TĂNG TRƯỞNG VÀ 3 MỐI QUAN HỆ CỦA
NGÀNH NÔNG NGHIỆP
Phạm Quang Diệu
Viện Kinh tế Việt Nam
Email: ; ĐT: 0902153335
15/9/2010
Trong những năm qua tăng trưởng khá nhanh của nông nghiệp Việt Nam cùng với sự
bùng nổ xuất khẩu của một số ngành hàng nông sản không chỉ hỗ trợ nguồn lực quan
trọng để Việt Nam tiến hành cơng nghiệp hóa, mà cịn là khu vực đệm an tồn cho
quốc gia khi nền kinh tế gặp suy giảm và tác động khủng hoảng của bên ngồi. Vai
trị và năng lực của ngành nơng nghiệp vì thế mà có thể đã được đánh giá đến một
mức độ quá cao trong khi đang xuất hiện những nhân tố thể hiện sự yếu kém ảnh
hưởng đến khả năng duy trì tăng trưởng trong dài hạn. Đó là những hạn chế trong 3
mối quan hệ lớn của ngành nơng nghiệp, gồm có: nơng nghiệp-cơng nghiệp; nơng
nghiệp và đầu ra thị trường; nông nghiệp và đầu vào sản xuất. Trong 20 năm đổi mới
vừa qua, mặc dù công nghiệp tăng trưởng mạnh và nông nghiệp tăng trưởng khá
nhanh nhưng sự tương tác liên kết còn hạn chế, khu vực công nghiệp và dịch vụ không
rút được lao động ra khỏi nông nghiệp ở quy mô lớn. Trong khi đó,ở hai mối quan hệ
cịn lại tính “phụ thuộc” vào các yếu tố bên ngoài ngày càng lớn của ngành nông
nghiệp Việt Nam ở cả các thị trường nguồn nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất và
cả những sự biến thiên của thị trường đầu ra. Trong xu hướng tính biến thiên và bất
định của thị trường tồn cầu ngày càng lớn thì tính phụ thuộc của ngành nông nghiệp
ngày càng bộc lộ, trở thành một thách thức đảm bảo tăng trưởng bền vững. Khía cạnh
này của sự phát triển đang đặt ra những thách thức cho cách tiếp cận trong hoạch
định chiến lược chính sách cũng như cơng tác nghiên cứu tư vấn chính sách tăng
trưởng nơng nghiệp trong dài hạn.
1
Mục lục
1.
DẤU HIỆU BƯỚC VÀO GIAI ĐOẠN TĂNG TRƯỞNG THẤP? ............................... 3
2. NÔNG NGHIỆP TRONG CHUYỂN ĐỔI CƠ CẤU KINH TẾ VIỆT NAM VÀ CÁC
NƯỚC TRONG KHU VỰC.................................................................................................. 5
3. NÔNG NGHIỆP VÀ THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU – BIẾN ĐỘNG VÀ BỊ ĐỘNG
THEO TÍN HIỆU THỊ TRƯỜNG ......................................................................................... 8
4. NGÀNH LÚA GẠO: THÁCH THỨC CỦA DUNG HÒA CÁC MỤC TIÊU AN NINH
LƯƠNG THỰC – KIỀM CHẾ LẠM PHÁT - LỢI ÍCH KINH DOANH ............................... 9
5. NÔNG NGHIỆP VÀ NGUYÊN LIỆU ĐẦU VÀO – PHỤ THUỘC NHẬP KHẨU VÀ
ÁP LỰC LÊN CÁC NGÀNH SẢN XUẤT NỘI ĐỊA .......................................................... 16
6. NGÀNH NGÔ SUY GIẢM - VIỆT NAM NGÀY CÀNG PHỤ THUỘC VÀO NHẬP
KHẨU THỨC ĂN CHĂN NUÔI ........................................................................................ 17
7.
KẾT LUẬN VÀ NHỮNG HÀM Ý CHÍNH SÁCH ..................................................... 19
2
1. DẤU HIỆU BƯỚC VÀO GIAI ĐOẠN TĂNG TRƯỞNG THẤP?
Đối với nhiều nước đang phát triển, sự yếu kém của khu vực nông nghiệp nông thôn
là gánh nặng cho nền kinh tế nhưng với Việt Nam những gì đã diễn ra trong hơn 2
thập kỷ qua kể từ khi đổi mới lại chứng minh cho trường hợp ngược lại. Trong những
thời điểm quan trọng của nền kinh tế như bắt đầu cơng cuộc đổi mới 1991, hay khủng
hoảng tài chính Đơng Nam Á 1997, khủng hoảng kinh tế tồn cầu và suy giảm vĩ mô
năm 2008 cho thấy ngành nông nghiệp trở thành trụ đỡ của nền kinh tế. Tốc độ tăng
trưởng khá cao của ngành nông nghiệp cùng với sự ổn định của khu vực kinh tế nông
thôn đã là chỗ dựa hậu thuẫn cho toàn bộ nền kinh tế trước những cú sốc từ bên ngoài
hay các bất ổn nội tại. Nơng nghiệp khơng chỉ hồn thành sứ mệnh quan trọng trong
việc đảm bảo an ninh lương thực, cung cấp lao động cho công nghiệp, mà xuất khẩu
nông lâm thủy sản tăng trưởng mạnh mẽ đã đem lại một nguồn thu ngoại tệ quý giá để
Việt Nam tiến hành cơng nghiệp hóa.
Sự thành cơng đáng kể của ngành nông nghiệp như vậy đang dẫn đến một xu hướng
đánh giá cao vai trị và vị thế của ngành nơng nghiệp và kinh tế nơng thơn. Đây là một
cách nhìn hợp lý trong bối cảnh xu hướng thiên lệch cho phát triển các ngành công
nghiệp thâm dụng vốn và được bảo hộ có nguy cơ làm cho nền kinh tế sẽ phải trả giá
cho phát triền bền vững trong dài hạn. Tuy nhiên, vị thế và vai trò lớn hơn không đồng
nghĩa với một ngành nông nghiệp với nền tảng năng lực mạnh và đảm bảo tăng trưởng
bền vững.
Số liệu tăng trưởng đang đặt ra dấu hỏi về tăng trưởng bền vững của ngành nông
nghiệp. Khu vực nông lâm thủy sản đã rơi xuống mức tăng trưởng thấp nhất trong 10
năm trở lại đây, năm 2009 tăng trưởng GDP nông nghiệp đạt mức 1,83%, thấp hơn rất
nhiều so với kế hoạch của chính phủ đặt ra ở mức 2,8%. 6 tháng đầu năm 2010, tăng
trưởng GDP nơng nghiệp có xu hướng hồi phục nhưng thủy sản vẫn có dấu hiệu suy
giảm.
3
Tăng trưởng GDP nông nghiệp và thủy sản
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Rất có thể nguyên nhân dẫn đến tốc tăng trưởng suy giảm mà ngành nông nghiệp chưa
từng gặp phải trước đây là do những yếu tố ngắn hạn và dài hạn cộng hưởng cùng một
lúc như (i), thị trường thế giới suy giảm cùng với xu thế bảo hộ tăng cao ảnh hưởng
tiêu cực đến xuất khẩu nông sản; (ii), bối cảnh kinh tế vĩ mơ rất khó khăn về tín dụng;
lãi suất cao; lạm phát, rủi ro tỷ giá; (iii), những bất cân đối trong cán cân đầu tư cho
nông nghiệp trong tương quan của nền kinh tế hay cơ cấu và hiệu quả đầu tư trong nội
bộ ngành nông nghiệp tồn tại nhiều năm đến thời điểm khó khăn bắt đầu phát tác; (iv),
sự tăng trưởng của ngành nông nghiệp trong một giai đoạn dài phụ thuộc theo chiều
rộng và khai thác tài nguyên đã tiến tới ngưỡng giới hạn….
Nhưng có một khía cạnh bất ổn mang tính cơ cấu đang ngày càng lộ diện đe dọa đến
sự tăng trưởng bền vững của nông nghiệp Việt Nam đó là những yếu kém trong “3
mối quan hệ lớn” của ngành, gồm có (i), nơng nghiệp với cơng nghiệp; (ii), nông
nghiệp với đầu vào phục vụ sản xuất nông nghiệp; (iii), nông nghiệp với thị trường
đầu ra.
Trong mối quan hệ thứ nhất, tương tác giữa nông nghiệp và công nghiệp có vai trị
quan trọng khơng chỉ đối với bản thân ngành mà còn cả đối với sự chuyển dịch cơ cấu
của cả nền kinh tế. Nơng nghiệp sẽ có điều kiện phát triển nhanh hơn nếu cơng nghiệp
có sự gắn kết mạnh với nông nghiệp, đặc biệt là rút được lao động ra khỏi khu vực
nông nghiệp, và sự phát triển của nông nghiệp cũng hỗ trợ cho công nghiệp hóa tiến
hành thuận lợi.
4
Trong mối quan hệ thứ hai và thứ ba, ngành nông nghiệp ngày càng thể hiện theo xu
hướng sự phụ thuộc ngày càng tăng với các nguồn cung ứng đầu vào và thị trường đầu
ra. Trong những năm qua thị trường quốc tế có xu hướng biến động ngày càng lớn, thì
tính phụ thuộc này càng bộc lộ, sức khỏe của ngành nông nghiệp biến thiên theo sự ổn
định hay trồi sụt của các yếu tố không nằm ở trong phạm vi kiểm sốt và khó dự đốn
được của các chủ thể của ngành, từ các nhà hoạch định chính sách; doanh nghiệp kinh
doanh hay ở cấp độ các hộ nông dân nhỏ lẻ. Như vậy, ngành nông nghiệp Việt Nam
với những lợi thế về tài nguyên, nguồn lực con người nhưng đang dần trở nên bất lợi
và rủi ro hơn trong một bối cảnh ngày càng biến động
2. NÔNG NGHIỆP TRONG CHUYỂN ĐỔI CƠ CẤU KINH TẾ VIỆT
NAM VÀ CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC
Kinh nghiệm của các nền kinh tế cơng nghiệp hóa nhanh cho thấy sự tăng trưởng khá
cao của khu vực nông nghiệp ở mức trên 4%/năm trong nhiều năm sẽ là trợ lực để tiến
hành công nghiệp hóa thuận lợi. Nơng nghiệp có duy trì được tăng trưởng mới hỗ trợ
cơng nghiệp hóa thơng qua cung cấp nguồn lực về (i), thặng dư tài chính; (ii), lao
động; (iii), lương thực thực phẩm giá rẻ; (iv), ngoại tệ từ xuất khẩu; (v) thị trường tiêu
thụ cho hàng hóa cơng nghiệp. Trong giai đoạn tiếp theo của tiến trình cơng nghiệp
hóa, nếu nơng nghiệp khơng duy trì được đà tăng trưởng thì khu vực này với các đặc
trưng về năng suất lao động thấp, nghèo đói, lạc hậu sẽ trở thành gánh nặng cho cả
nền kinh tế. Đối với nhiều quốc gia trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa có nền kinh
tế đặc trưng chủ yếu của một lực lượng lao động đông đảo ở khu vực nông thôn. Một
trong những lực cản căn bản cho tăng trưởng nơng nghiệp đó là giảm áp lực của một
lực lượng lao động đông đảo ở khu vực nông thôn gắn với sản xuất nông nghiệp. Như
vậy, điều kiện tiên quyết cho sự tăng trưởng của nơng nghiệp chỉ có thể được đảm bảo
nếu như các khu vực khác của nền kinh tế rút bớt được lao động ra khỏi sản xuất nông
nghiệp, giúp cho tăng quy mô sản xuất, thúc đẩy sản xuất hàng hóa, tăng năng suất lao
động nơng nghiệp và thu nhập của lao động nông nghiệp.
Đầu thập kỷ 80 của thế kỷ 20, trừ Malaysia, các nước như Thái Lan, Indonesia, Trung
Quốc có một mặt bằng về cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong nền kinh tế khá tương
đương với tỷ trọng lao động nông nghiệp ở mức 60-70% và tỷ trọng GDP nông
5
nghiệp trong tổng GDP 20-35%. Như vậy, ở điểm xuất phát này tỷ trọng lao động
nông nghiệp trong nền kinh tế không phải quá khác biệt so với Việt Nam, tuy nhiên tỷ
trọng khu vực nông nghiệp trong nền kinh tế của Việt Nam còn rất lớn chiếm trên
50%. Trải qua 30 năm, các nền kinh tế khu vực đã rút được lao động ra khỏi nông
nghiệp với một tốc độ rất nhanh, lao động nơng nghiệp chỉ cịn chiếm trên dưới 30%,
và tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong nền kinh tế còn ở mức trong khoảng 15%.
Trong khi đó, sau 30 năm tỷ trọng của khu vực nơng nghiệp trong nền kinh tế của Việt
Nam giảm xuống mức tương đương với các nền kinh tế khu vực, ở mức 17%, tuy
nhiên lực lượng lao động nông nghiệp trong nền kinh tế vẫn ở mức trên 50%.
Thay đổi tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động và tỷ trọng GDP
nông nghiệp trong tổng GDP của các nền kinh tế vào các thời điểm 1981- 1991 2002 - 2009
Nguồn: Số liệu các nước từ ADB; Số liệu của Việt Nam từ TCTK.
Nhìn vào xu thế chuyển đổi cơ cấu kinh tế của các nền kinh tế trong khu vực cho thấy
khoảng cách còn khá xa giữa Việt Nam so với các nước trong chuyển đổi cơ cấu lao
động, tỷ trọng lao động nơng nghiệp vẫn cịn cao trong khi tỷ trọng GDP nông nghiệp
6
trong nền kinh tế thấp. Như vậy, khu vực công nghiệp và dịch vụ đã không thành công
trong việc rút lao động ra khỏi nông nghiệp, và với một lực lượng lao động lớn và quy
mơ sản xuất nhỏ thì khả năng để phát triển sản xuất hàng hóa đem lại sức cạnh tranh
và hiệu quả kinh tế cao sẽ ngày càng bị suy giảm. Xu hướng cho 3 giai đoạn 19811991-2002-2009 của Việt Nam so với các nước cho thấy xét trên góc độ chuyển đổi
lao động nơng nghiệp Việt Nam của năm 2009 đang tương đương với các nước trong
khu vực vào thời điểm 1991.
Nếu xu hướng lao động tiếp tục ở lại khu vực nông thôn không được cải thiện nhanh,
trong khi đất đai có hạn dẫn đến đất nông nghiệp trên đầu người ngày càng giảm, năng
suất lao động giảm, thu nhập thấp, đẩy một lực lượng lớn lao động trở nên dư thừa và
có xu hướng thoát li ra khỏi các hoạt động sản xuất nông nghiệp truyền thống. Hơn
nữa, bản thân sản xuất nông nghiệp cũng diễn ra xu hướng áp dụng công nghệ sử dụng
nhiều vốn thay thế lao động, nên nông nghiệp khơng những khơng có đủ khả năng thu
hút thêm lao động mà còn đẩy bớt lao động ra.
Xu hướng trên sẽ gây ra ít nhất hai hậu quả nghiêm trọng. Thứ nhất, xét trên bình diện
tổng thể vĩ mơ, nền kinh tế bị chia cắt làm hai khu vực gồm thành thị hiện đại, tăng
trưởng nhanh, mức sống cao, trong khi nông thôn nghèo nàn, tụt hậu, mức sống thấp,
và do đó bất bình đẳng nơng thơn-thành thị ngày càng lớn. Tình trạng này nếu kéo dài
làm cho thị trường nơng thơn rơi vào trì trệ, sức mua yếu khơng trở thành thị trường
tiêu thụ hàng hoá cho khu vực cơng nghiệp. Do đó nơng thơn khơng những khơng thể
hỗ trợ mà cịn trở thành lực cản cho q trình cơng nghiệp hố, là gánh nặng làm cho
nền kinh tế không thể phát triển bền vững.
Thứ hai, ở khu vực nơng thơn, lao động dư thừa khơng thốt li được dẫn đến tình
trạng đất chật người đơng, sản xuất trì trệ, nghèo đói ngày càng trầm trọng, tạo nên
những căng thẳng và bất ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội và mơi trường. Ngồi ra,
bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị ngày càng tăng cũng tạo ra sức ép
mạnh lên luồng dân di cư từ nông thôn ra thành thị, gây ra các hậu quả như sự q tải,
tình trạng ơ nhiễm, tắc nghẽn giao thông, tội phạm và các tệ nạn xã hội... ở khu vực đô
thị.
7
3. NÔNG NGHIỆP VÀ THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU – BIẾN ĐỘNG VÀ
BỊ ĐỘNG THEO TÍN HIỆU THỊ TRƯỜNG
Việt Nam có vị thế lớn trên thị trường thế giới ở nhiều mặt hàng nông sản như lúa
gạo, cà phê, hồ tiêu, cao su…năm 2001, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản chỉ ở
mức 3,1 tỷ USD năm 2009 tăng lên mức 15 tỷ USD. Tuy nhiên, sau hơn 20 năm hội
nhập vào thị trường thế giới, những yếu kém về hạ tầng dự trữ và thông tin thị trường,
sản phẩm ở dạng thô, thương hiệu yếu nên xuất khẩu nông sản Việt Nam luôn bị động
chạy theo diễn biến thị trường và mùa vụ sản xuất trong nước chứ chưa hình thành
định hướng kinh doanh để nắm bắt được các cơ hội khi thị trường giá cao cũng như
tích trữ khi thị trường suy giảm. Trong bối cảnh thị trường thế giới ngày càng có xu
hướng biến động dẫn đến xuất khẩu tăng trưởng thiếu ổn định, chịu sự phụ thuộc rất
lớn vào thị trường thế giới, chủ yếu ở các phân khúc thị trường có giá trị thấp, đem lại
lợi ích kinh tế thấp hơn so với các đối thủ cạnh tranh. Khủng hoảng kinh tế thế giới
2008 xảy ra với tăng giá của nhiều mặt hàng lương thực đã giúp cho kim ngạch xuất
khẩu tăng mạnh, tuy nhiên năm 2009 suy giảm kinh tế đã làm giảm kim ngạch xuất
khẩu của hầu hết các mặt hàng nông sản chủ lực.
Kim ngạch xuất khẩu nông - lâm - thủy sản và nhập khẩu nông lâm thủy sản của
Việt Nam giai đoạn 2001-2009 (triệu USD)
Nguồn: AgroMonitor tổng hợp từ số liệu của Tổng cục Hải quan.
Việt Nam cũng chưa hình thành các định hướng chiến lược và cả nghiên cứu tư vấn
chuyên sâu đối với các ngành hàng nông sản cụ thể. Các Viện và đơn vị tham mưu
mới dừng lại ở các phân tích thương mại nơng lâm thủy sản chung chung, nên công
tác hoạch định chiến lược thiếu luận cứ khoa học để đưa ra các định hướng chiến lược
8
phát triển xuất khẩu cho các ngành hàng chiến lược cụ thể cũng như các ngành hàng
có tiềm năng trong tương lai. Thiếu thông tin phân ngành chi tiết cũng là trở ngại cho
cơng tác điều hành chính sách ngắn hạn đạt được hiệu quả cao. Bên cạnh đó, cũng
thiếu các nghiên cứu bài bản về cơ chế vận hành và hiệu quả hoạt động của các tổ
chức hiệp hội hoặc thể chế hỗ trợ xuất khẩu.
Mặt khác, trong khi các nỗ lực về mặt chiến lược phát triển ngành tập trung vào thúc
đẩy xuất khẩu thì thị trường nội địa với những lợi ích to lớn của quy mơ dân số lớn 84
triệu dân, thu nhập và chi tiêu tăng mạnh, đặc biệt là tầng lớp dân cư đô thị, lại để cho
các doanh nghiệp nước ngoài chiếm lĩnh. Số liệu theo chuỗi thời gian 2001-2009 cho
thấy trong khi xuất khẩu nơng lâm thủy sản tăng 4,8 lần thì kim ngạch nhập khẩu nông
lâm thủy sản đã tăng 2,9 lần từ mức 1,7 tỷ USD lên gần 5 tỷ USD.
Một trong những yếu tố căn bản dẫn đến sản xuất của nhiều ngành hàng nông sản chủ
yếu ở dạng thơ đó là chưa có sự đầu tư tương xứng vào công nghiệp chế biến. Tiềm
năng của các ngành hàng nông sản và khu vực nông thôn Việt Nam rất lớn, tuy nhiên
vì sao đầu tư nước ngồi và tư nhân vào khu vực này còn rất khiêm tốn? Trong khi
ngành Công thương tập trung vào các ngành công nghiệp địa bàn ở khu vực thành thị,
thì ngành Nơng nghiệp lại chỉ tập trung vào sản xuất nông nghiệp với sự quan tâm tập
trung cho các hộ nông dân, hoặc các doanh nghiệp vừa và nhỏ nông nghiệp nông thôn.
Như vậy, vẫn cịn chưa có các tổ chức của Chính phủ cũng như dân sự ở cả TW và địa
phương hỗ trợ cho xúc tiến thương mại và hỗ trợ các dòng tiền của các quỹ đầu tư và
cộng đồng doanh nghiệp đầu tư vào công nghiệp phục vụ sản xuất nông nghiệp và chế
biến nông sản.
Đối với các ngành hàng xuất khẩu chiến lược, đặc biệt đối với lúa gạo, cách tiếp cận
điều hành xuất khẩu hiện nay bộc lộ những hạn chế trong việc thúc đẩy cạnh tranh của
doanh nghiệp, khơng đem lại lợi ích xuất khẩu cao, làm cho chuỗi giá trị lúa gạo chậm
cải tiến, thu nhập của người nông dân chưa xứng đáng.
4. NGÀNH LÚA GẠO: THÁCH THỨC CỦA DUNG HÒA CÁC MỤC
TIÊU AN NINH LƯƠNG THỰC – KIỀM CHẾ LẠM PHÁT - LỢI ÍCH
KINH DOANH
9
Chính sách lúa gạo của Việt Nam đã có những thay đổi căn bản theo thời gian. Trước
đây, ưu tiên quan trọng nhất của Việt Nam đó là đảm bảo đủ ăn và an ninh lương thực
quốc gia, rồi đến mục tiêu tăng xuất khẩu thu ngoại tệ đi đối với sự điều chỉnh để đảm
bảo an ninh lương thực quốc gia theo địa bàn cũng như an ninh lương thực trong
những khoảng thời điểm trong năm. Những năm gần đây, thị trường lúa gạo thế giới
chứa đựng nhiều bất ổn, đặc biệt khi khủng hoảng lương thực năm 2008 với mức giá
gạo cao kỷ lục trên thị trường thế giới cùng với biến động vĩ mô đặt ra thách thức cho
công tác điều hành kinh doanh xuất khẩu gạo trong việc có thể đạt được 3 mục tiêu
cùng một lúc: (i), đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, (ii), giữ cho giá gạo nội địa ở
mức thấp để kiềm chế lạm phát và; (iii), đạt được hiệu qua kinh doanh xuất khẩu gạo
cao, đem lại lợi ích cho chủ thể kinh doanh lúa gạo, đặc biệt là người nông dân. Xu
hướng thị trường gạo trong nước và quốc tế cho thấy, trong khi hai mục tiêu đầu tiên
Việt Nam đạt được khá tốt, trong khi mục tiêu hiệu quả kinh doanh chưa đạt được như
mong muốn.
Bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh
Mục tiêu của Chính phủ đối với người nông dân trồng lúa gạo luôn hướng vào tăng
thu nhập với chỉ tiêu định lượng đảm bảo mức lãi trên 30%. Nhưng mục tiêu này
trong những năm gần đây đang khó đạt được. Khi thị trường xuất khẩu gặp khó khăn,
giá lúa thấp thì việc điều tiết chủ yếu là để doanh nghiệp tự do xuất khẩu nhằm mua
lúa tồn trong dân, còn khi thị trường thế giới đạt mức giá cao, là cơ hội tốt để doanh
nghiệp đạt lợi nhuận cao và sẵn sàng thu mua lúa giá cao của người nơng dân, nhưng
nếu đang có áp lực lạm phát đối với nền kinh tế thì chính sách điều hành lại thiên về
hạn chế xuất khẩu. Kết quả là doanh nghiệp thường cố gắng xuất khẩu khi chính sách
điều hành nới lỏng và thường là lúc giá gạo thế giới thấp, nên doanh nghiệp chỉ cần ký
được hợp đồng và quay lại ép giá nông dân.
Số liệu thực tế cho thấy rõ xu hướng này. Năm 2008 và 2009, lượng gạo xuất khẩu và
diễn biến giá xuất khẩu của Việt Nam ln có chiều hướng nghịch nhau, khi thị
trường đạt mức cao nhất thì lo ngại về an ninh lương thực và lạm phát trong nước cao
đã dẫn đến thực thi chính sách ngưng xuất khẩu. Trong khi đó, lượng gạo xuất khẩu
của Thái Lan ln theo sát diễn biến của giá gạo, và luông đạt mức cao trong các thời
điểm giá gạo đạt đỉnh. So với xu thế xuất khẩu của hai nước thì lượng gạo xuất khẩu
của Việt Nam có sự biến thiên mạnh hơn nhiều so với Thái Lan khơng hẳn chỉ vì yếu
10
tố diễn biến giá. Điều này phản ánh phần nào từ tác động của cơ chế điều hành cũng
như tính thời vụ của sản xuất dẫn đến xu hướng các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu
khi có sự nới lỏng và vào vụ thu hoạch và đột ngột giảm khi có sự hạn chế xuất khẩu.
Lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam và Thái Lan và giá gạo xuất khẩu 5% tấm
của Việt Nam 1/2008-8/2010
Nguồn: Số liệu Lượng xuất khẩu 1/2008 đến 7/2010 của Tổng cục Hải quan; Số liệu
tháng 8 theo Tổng cục Thống kê. Số liệu giá trong CSDL của AgroMonitor.
Điều hành xuất khẩu gạo 2010 – có đạt được mức xuất khẩu hiệu quả?
Tại cuộc họp “Kết quả xuất khẩu gạo tháng 7 và kế hoạch xuất khẩu các tháng cuối
năm” do Hiệp hội Lương thực (VFA) tổ chức tại TP.HCM, lượng gạo xuất khẩu của
Việt Nam theo hợp đồng ký kết là 6,2 triệu tấn, đã xuất khoảng 4,38 triệu tấn, như vậy
sẽ còn giao 1,8 triệu tấn. Đầu tháng 8, trong kho của các doanh nghiệp có khoảng 1,4
triệu tấn (hai tổng cơng ty hơn 1,1 triệu tấn, các doanh nghiệp khác khoảng 300 ngàn
tấn). Tức là lượng trong kho của các doanh nghiệp cần thêm 400 ngàn tấn để giao tiếp
các hợp đồng còn lại. Lượng gạo còn lại là trong dân, các doanh nghiệp nhỏ, và đợi
đến vụ Thu Đơng. Trong khi đó Vụ Thu Đông ở miền Nam khoảng tháng 10 sẽ bước
vào vụ thu hoạch, hiện nay chưa có dự báo về sản lượng.
Trong vòng 1 tuần cuối tháng 8, Hiệp hội Lương thực Việt Nam VFA đã hai lần công
bố tăng giá hướng dẫn xuất khẩu, mức giá gạo xuất khẩu 5% tấm hướng dẫn đã tăng
từ mức 430 USD/tấn ngày 20/8 lên từ mức 450 USD/tấn ngày 27/8. Trong khi đó, giá
gạo xuất khẩu bắt đầu tăng mạnh vào đầu tháng 7, và tại thời điểm 25/8 giá gạo xuất
11
khẩu 5% tấm của Việt Nam phổ biến ở mức 435 USD/tấn. Như vậy, với mức giá
hướng dẫn cao hơn cả mức giá xuất khẩu phổ biến trên thị trường sẽ làm cho nhiều
doanh nghiệp khó có khả năng thực hiện được các hợp đồng xuất khẩu, nên mức giá
hướng dẫn này có thể được coi như là một biện pháp hạn chế xuất khẩu.
Giá xuất khẩu (7/1/2010-28/8/2010) và giá hướng dẫn cho loại gạo 5% tấm các
ngày 23/8/2010 và 28/8/2010
Nguồn: Giá hướng dẫn trích trên trang web của VFA, Giá gạo xuất khẩu theo Cở
sở dữ liệu của AgroMonitor
Giá xuất khẩu (7/1/2010-28/8/2010) và giá hướng dẫn cho loại gạo 5% tấm các
ngày 23/8/2010 và 28/8/2010
Nguồn: Giá hướng dẫn trích trên trang web của VFA, Giá gạo xuất khẩu theo Cở sở
dữ liệu của AgroMonitor
Những động thái này đang phản ánh chính sách thắt chặt xuất khẩu của Việt Nam.
Nguyên nhân rất có thể có những lo ngại từ phía ổn định cán cân vĩ mơ hơn là các tính
tốn đơn thuần về ổn định cung cầu lúa gạo, cũng như tính tốn chiến lược trữ hàng
dựa vào dự báo giá gạo thế giới cao hơn sẽ mở cửa cho xuất khẩu. Theo kết quả số
liệu tháng 8 của Tổng cục Thống kê, xu hướng giá cả nhiều mặt hàng đang rục rịch
12
tăng giá, và những tháng cuối năm thường cho thấy giá cả có xu hướng tăng lên. Nếu
cho phép thị trường nội địa và quốc tế liên thông tự do trong bối cảnh giá gạo quốc tế
tăng ở mức cao, nhu cầu xuất khẩu gạo nhiều sẽ dẫn đến doanh nghiệp xuất khẩu tăng
cường thu mua lúa gạo trong dân trong khi lượng dự trữ trong dân khơng cịn dồi dào
cộng với yếu tố tác động tâm lý sẽ đẩy giá lúa gạo nội địa tăng, áp lực đối với mặt
bằng giá chung gia tăng, ảnh hưởng đến lạm phát và có khả năng đe dọa mục tiêu ổn
định vĩ mơ của Chính phủ vào những tháng cuối năm.
Rất có khả năng, chính sách thận trọng đối với xuất khẩu gạo sẽ được duy trì đến khi
có thơng tin dự báo chắc chắn về Vụ Thu Đông và quan trọng hơn là phụ thuộc vào
diễn biến của thị trường lúa gạo thế giới. Như vậy, có khả năng hai kịch bản sẽ xảy ra.
Kịch bản 1, nếu giá gạo thế giới duy trì ở mức cao và tiếp tục tăng bất kể Vụ Thu
Đông đạt sản lượng tốt, Việt Nam sẽ có xu hướng duy trì chính sách xuất khẩu gạo
hạn chế để kiềm chế lạm phát. Xu hướng chính sách này sẽ được duy trì đến đầu năm
2011 khi Vụ Đông Xuân vào vụ thu hoạch. Kịch bản 2, trong trường hợp ngược lại,
nếu giá gạo thế giới duy trì ở mức thấp, sản lượng Vụ Thu Đơng khá, thì chính sách
xuất khẩu sẽ cởi mở hơn.
Nếu xảy ra theo kịch bản nào thì dường như Việt Nam cũng đang bỏ lỡ những cơ hội
thu được lợi ích tốt nhất khi thị trường lúa gạo thế giới tăng giá? Trong khi đó thì Thái
Lan lại đang có xu hướng mở kho dự trữ tăng xuất khẩu.
Chiến lược xuất khẩu theo thị trường tập trung - ổn định nhưng hạn chế cạnh
tranh và đa dạng hóa
Định hướng kinh doanh xuất khẩu gạo của Việt Nam thể hiện sự ưu tiên cho các thị
trường tập trung. 10 thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam chiếm đến trên
75% tổng kim ngạch xuất khẩu. Đây cũng là một hướng đi thể hiện định hướng nhắm
đến sự ổn định. Các thị trường tập trung gồm có Philipine, Iraq, Cuba. Các thị trường
tập trung đem lại mức giá cao, tuy nhiên gạo xuất khẩu sang các thị trường này chủ
yếu là các loại gạo 15% tấm và 25% tấm. Có xu hướng ưu tiên cho hợp đồng tập trung
cho một số doanh nghiệp thuộc Tổng công ty lương thực. Trong khi tỷ trọng của các
thị trường tập trung chiếm tỷ trọng lớn, ổn định thì thị phần cịn lại chiếm tỷ trọng
nhỏ với mức giá thấp dành cho rất nhiều các doanh nghiệp. Sự tập trung vào các thị
13
trường cũng làm cho chủng loại gạo xuất khẩu của Việt Nam khơng có sự đổi mới, và
mức giá đạt được thấp hơn nhiều so với Thái Lan.
Kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam đến các thị trường theo tháng (1/20087/2010)
Nguồn: Tổng cục Hải quan.
Cùng một chủng loại gạo của Việt Nam và Thái Lan khơng có sự khác biệt quá lớn về
giá1. Tuy nhiên, sự khác nhau về chủng loại gạo xuất khẩu của hai nước cho thấy mức
giá khác nhau rất lớn giữa hai nước, trong khi giá gạo thấp nhất của Thái Lan là gạo
trắng cũng gần tương đương với loại gạo chiếm tỷ trọng cao của Việt Nam, còn gạo
thơm và Mali cho mức giá cao hơn rất nhiều so với đa phần gạo của Việt Nam, và
ngang bằng với gạo giống Nhật vốn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong cơ cấu xuất khẩu gạo
của Việt Nam.
Cơ cấu gạo xuất khẩu của Việt Nam trung
bình 7 tháng 2010
Cơ cấu xuất khẩu gạo của Thái Lan trung
bình 7 tháng 2010
1
Giá gạo 5% tấm Việt Nam và Thái Lan chỉ có sự khác biệt khá lớn vào năm 2009 khi chính sách thu mua tạm
trữ của Thái Lan có mức giá cao nên khơng thể xuất khẩu ra thị trường thế giới với mức giá thấp cạnh tranh với
Việt Nam được.
14
Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam trung
bình 7 tháng 2010
Giá gạo xuất khẩu của Thái Lan, trung
bình 7 tháng 2010
Nguồn: Tính theo số liệu Tổng cục Hải quan
Các hàm ý đối với chiến lược xuất khẩu gạo
Tập trung vào một vài thị trường lớn sẽ giúp cho sự ổn định nhưng sẽ hạn chế sự đa
dạng hóa thị trường, và trong tương lai có sự rủi ro khi các nước này dần tiến tới đảm
bảo tự túc lương thực. Sự ưu tiên cho các doanh nghiệp lớn thuộc các Tổng công ty sẽ
hạn chế sự tham gia của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, sẽ hạn chế sự cạnh tranh trong
nội bộ ngành.
Như vậy, trong thời gian qua có xu hướng chính sách đối với ngành hàng lúa gạo theo
hướng thận trọng để đạt các mục tiêu về an ninh lương thực và kiềm chế giá gạo nội
địa ở mức thấp, trong khi đó đã bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh khi giá gạo thế giới ở
mức cao. Kết quả là năng lực dự báo hạn chế, chính sách điều hành khó tiên lượng và
kết cấu hạ tầng yếu kém của ngành lúa gạo Việt Nam đã dẫn đến những sự trả giá về
lợi ích cho các chủ thể tham gia kinh doanh lúa gạo. Những cơ hội đạt kim ngạch xuất
15
khẩu tốt nhất bị bỏ lỡ, cơ chế xuất khẩu khơng khuyến khích cạnh tranh nên lợi ích
của doanh nghiệp và động lực tìm kiếm lợi nhuận mạnh mẽ nhất của họ bị sói mịn và
đặc biệt là lợi ích của người nông dân suy giảm, kéo theo thu nhập bị ảnh hưởng, và
xét về tổng thể Việt Nam luôn khơng đạt được lợi ích kinh doanh cao nhất trong xuất
khẩu lúa gạo. Trong khi Thái Lan với các ưu thế về giống lúa, hạ tầng tạm trữ, chính
sách thu mua của Chính phủ tách bạch khỏi kinh doanh của doanh nghiệp, và sự năng
động của cộng đồng kinh doanh gạo đã giúp cho Thái Lan đạt được các mục tiêu về
an ninh lương thực và xuất khẩu đạt hiệu quả cao.
5. NÔNG NGHIỆP VÀ NGUYÊN LIỆU ĐẦU VÀO – PHỤ THUỘC
NHẬP KHẨU VÀ ÁP LỰC LÊN CÁC NGÀNH SẢN XUẤT NỘI ĐỊA
Nguyên liệu đầu vào cho sản xuất nông nghiệp ngày càng có một vai trị sống cịn đối
với phát triển nông nghiệp Việt Nam bởi lẽ những năm qua sản xuất nông nghiệp càng
tăng trưởng nhanh, nhu cầu sử dụng nguồn nguyên liệu đầu vào càng lớn. Ngoài ra, cú
sốc giá dầu mỏ năm 2008 kéo theo xu hướng phát triển nhiên liệu sinh học với đầu
vào là các ngành cũng thuộc nhóm nguyên liệu đầu vào như ngơ, mía đường,
sắn…cộng hưởng với sự phát triển mạnh mẽ của nhu cầu của các ngành này từ Trung
Quốc cho phát triển ethanol và công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi đã làm cho
“cầu kéo” đẩy giá các mặt hàng này lên cao, tạo ra những cơ hội thuận lợi cho sự phát
triển của một số ngành hàng trên của Việt Nam. Ngoài các ngành hàng này, một số
nguyên liệu vật tư đầu vào khác như phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực
vật…cũng là nguồn đầu vào quan trọng cho các ngành sản xuất nông sản của Việt
Nam. Tuy nhiên, Việt Nam đang thiếu một định hướng phát triển ở tầm vĩ mô cũng
như khai thác lợi ích kinh doanh ở tầm vi mô đối với các ngành hàng nguyên liệu đầu
vào chiến lược.
Sự tăng trưởng sản xuất nông nghiệp hướng mạnh vào xuất khẩu với lợi ích đem lại
nguồn thu ngoại tệ đã có xu hướng cơng tác định hướng chiến lược và chính sách chú
trọng vào thúc đẩy sản xuất, và mới đây đã có quan tâm hơn đến thương mại nông
sản. Trong bối cảnh như vậy, các nỗ lực của doanh nghiệp Việt Nam mới hướng các
nguồn lực đầu tư cho thương mại nông sản, trong khi cũng chưa đủ lực và định hình
chiến lược dài hạn chú trọng phát triển sản xuất và đầu tư cho vùng nguyên liệu. Đây
cũng là một thị trường rộng lớn và là một khoảng trống cho các doanh nghiệp nước
16
ngồi với các ưu thế về cơng nghệ, nguồn lực tài chính đang tận dụng khai thác. Số
liệu nhập khẩu vật tư nông nghiệp đã tăng từ chỉ ở mức 500 triệu USD lên đến 3,7 tỷ
USD, tăng 6,6 lần, cao hơn cả mức tăng của xuất khẩu nông lâm thủy sản.
Kim ngạch nhập khẩu vật tư nông nghiệp giai đoạn 2001-2009 (triệu USD)
Nguồn: AgroMonitor tính tốn từ Tổng cục Hải quan
Kết quả là, Việt Nam ngày càng phục thuộc vào nguồn ngun liệu đầu vào từ bên
ngồi để ni các ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu. Không chỉ phục thuộc vào
nguyên liệu thô và chế biến nhập khẩu mà cả một ngành công nghiệp chế biến và
mạng lưới tiêu thụ rộng khắp khu vực nông thôn của các nguyên liệu phục vụ thị
trường nội địa cũng đều do các doanh nghiệp quốc tế chi phối. Hậu quả dẫn đến (i),
Trong khi giá nông sản xuất khẩu biến động và thị trường nội địa trồi sụt thì giá
nguyên liệu ln có xu hướng ổn định hoặc tăng; (ii), Nguồn nguyên liệu phụ thuộc
vào một số thị trường nhập khẩu chủ yếu, khi có các biến động về chính sách hoặc thị
trường quốc tế thì tạo áp lực rất mạnh đến chi phí đẩy cho các ngành hàng sản xuất và
thu nhập người nông dân; (iii), Sự thiếu ổn định của nguyên liệu sẽ làm cho các ngành
hàng nông sản đầu ra phát triển thiếu ổn định và bền vững; (iv), Việt Nam ngày càng
tụt hậu trong việc phát triển ngành công nghiệp chế biến nguyên liệu, các doanh
nghiệp Việt Nam gặp phải các rào cản ngày càng lớn khi gia nhập ngành về vốn đầu
tư, bí quyết cơng nghệ, tổ chức mạng lưới tiêu thụ...
6. NGÀNH NGÔ SUY GIẢM - VIỆT NAM NGÀY CÀNG PHỤ THUỘC
VÀO NHẬP KHẨU THỨC ĂN CHĂN NI
Nhập khẩu ngơ tăng đột biến
17
Năm 2009 đánh dấu sự tăng trưởng mạnh mẽ của kim ngạch nhập khẩu ngô trong tổng
nhập khẩu các loại thức ăn chăn nuôi của Việt Nam với mức tăng 171,1 triệu USD
(tương đương tăng 133%) so với năm 2008, đạt con số kỷ lục trong lịch sử là 300,21
triệu USD.
Không chỉ tăng nhập khẩu ngô mà nhập khẩu một mặt hàng nguyên liệu khác có
chung nhiều thành phần với ngơ là DDGS2 trong năm 2009 cũng có xu hướng tăng
tương đối mạnh. Số liệu của Hải quan cho hay kim ngạch nhập khẩu DDGS của Việt
Nam trong năm 2009 đạt 67,92 triệu USD, tăng 7,23 triệu USD (tương đương tăng
12%) so với năm 2008, chiếm 3,16% tỉ trọng nhập khẩu các loại TACN (con số này
của năm 2008 chỉ là 2,51%). Trong khi đó, xuất khẩu ngơ của Việt Nam trong năm
2009 chỉ đạt 730 nghìn USD, giảm tới 83,6% so với năm trước đó.
Kim ngạch nhập khẩu ngơ và DDGS của Việt Nam theo tháng, 2008-2010 (triệu
USD)
Nguồn:Tổng cục Hải quan
Nguyên nhân nào cho sự tặng trưởng đột biến đó?
Năm 2009, tình trạng thu hẹp diện tích gieo trồng các loại hoa màu đặc biệt là diện
tích trồng ngơ tại các địa phương khu vực phía Tây Bắc gia tăng đột biến trong bối
cảnh đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, đơ thị hóa tăng nhanh và dịch bệnh phát
triển. Tính chung, diện tích gieo trồng ngơ cả nước trong năm 2009 chỉ còn 1,09 triệu
ha, giảm mạnh 53,4 nghìn ha (tương đương giảm 4,68%) so với năm 2008. Ngoài ra,
2
DDGS là sản phẩm phụ giàu protein của q trình sản xuất ethanol từ ngơ và mía. DDGS bao gồm protein,
chất béo, chất xơ và khoáng chất. Tại Việt Nam hiện nay DDGS ngày càng được sử dụng rộng rãi để thay thế
ngô trong thức ăn chăn nuôi bị thịt, bị sữa, và thậm chí cho thức ăn gia cầm và thuỷ cầm.
18
việc qui hoạch lại nông nghiệp nhưng thiếu định hướng, tầm nhìn dài hạn tại nhiều địa
phương nghèo và hạn chế về quỹ đất dành cho nông nghiệp cũng là những nguyên
nhân sâu xa dẫn đến tình trạng sụt giảm sản lượng nói trên.
Chính điều này đã gây sức ép buộc các doanh nghiệp thức ăn chăn nuôi phải chuyển
sang sử dụng nguồn ngô nhập khẩu, chủ yếu từ các nước Thái Lan, Trung Quốc, Hoa
Kỳ và Achentina, đẩy kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này lên mức cao nhất trong lịch
sử và thu hẹp xuất khẩu xuống mức tối đa.
Sản lượng và tăng trưởng sản lượng một số nguyên liệu TACN trong nước
Nguồn: Trung tâm tin học thống kê/ Bộ NN & PTNT
7. KẾT LUẬN VÀ NHỮNG HÀM Ý CHÍNH SÁCH
Cần xem xét lại chiến lược cơng nghiệp hóa trong mối tương quan với nơng nghiệp,
theo các các khía cạnh về: (i), trao đổi nguồn lực đầu tư giữa hai khu vực; (ii), mối
liên kết hỗ trợ lẫn nhau về thị trường tiêu thụ; (iii), định hướng công nghiệp hóa trong
việc rút lao động ra khỏi nơng nghiệp.
Các Bộ ngành nên hướng các Viện và cơ quan nghiên cứu tham mưu triển khai các
chương trình nghiên cứu phát triển thương mại cho các ngành hàng chiến lược cũng
như chiến lược phát triển nguồn nguyên liệu đầu vào cũng như thị trường các yếu tố
đầu vào cho sản xuất nông nghiệp. Từ các kết quả nghiên cứu định vị chiến lược phát
triển cho các ngành hàng xuất khẩu chiến lược cũng như tiềm năng và các ngành hàng
vật tư nguyên liệu đầu vào.
19
Đầu tư xây dựng công tác thông tin và dự báo thị trường hỗ trợ cho cộng đồng kinh
doanh nông sản và tư vấn cho công tác điều hành thị trường ngắn hạn của Chính phủ
và Bộ ngành.
Cần triển khai các nghiên cứu về thể chế xuất khẩu nông sản cũng như các chương
trình nghiên cứu hội nhập và thị trường quốc tế dài hạn để từ đó đề xuất các chính
sách đổi mới cơ chế điều hành cũng như tăng cường năng lực hạ tầng “mềm” bao gồm
các chiết thế, chính sách, khung khổ cho các tổ chức đảm trách và cơ chế vận hành,
cũng như hạ tầng “cứng” bao gồm hệ thống kho tàng dự trữ, phục vụ cho xuất khẩu
tăng trưởng bền vững.
Để thúc đẩy công nghiệp chế biến nông sản phát triển cần tăng cường công tác nghiên
cứu về môi trường đầu tư nông thôn, đi đơi với đó là sự hình thành một bộ máy
chun trách hỗ trợ các dòng vốn đầu tư vào khu vực nông thôn.
Định vị lại chiến lược phát triển ngành hàng chiến lược lúa gạo, hình thành một tổ
chức của Nhà nước chuyên lo về an ninh lương thực, còn các doanh nghiệp chỉ làm
kinh doanh. Tổ chức này với các công cụ về hệ thống kho dự trữ quy mô và hiện đại
do Nhà nước đầu tư và nguồn lực tài chính sẽ thực hiện chính sách thu mua như một
van điều tiết đối với thị trường nội địa và xuất khẩu, đảm bảo chính sách thu mua có
lợi cho người nông dân, và xuất kho dự trữ bán cho doanh nghiệp xuất khẩu khi giá
đạt cao trên thị trường thế giới.
20