệ thống câu hỏi và bài tập mang tính định hướng trong các
giờ học tự chọn, bổ trợ kiến thức. Học sinh thực hiện việc ôn tập của mình bằng

cách đọc lại bài học hoặc tái hiện lại nội dung bài học như cấu trúc của các phần,
các mục, nội dung của các đề mục trong bài học. Sau đó trả lời các câu hỏi của giáo
viên hoặc câu hỏi trong sách giáo khoa, hoặc tự đặt ra câu hỏi để trả lời. Đồng thời
cần tìm đọc các tài liệu có liên quan để mở rộng và đào sâu những kiến thức đã học.
Trong quá trình ôn tập học sinh có thể trao đổi với bạn bè về kết quả ôn tập của
mình, sau đó ghi chép lại toàn bộ nội dung ôn tập bằng cách tóm tắt bài học, xây
dựng dàn ý, sơ đồ, bảng biểu; bằng cách xây dựng đáp án trả lời câu hỏi hay bằng
cách vận dụng kiến thức của bài học.
Theo quan điểm dạy học lấy học sinh làm trung tâm hiện nay, dạy học là dạy
học sinh biết tự học, tự chiếm lĩnh kiến thức cũng như tự OTCC kiến thức, dạy học
là dạy học sinh biết phối hợp hoạt động trong nhóm dưới sự hướng dẫn của giáo
viên. Vì vậy hoạt động tự OTCC cũng như hoạt động OTCC trong nhóm như thế
nào trong thời gian hiện nay và tương lai là hết sức quan trọng và cần chiếm tỉ lệ
12
cao. Hơn nữa, ngày nay CNTT phát triển, việc tổ chức cho học sinh tự OTCC và
OTCC trong nhóm thông qua việc xây dựng các Website, các Forum trên mạng
dưới sự điều khiển của thầy giáo thông qua việc xây dựng các chương trình ôn tập
phân nhánh, thông qua các bài trắc nghiệm có phản hồi, hướng dẫn, các thí nghiệm
ảo, thí nghiệm minh họa khảo sát chưa được sử dụng trong quá trình học kiến thức
mới là có thể làm được để nâng cao chất lượng OTCC.
1.1.5. Các phương pháp ôn tập củng cố ngoài giờ học chính khóa.
1.1.5.1. Đọc lại và hoàn thành những bài tập tự luận, trắc nghiệm ở nhà có tác
dụng giúp học sinh tự OTCC kiến thức
Đọc sách là một trong những dạng hoạt động nhận thức cơ bản của con
người, một loại hình tự học quan trọng và phổ biến.
Học sinh học tập ở nhà là sự tiếp tục một cách có lôgic hình thức trên lớp. Ở
đây, học sinh phải tự lực đọc lại và hoàn thành các bài tập (dưới dạng tự luận và
trắc nghiệm) do giáo viên đề ra sau các giờ lên lớp. Ngoài những bài tập về nhà
chung cho cả lớp, giáo viên có thể ra những bài tập riêng cho các học sinh kém và
giỏi. Như vậy, học tập ở nhà có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao chất

lượng của quá trình dạy học. Trước hết, nó có tác dụng OTCC, đào sâu, mở rộng,
khái quát hóa và hệ thống hóa tri thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo. Nó góp phần thúc
đẩy sự phát triển nhanh chóng ở học sinh năng lực tự học, năng lực độc lập công
tác. Nó còn cho phép thực hiện được sự cá biệt hóa việc dạy học, giúp lấp những lỗ
hổng trong trí thức của những học sinh kém và phát triển năng lực sáng tạo ở học
sinh giỏi. Vì học sinh tự thực hiện những nhiệm vụ học tập do giáo viên giao cho,
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ học sinh không có sự hướng dẫn của giáo viên;
giáo viên đánh giá kết quả của hoạt động tự học thông qua mức độ hoàn thành công
việc của học sinh; nội dung tự học cũng rất đa dạng, tuỳ thuộc nội dung chương
trình và đối tượng học sinh.
1.1.5.2. Hoạt động ngoại khóa góp phần tự OTCC kiến thức
13
Hoạt động ngoại khoá vật lí là một trong những hoạt động ngoài giờ lên lớp,
có tổ chức, có kế hoạch, có phương hướng xác định, được học sinh tiến hành theo
nguyên tắc tự nguyện ở ngoài giờ nội khoá dưới sự hướng dẫn của các giáo viên vật
lí nhằm gây hứng thú, phát triển tư duy, rèn luyện một số kĩ năng, bổ sung và mở
rộng kiến thức vật lí cho học sinh; nó có tác dụng lớn về mặt giáo dưỡng, giáo dục
và giáo dục kĩ thuật tổng hợp.
Hoạt động ngoại khoá vật lí có thể đem lại nhiều tác dụng to lớn mà một
trong những tác dụng đó là góp phần củng cố, đào sâu, mở rộng, hệ thống hoá kiến
thức vật lí đã học trên lớp; bổ sung những kiến thức về mặt lí thuyết hoặc khắc phục
những sai lầm mà học sinh thường mắc phải khi học nội khoá.
1.1.5.3. Tham gia xây dựng lôgic hình thành các kiến thức thông qua xây dựng các
sơ đồ-Graph về từng phần hay toàn bộ hệ thống kiến thức cần ôn tập
Graph trong lí thuyết graph bắt nguồn từ “graphic” có nghĩa là tạo ra một
hình ảnh rõ ràng, chi tiết sinh động trong tư duy. Phương pháp graph dạy học được
hiểu là phương pháp tổ chức rèn luyện tạo được những sơ đồ học tập ở trong tư duy
của học sinh. Trên cơ sở đó hình thành một phong cách tư duy khoa học mang tính
hệ thống. Những ứng dụng của lí thuyết graph:
+ Dùng graph để hệ thống hóa khái niệm trong một tổng thể, giúp mở rộng

những hiểu biết về đối tượng nghiên cứu.
+ Dùng graph cấu trúc hóa nội dung tài liệu giáo khoa: là tạo nên mối liên hệ
giữa các đơn vị kiến thức trong một hệ thống nhất định (trong một chương trình,
một chương hay một bài).
+ Dùng graph hướng dẫn học sinh tự học, hoàn thiện tri thức: giáo viên có
thể để cho học sinh tự thiết kế các graph hoặc hoàn thiện các graph do giáo viên gợi
ý. Hệ thống hóa kiến thức giúp học sinh có một bức tranh tổng thể, hệ thống về
những kiến thức được học trong một lĩnh vực nhất định. Sử dụng graph trong khâu
này có các mức độ sau:
- Mức độ thứ nhất: giáo viên đưa ra:
14
+ Các yếu tố có trong graph đã có chiều mũi tên nối các đỉnh nhưng nội dung
ở các đỉnh còn trống.
+ Các yếu tố có trong graph chưa có chiều mũi tên nối các đỉnh và các đỉnh
đã điền đủ (hoặc thiếu) các yếu tố nội dung.
+ Chưa có các cạnh rồi yêu cầu học sinh điền thông tin vào những chỗ trống
đó, tạo các liên kết giữa các đỉnh theo các chiều từ yếu tố cơ bản đến yếu tố dẫn
xuất v v.
- Mức độ thứ hai: học sinh tự xây dựng graph thể hiện các kiến thức đã học
theo một lôgic mà mỗi học sinh tự xác định, giáo viên chỉ nêu định hướng chung,
những yêu cầu cơ bản của bài ôn tập.
Sử dụng graph trong khâu hoàn thiện tri thức là sự kết hợp giữa khâu học ở
lớp với khâu tự học ở nhà dưới sự hướng dẫn của giáo viên.[10]
Tuy nhiên, các phương pháp OTCC như: đọc lại và hoàn thành những bài tập tự
luận, trắc nghiệm hay xây dựng lôgic hình thành các kiến thức thông qua xây dựng
các sơ đồ-Graph về từng phần hay toàn bộ hệ thống kiến thức cần ôn tập cũng có
thể được sử dụng trong giờ ôn tập chính khoá.
1.1.6. Phương tiện hỗ trợ hoạt động ôn tập củng cố
Phương tiện dạy học là các phương tiện sư phạm đối tượng - vật chất do giáo
viên hoặc (và) học sinh sử dụng dưới sự chỉ đạo của giáo viên trong quá trình dạy

học, tạo những điều kiện cần thiết nhằm đạt được mục đích dạy học. Phương tiện
dạy học có thể được sử dụng một cách đa dạng trong quá trình củng cố (ôn tập, đào
sâu, mở rộng, hệ thống hoá) kiến thức, kĩ năng của học sinh.
Hiện nay, các phương tiện được dùng trong OTCC thường là các phương tiện sau:
1.1.6.1. Sách (giáo khoa, bài tập,các tư liệu khác )
Sách là một công cụ để chứa đựng hệ thống tri thức. Sách là hình thức vật
chất, còn nội dung của nó là tri thức, mà cốt lõi của tri thức là hệ thống khái niệm.
Do đó, khi đọc sách con người dùng năng lực tư duy, năng lực ngôn ngữ và toàn bộ
kinh nghiệm xã hội vốn có của mình để tách khái niệm ra khỏi hệ thống từ ngữ mà
15
lĩnh hội chúng, đó là một con đường nhận thức, con đường tái tạo lại tri thức, một
phương thức lĩnh hội khái niệm. Khả năng lĩnh hội khái niệm qua con đường đọc
sách phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
1.1.6.2. Các tư liệu, bài tập, bài kiểm tra (trắc nghiệm và tự luận) trên mạng (dưới
dạng web )
Các mô hình mô phỏng các hiện tượng vật lí , các đoạn video chưa được sử
dụng khi nghiên cứu kiến thức mới có thể dùng trong giai đoạn vận dụng các kiến
thức đã học để xây dựng trang Web củng cố (ôn tập, đào sâu, mở rộng, hệ thống
hoá) kiến thức, kĩ năng của học sinh.
Các bài kiểm tra, bài trắc nghiệm được xem như phương tiện để kiểm tra
kiến thức, kĩ năng trong dạy học. Theo chúng tôi, việc soạn thảo công phu các câu
hỏi trắc nghiệm, các bài trắc nghiệm có phản hồi những sai lầm của học sinh và
hướng dẫn học sinh tự đọc tư liệu dựa trên công nghệ thiết kế Web hợp lí thì sẽ tạo
ra được một công cụ, phương tiện hữu hiệu để định hướng hoạt động chiếm lĩnh
kiến thức cần ôn tập, đánh giá mục tiêu và phương pháp dạy học, mà hiện nay chưa
có những bài trắc nghiệm trên mạng như vậy.
Ưu thế của Web thể hiện ở các tính năng tạo lập và quản lí nội dung ôn tập
như: Giao – nộp bài tập; trao đổi trực tuyến giữa giáo viên và học viên, giữa các bạn
học (chat), tạo lập các diễn đàn, Nhưng đặc biệt hơn cả “Quản lí học viên” là một
tính năng đặc biệt quan trọng của công nghệ thiết kế Web bao gồm: Kết nạp và theo

dõi thông tin học viên trong một khóa học, chia học viên thành các nhóm (lớp học,
khóa học), các đối tượng mong muốn (nhóm đối tượng có trình độ như nhau, nhóm
ghép học sinh khá và học sinh yếu để giúp đỡ nhau qua forum v v ) lên lịch các sự
kiện của site hoặc khóa học…, áp dụng tỉ lệ cho các hoạt động khác nhau cho học
viên, quản lí điểm, theo dõi lần truy cập của học viên và tải lên các file ở ngoài để
sử dụng cho khóa học… Giáo viên có thể phân quyền truy cập vào nội dung ôn tập
đối với từng nhóm đối tượng như: ôn tập cho mọi người, cho nhóm hay học sinh
khá, nhóm hay học sinh trung bình hoặc nhóm hay học sinh yếu, ôn tập dành cho
học viên, Với khả năng tính toán của máy tính, máy tính có thể dễ dàng và nhanh
16
chóng thực hiện kiểm tra trên Web đồng thời thực hiện chấm điểm trên Web theo
thang điểm đã đặt ra.
1.1.6.3. Phần mềm dạy học hỗ trợ OTCC
Phần mềm dạy học (PMDH) là phương tiện hỗ trợ chứa chương trình đã
được thiết lập sẵn để ra lệnh cho máy tính thực hiện các yêu cầu về nội dung và
phương pháp dạy học theo các mục tiêu đã định.
Khác với các phương tiện dạy học khác, PMDH là một dạng vật chất đặc biệt, là các
câu lệnh chứa thông tin, dữ liệu để hướng dẫn máy vi tính thực hiện các thao tác xử
lí theo một thuật toán xác định từ trước. Các PMDH được lưu trữ trong các thiết bị
nhớ ngoài của máy vi tính như trong các đĩa cứng, đĩa mềm, đĩa CD. PMDH rất gọn
nhẹ, rất dễ nhân bản với số lượng lớn, không cồng kềnh, dễ bảo quản, dễ vận
chuyển, dễ sử dụng, sinh động và hấp dẫn. Tuỳ thuộc vào từng môn học cụ thể mà
xây dựng các PMDH tương ứng để phục vụ cho dạy và học môn đó, do vậy có các
PMDH bộ môn. Tuỳ thuộc vào hình thức sử dụng và chức năng sư phạm mà phần
mềm đảm nhận có thể phân chia các PMDH thành các loại khác nhau.
Trong dạy học vật lí có thể phân chia các PMDH thành các nhóm sau:
- Phần mềm mô phỏng, minh họa: thường gọi là phần mềm mô phỏng.
- Phần mềm xử lí các số liệu thực nghiệm dùng hỗ trợ cho các thí nghiệm
vật lí : thường gọi là phần mềm hỗ trợ thí nghiệm vật lí .
- Phần mềm ôn tập, tổng kết, hệ thống hoá kiến thức của từng phần, từng

chương trong sách giáo khoa.
- Phần mềm kiểm tra, đánh giá kiến thức của học sinh.
Như vậy, bên cạnh rất nhiều chức năng thì PMDH cũng có chức năng hỗ trợ
học sinh tự OTCC và KTĐG kiến thức về một nội dung nào đó.
1.1.7. Mối quan hệ giữa ôn tập củng cố và kiểm tra đánh giá.
Theo GS. Phạm Hữu Tòng “Kiểm tra là sự theo dõi, tác động của người kiểm
tra đối với người học nhằm thu được những thông tin cần thiết để đánh giá”.
17
Chúng tôi cho rằng kiểm tra trong quá trình dạy học là nhằm theo dõi thu thập số
liệu, chứng cứ để đánh giá kết quả học tập, nhằm củng cố, mở rộng, tăng cường
việc học tập và phát triển của học sinh.
Đánh giá kết quả của một hoạt động là nhằm phát hiện và uốn nắn kịp thời
những sai sót, điều chỉnh có hiệu quả hoạt động đó, một cách tổng quát: Đánh giá
có nghĩa là xem xét mức độ phù hợp của một tập hợp các thông tin thu được với
một tập hợp các tiêu chí thích hợp của mục tiêu đã xác định nhằm đưa ra quyết định
theo một mục đích nào đó.
Chúng tôi cho rằng đánh giá kết quả học tập là một quá trình được tiến hành
có hệ thống, liên tục và thường xuyên để xác định mức độ các mục tiêu dạy học đạt
được của học sinh, làm cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo viên, của nhà
trường và cho bản thân học sinh để góp phần nâng cao hiệu quả học tập.
Như vậy, OTCC và KTĐG là hai công việc có nội dung khác nhau nhưng có
liên quan mật thiết với nhau, kiểm tra là phương tiện để đánh giá còn muốn đánh
giá thì phải tiến hành kiểm tra.
Ôn tập và kiểm tra liên hệ giữa chúng với nhau vô cùng khăng khít. Tổ chức
ôn tập để tuyệt đối hóa nó, không có yếu tố kiểm tra hoặc tổ chức kiểm tra để tuyệt
đối hóa nó, không có yếu tố ôn tập như thế không thể có được. Ở đây công việc có
thể tiến hành chỉ là trong trường hợp thứ nhất, những yếu tố ôn tập trội hơn yếu tố
kiểm tra, hoặc trong trường hợp thứ hai thì ngược lại. Thực tế việc giảng dạy và học
tập ở trường phổ thông cho ta thấy rõ điều này.
Ôn tập được tổ chức theo tiết học thông qua kiểm tra (vấn đáp, tự luận, trắc

nghiệm…) và việc đánh giá đúng trình độ nhận thức của học sinh qua kiểm tra giúp
giáo viên lựa chọn đúng nội dung và đối tượng cần ôn tập. Ôn tập tốt giúp người
học thể hiện tốt trình độ nhận thức của mình trong bài kiểm tra trên lớp.
Như vậy ôn tập được tiến hành trong mối quan hệ chặt chẽ với kiểm tra và
thông qua các hình thức tổ chức dạy học cơ bản. Việc tách riêng ôn tập và kiểm tra
là do mục đích, nhiệm vụ của mỗi công việc và chúng ta không thể tuyệt đối hóa
18
từng công việc được. Sự phân chia công việc như vậy trong tiết học chỉ mang tính
tương đối.
Có thể biểu diễn quan hệ đó qua sơ đồ sau:
1.2. Cơ sở thực tiễn của hoạt động ôn tập củng cố.
Để đánh giá khách quan thực trạng của hoạt động OTCC và kiểm tra đánh
giá của giáo viên và học sinh trong các trường phổ thông, chúng tôi tiến hành khảo
sát bằng phương pháp Ăngket (điều tra), phương pháp nghiên cứu sản phẩm (bài
kiểm tra của học sinh), phương pháp phỏng vấn và đàm thoại với học sinh và giáo
viên một số trường phổ thông. Đó là Trường THPT Bắc Kiến Xương Thái Bình;
THPT Bắc Thăng Long- Hà Nội;
Thời điểm khảo sát: học kỳ 1 của năm học 2011-2012.
Khách thể: Đối tượng khảo sát là học sinh lớp 11, 12 ban nâng cao với số lượng
202 học sinh của trường Bắc Kiến Xương, và 30 giáo viên của hai trường nói trên.
1.2.1. Đánh giá vai trò của OTCC từ phía GV và từ phía HS
1.2.1.1. Nhận thức của giáo viên về tầm quan trọng của việc hướng dẫn học sinh
OTCC
Để tìm hiểu nhận thức của giáo viên về tầm quan trọng của của việc hướng dẫn học
sinh ôn tập, chúng tôi đưa ra 9 yếu tố có ảnh hưởng tới kết quả học tập của học sinh
và yêu cầu họ đánh giá tầm quan trọng của các yếu tố đó theo mức độ từ 1 đến 9:
19
HS tự học ở nhà
(nên có phương tiện hỗ trợ)
9

Thời gian trên
lớp
(hoạt động nội
khóa)
9
Các hoạt động
ngoại khóa
9
Ôn
tập
Kiểm tra
trong đó 1 là yếu tố quan trọng nhất, 9 là ít quan trọng nhất. Kết quả khảo sát trên
30 giáo viên của các trường THPT cho kết quả như sau:
20
Giá
o
viên
nhiệ
t
tình


phư
ơng
phá
p
giản
g
dạy
phù

hợp
với
đối
tượn
g
học
sinh.
2,91
TT
Các yếu tố ĐTB Mức độ
21
1
Giáo viên thường xuyên quan tâm đến việc hướng
Giáo viên thường xuyên kiểm tra, đánh giá kết quả
Giáo viên luôn quan tâm, khích lệ, động viên học
Học sinh có thái độ, động cơ học tập đúng đắn.
Học sinh nắm vững kiến thức cũ.
Học sinh có phương pháp học tập khoa học
Học sinh tự tin trong học tập.
1.2.
1.2.
Nhậ
n
thức
22
LƯỢNG TỬ
ÁNH SÁNG
HIỆN TƯỢNG
ĐỊNH LUẬT
VÀ THUYẾT

ỨNG
DỤNG
Hiện tượng quang điện
ngoài
Hiện tượng quang điện
trong
Thuyết lượng tử ánh
sáng
Mẫu nguyên tử Bo
Định luật Stock về sự
phát quang
Các định luật quang điện
Sử dụng thuyết lượng tử
giải thích các định luật
quang điện
Quang trở và pin quang
điện
Giải thích sự tạo thành
quang phổ vạch của
nguyên tử Hidro
Hấp thụ và phản xạ lọc
lựa ánh sáng, màu sắc
của các vật.
Sự phát quang. Sơ lược
về laze
23

×