Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vùng đầm phá ở tỉnh Thừa Thiên - Huế có diện tích là 22.000 ha
với chiều dài 68 km đợc cấu thành bởi các phần lãnh thổ của 5 huyện với 31
xã. Bờ Đông phá là cồn cát ngăn cách đầm phá với biển Đông và bị gián
đoạn qua 5 cửa biển: Hải Dơng, Thuận An, Hòa Duân (đã đợc nhà nớc lấp
cửa lại vào tháng 8/2000), T Hiền và Vinh Phong (trong đó có ba cửa mới
đợc mở trong đợt lụt 1999). Bờ Tây tiếp xúc với các cánh đồng lúa và ba
cửa sông lớn là: sông Ô Lâu, sông Bồ và sông Hơng nên đợc gọi là vùng
đầm phá Tam Giang. Đây là vùng đầm phá lớn nhất khu vực Đông Nam á.
Vùng đầm phá Tam Giang có nguồn lợi thủy sản phong phú với 12 loài
tôm, 18 loài cua, 233 loài cá (trong đó có 20 - 23 loài đợc coi là có giá trị
kinh tế cao). Sản lợng khai thác bình quân hàng năm là 2.500 tấn, cùng với
sản lợng nuôi trồng và khai thác trên biển đã đóng góp gần 50% toàn bộ
kim ngạch xuất khẩu của tỉnh. Vùng đầm phá còn có vai trò to lớn đối với
nghề nuôi trồng thủy sản, là vị trí chiến lợc giao thông, du lịch quan trọng,
là nơi sinh sống của trên 30% dân số Thừa Thiên - Huế. Nhng theo điều tra
của nhiều nhà nghiên cứu thì đa số dân c vùng đầm phá này đều thuộc diện
nghèo đói. Đời sống của dân c nói chung còn gặp nhiều khó khăn thu nhập
thấp và bấp bênh, các mặt khác của đời sống kinh tế xã hội nh: văn hóa,
giáo dục, y tế còn rất lạc hậu thậm chí còn xuống cấp. Cũng chính những
điều đó lại tác động tiêu cực đến việc bảo vệ, khai thác, quản lý các nguồn
lực kinh tế vốn còn rất nhiều tiềm năng ở vùng đầm phá. Gần mời lăm năm
qua Đảng và Nhà nớc ta đã có nhiều chính sách, biện pháp nhằm chuyển
đổi nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trờng có sự
quản lý của nhà nớc theo định hớng XHCN. Nền kinh tế của tỉnh Thừa
Thiên - Huế cũng đã có nhiều khởi sắc, tạo sự sống động đa dạng trong hoạt
động sản xuất kinh doanh theo quy luật sản xuất hàng hóa, tạo tiền đề cho
1
các quan hệ kinh tế xã hội phát triển. Phát triển sản xuất hàng hóa đối với
tỉnh vừa là mục tiêu vừa là nhiệm vụ cấp thiết hiện nay để nâng cao đời
sống cho nhân dân cả về vật chất lẫn tinh thần. Tuy nhiên, đối với vùng
đầm phá Thừa Thiên - Huế sản xuất ở đây còn mang tính tự cung tự cấp,
manh mún, phát triển kinh tế hàng hóa vẫn còn là vấn đề mới. Do đó nghiên
cứu thực trạng và giải pháp để phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá
đang là yêu cầu khách quan cần thiết cho vùng kinh tế đợc coi là một trong
những trọng điểm kinh tế của tỉnh theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ
XI của Tỉnh Đảng bộ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong nhiều năm qua đã có nhiều nhà khoa học, các tổ chức nghiên
cứu trong và ngoài nớc đã tiến hành nghiên cứu vùng đầm phá Thừa
Thiên - Huế.
- Luận chứng "Bảo vệ tự nhiên đất ngập nớc đầm phá Tam Giang -
Cầu Hai tỉnh Thừa Thiên - Huế" của ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên -
Huế tháng 10/ 1998. Do Sở Khoa học, công nghệ và môi trờng thực hiện.
- Dự án "Nghiên cứu quản lý nguồn lợi sinh học hệ đầm phá Tam
Giang" của tổ chức IDRC Canađa tài trợ do Đại học Huế thực hiện.
- Chuyên đề "Điều tra phơng tiện, công cụ khai thác biển và đầm
phá" của ủy ban nhân dân tỉnh do Sở Thủy sản thực hiện.
- Hội thảo khoa học về "Đầm phá Thừa Thiên - Huế" do Bộ Khoa
học công nghệ - môi trờng, Trung tâm Khoa học tự nhiên và Bộ Thủy lợi
phối hợp tổ chức.
- Chuyên đề "Điều tra đánh giá hiện trạng khai thác đầm phá" của
ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên - Huế.
- Đề án "Định canh định c dân đầm phá tỉnh Thừa Thiên - Huế thời
kỳ 1996 - 2000" của Sở Thủy sản Thừa Thiên - Huế.
- "Quản lý nguồn lợi thủy sản hệ đầm phá Tam Giang" của Nguyễn
Quang Vinh Bình, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế 1996.
2
Và nhiều đề tài khác của Đại học Huế, Viện Hải dơng học Hải
Phòng, Nha Trang, Đại học Thủy lợi Hà Nội đã nghiên cứu. Tuy nhiên các
công trình nghiên cứu đó chủ yếu mới chỉ đề cập đến một khía cạnh cụ thể
của đầm phá hoặc nặng về nghiên cứu ứng dụng, hoặc về nghiên cứu triển
khai, hoặc về quản lý. Cho đến nay cha có một công trình nào nghiên cứu
một cách tổng thể về thực trạng và hệ thống các giải pháp nhằm phát triển
kinh tế vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế theo hớng sản xuất hàng hóa. Chính
vì vậy trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những thành tựu của những kết quả đã
nghiên cứu và bằng những nghiên cứu mới của mình tác giả chọn đề tài
"Phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá ở tỉnh Thừa Thiên - Huế"
làm đề tài nghiên cứu, nhằm đóng góp những ý kiến nhỏ bé vào phát triển
kinh tế xã hội của vùng đầm phá tỉnh Thừa Thiên - Huế.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn là luận giải những cơ sở khoa học về mặt
kinh tế - xã hội, môi trờng và sinh thái cho giải pháp tổng thể khi xây dựng
vùng đầm phá Tam Giang thành vùng kinh tế hàng hóa phát triển.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn xác định các
nhiệm vụ sau đây:
+ Xác định cơ sở lý luận, quá trình hình thành và phát triển kinh tế
vùng theo hớng sản xuất hàng hóa.
+ Đánh giá đợc thực trạng phát triển kinh tế của vùng đầm phá Thừa
Thiên - Huế những năm trớc và sau trận lụt lịch sử, đồng thời xác định rõ
nguyên nhân của những tồn tại và những vấn đề bức xúc đặt ra hiện nay.
+ Trình bày những định hớng và giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh phát
triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế trong thời gian tới.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài đợc giới hạn trong phạm vi nghiên cứu những nhân tố, yếu tố
kinh tế xã hội tác động đến việc phát triển sản xuất thủy sản hàng hóa vùng
3
đầm phá Thừa Thiên - Huế. Thời gian nghiên cứu chủ yếu từ năm 1995 đến
nay. Không gian nghiên cứu là vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận chủ yếu của luận văn là hệ thống những quan điểm cơ
bản của kinh tế chính trị học Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng ta về kinh tế và các vấn đề liên quan đến kinh tế.
Luận văn đợc nghiên cứu từ góc độ kinh tế chính trị học, sử dụng hệ
thống các phơng pháp: phân tích và tổng hợp, lôgíc, lịch sử và phơng pháp
so sánh Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phơng pháp đặc thù nh
thống kê, mô hình hóa, điều tra khảo sát thực tế nhằm làm sáng tỏ các vấn
đề đặt ra.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Nghiên cứu một cách tổng thể thực trạng kinh tế - xã hội, đề xuất
những giải pháp có tính khả thi phù hợp với hoàn cảnh đặc thù của vùng
đầm phá Thừa Thiên - Huế.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn bao gồm phần mở đầu, 3 chơng 6 tiết, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.
4
Chơng 1
Lý luận về kinh tế hàng hóa vùng và sự cần thiết
phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá
ở tỉnh Thừa Thiên - Huế
1.1. Lý luận về kinh tế hàng hóa vùng
1.1.1. Khái niệm kinh tế hàng hóa vùng, kinh tế hàng hóa vùng
đầm phá Thừa Thiên - Huế
Mỗi quốc gia là sự hợp thành của các lãnh thổ địa phơng khác nhau.
Mỗi nền kinh tế cũng là sự hợp thành của các ngành, các lĩnh vực và vùng
kinh tế. Theo cấp độ bộ phận hợp thành, vùng kinh tế và các lãnh thổ địa
phơng có chung các đặc điểm và tính chất của các tiểu hệ thống trong hệ
thống lớn theo qui mô cả nớc. Tuy nhiên lãnh thổ của mỗi địa phơng là địa
giới không gian và nội dung quản lý của nhà nớc trên không gian xác định
đó. Còn vùng kinh tế lại thể hiện giới hạn của một không gian vận động và
phát triển của các ngành, các yếu tố và các lĩnh vực kinh tế. Trên thực tế
quá trình phát triển của nền kinh tế chính là tổng hợp sự phát triển của các
vùng kinh tế hợp thành. Mọi hoạt động của bất cứ chủ thể kinh tế nào cũng
đều vận động và phát triển trên những địa bàn nhất định. Các chơng trình
dự án phát triển chỉ đợc tiến hành và đạt kết quả cụ thể trong mỗi vùng kinh
tế cụ thể. Do những phơng pháp xác định và phân định vùng không giống
nhau nên có các quan niệm khác nhau về vùng kinh tế. Tuy nhiên, đặc trng
của các vùng kinh tế là phải gắn với một lãnh thổ địa bàn không gian nhất
định, trên đó có những hoạt động phát triển kinh tế xã hội đặc thù. Một
vùng kinh tế nhất thiết phải là một quy mô lãnh thổ, song không nhất thiết
phải xác định một cách ràng buộc theo quy mô diện tích lớn hay nhỏ; vấn
đề là ở chỗ các hoạt động kinh tế xã hội trên đó phải đợc tiến hành phát
triển một cách bình thờng trong những điều kiện bình thờng so với các vùng
khác.
5
Trong tác phẩm "Sự phát triển của chủ nghĩa t bản ở Nga" Lênin đã
đa ra khái niệm về vùng kinh tế hàng hóa đặc trng, thông qua việc phân tích
về các "vùng ngũ cốc thơng phẩm", "miền chăn nuôi có tính chất thơng
phẩm", "sự phân hóa của nông dân trong vùng sản xuất sữa", "vùng trồng
lanh", "nghề trồng rau và nghề trồng cây ăn quả để bán". Lênin không giới
hạn ở khuôn khổ phân chia địa giới hành chính, Ngời viết: "Vùng ngũ cốc
thơng phẩm - vùng này bao gồm những miền biên khu phía Nam và phía
Đông phần nớc Nga thuộc Châu Âu, các tỉnh thảo nguyên xứ Nga mới và
Đông sông Vôn - ga. Tại đây đặc điểm của nông nghiệp là có tính chất
quảng canh và sản xuất ra rất nhiều lúa mì để bán" [28, 312]. Lênin đã lấy 8
tỉnh và chỉ rõ ở đó ngời ta trồng nhiều nhất là lúa mì, tức là loại lúa chủ yếu
để xuất khẩu. Với diện tích đất trồng lúa mì chiếm "37,6% đến 58,8%" [28,
312]. Theo Lênin việc xác định vùng kinh tế trong điều kiện cụ thể của nớc
Nga Xô viết, với qui mô đang đợc nói đến là kinh tế miền Nam, có thể căn
cứ vào nguyên tắc kinh tế chuyên môn hóa gắn với tính chất thơng phẩm của
các ngành kinh tế và đồng thời cũng căn cứ vào trình độ phát triển kinh tế đ-
ợc xác định trong vùng. Chung quy lại là việc phân định vùng kinh tế căn bản
dựa trên nguyên tắc kinh tế, không phụ thuộc vào địa giới lịch sử hành
chính. Các tỉnh khác nhau nhng có điều kiện phát triển sản xuất những loại
hàng hóa giống nhau tạo thành vùng kinh tế hàng hóa.
Đặc thù của mỗi vùng kinh tế là cơ sở phát triển riêng có của vùng
đó nh tài nguyên, nhân văn, tỷ trọng khác nhau giữa các ngành hay tiểu
vùng. Mức độ tơng đồng nhất định về cơ cấu kinh tế của mỗi vùng đợc bố
trí phù hợp với sự phân công và chuyên môn hóa chung trong nền kinh tế lại
tạo nên những tiền đề của mối liên hệ giữa các vùng, là cơ sở của mối liên
kết, ràng buộc lẫn nhau của các vùng. Sự khác nhau giữa các vùng kinh tế
chủ yếu là ở những hoạt động kinh tế đặc thù nhất định của vùng, làm cho
mỗi vùng hoàn toàn không đồng nhất với các vùng khác: "Chúng ta nói
sang một miền khác rất quan trọng của CNTB nông nghiệp ở Nga, tức là:
6
miền ở đó không phải ngũ cốc chiếm u thế, mà sản phẩm chăn nuôi chiếm -
u thế Năng suất của súc vật ở đây là nhằm phục vụ công nghiệp sữa và
toàn bộ nông nghiệp đều nhằm đạt đợc thật nhiều sản phẩm hàng hóa thật
quý thuộc loại đó" [28, 319]. Trạng thái phát triển đặc thù trong phân công
lao động xã hội đã quy định tính độc lập của các vùng chỉ ở mức độ tơng
đối. Chính đặc điểm thống nhất nhng không đồng nhất này là yếu tố căn
bản, quyết định các vùng trở thành các tiểu hệ thống trong hệ thống chung
của nền kinh tế.
Là tiểu hệ thống nên mỗi vùng cũng có cấu trúc hệ thống riêng đặc
thù, bao gồm các tiểu vùng, hợp thành từ các địa phơng với những đặc điểm
và điều kiện phát triển trên cùng không gian vùng, song lại có những dị biệt
nhất định, hoặc về tài nguyên sinh thái hoặc về đặc điểm nhân văn, hoặc về
trình độ công nghệ kỹ thuật. Song mức độ khác biệt này không tạo nên
những phân biệt rõ rệt trong trạng thái phát triển và bên cạnh đó, mức độ
gắn kết giữa các tiểu vùng dựa trên những cơ sở vững chắc hơn do có chung
những đặc điểm đặc trng của toàn vùng.
Sau cách mạng Tháng Mời khi thực hiện kế hoạch "điện khí hóa
toàn Nga" Lênin cho rằng vấn đề phân định và phát triển các vùng kinh tế
một cách khoa học có ý nghĩa lớn lao và Ngời tán thành bản báo cáo về
phân vùng kinh tế của ủy ban kế hoạch nhà nớc gửi cho hội nghị lần thứ III
của Ban chấp hành trung ơng toàn Nga. Bản báo cáo cho rằng: Vùng kinh tế
là một tổng thể sản xuất đặc biệt, nó có thể cho phép liên hợp cao độ các
nhiệm vụ kinh tế, đó là nội dung biện pháp xây dựng vùng kinh tế mà các
công trình của chúng ta lấy làm cơ sở. Biện pháp đó cho phép phân chia
quốc gia ra thành các vùng thực hiện những chức năng riêng trong bộ máy
kinh tế chung của đất nớc, có nghĩa là biến quốc gia thành một bộ máy kinh
tế hoàn chỉnh dựa vào sự hợp tác của vùng sản xuất. Nhờ đó mà kết hợp đợc
sự thống nhất giữa phân công lao động xã hội với việc mở rộng sáng kiến
của các địa phơng trên cơ sở kế hoạch chung.
7
Thực tiễn của nền kinh tế Xô viết về bố trí cơ cấu và phát triển các
vùng kinh tế theo các năng lực kinh tế và chuyên môn hóa đã hoàn toàn
chứng minh sự đúng đắn của Lênin về vấn đề này.
Tuy nhiên, với bản chất không ngừng phát triển và hoàn thiện, học
thuyết Mác - Lênin cũng nh các luận thuyết kinh tế của học thuyết này đòi
hỏi phải thờng xuyên đợc bổ sung bằng thực tiễn kinh tế xã hội đang không
ngừng vận động phát triển và gắn liền với những thành tựu tiên tiến của
khoa học, kỹ thuật. Do đó, cho đến nay, với bối cảnh quốc tế có nhiều thay
đổi, bên cạnh những nguyên tắc không thể phủ định của việc phân định và
bố trí phát triển các vùng kinh tế và thực tiễn phát triển của kinh tế thị tr-
ờng; cơ sở phát triển các vùng kinh tế lãnh thổ đã và đang tiếp tục đợc bổ
sung và hoàn thiện, nhằm phát huy tối u các nguồn lực phát triển của các
vùng, nâng cao trình độ phân công và chuyên môn hóa trong nền kinh tế,
phát triển đất nớc bền vững.
Trong kinh tế học phát triển, khi phân tích về kinh tế vùng ngời ta
đã lu ý đến khái niệm vùng thông qua việc phân định các loại vùng. Có
nhiều quan điểm khác nhau: Quan điểm dựa trên chiến lợc phát triển cụ thể
trong từng giai đoạn của quốc gia đã phân loại vùng trọng điểm hay vùng
chơng trình. Vùng này nằm trong quy hoạch chiến lợc phát triển dài hạn
của đất nớc, là trung tâm có tác dụng thúc đẩy các vùng khác trong tổng thể
nền kinh tế phát triển. Vùng chơng trình có thể là vùng phát triển toàn diện
các ngành kinh tế, nhng cũng có thể lựa chọn các ngành mũi nhọn cho từng
giai đoạn phát triển của vùng phù hợp với nhu cầu của quốc gia. Các quan
điểm khác xem xét mối tơng quan giữa thành thị và nông thôn lại phân chia
vùng kinh tế thành thị và vùng kinh tế nông thôn ngoại vi, theo đó ngoại vi
đợc bố trí trong chiến lợc phát triển đô thị và phục vụ cho quá trình đô thị
hóa
Qua sự phân tích lý luận về kinh tế vùng trên đây theo chúng tôi có
thể rút ra một số điều kiện phân định vùng kinh tế là:
8
- Một lãnh thổ có các điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý tơng đồng nhau.
- Trình độ phát triển kinh tế tơng đối đồng nhất trong địa bàn.
- Có đặc trng của các nguồn lực phát triển tơng đồng nhau.
- Các nhóm xã hội và xu hớng vận động của các nhóm xã hội. Quan
hệ kinh tế của các nhóm xã hội, của các doanh nghiệp, của các đơn vị hành
chính có tác dụng thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của các vùng lân
cận.
- Đặc trng khác biệt của vùng với các vùng khác.
- Các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của vùng.
Nh vậy, có thể hiểu vùng kinh tế (hay tiểu vùng kinh tế) là một lãnh
thổ có điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý tơng đồng nhau, có các nguồn lực
phát triển tơng đồng nhau với trình độ phát triển kinh tế tơng đối đồng nhất,
có các nhóm xã hội quan hệ với nhau có tác dụng thúc đẩy kinh tế của vùng
và của các vùng lân cận.
Đối với nớc ta sau khi giành chính quyền đất nớc đợc phân định
thành các liên khu, phù hợp với điều kiện quản lý hành chính và kinh tế
trong thời gian đó. Sau khi hòa bình đợc lập lại yêu cầu của công cuộc khôi
phục đất nớc và phát triển nền kinh tế đã đặt ra nhiệm vụ xác định nhu cầu
và năng lực phát triển của đất nớc trên từng vùng lãnh thổ, khả năng bố trí
các ngành kinh tế trọng điểm trên mỗi địa phơng, mỗi khu vực. Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đã đề ra nhiệm vụ: phải phân bố hợp lý
sức sản xuất ở đồng bằng, trung du và miền núi, điều chỉnh sức ngời giữa
các vùng, quy hoạch từng bớc các vùng kinh tế, thực hiện sự phân công
phối hợp giữa các vùng với nhau. Đến Hội nghị Ban chấp hành Trung ơng
lần thứ 5 (khóa III) tháng 7/1961 về phát triển nông nghiệp đã đặt vấn đề
phân vùng nông nghiệp và xác định cách phân vùng nông nghiệp, sử dụng
một cách hợp lý nhất các tài nguyên phong phú của đất nớc và sức lao động
của nhân dân. Thời gian này ủy ban Kế hoạch Nhà nớc phối hợp với Bộ
Nông nghiệp xây dựng dự án phân chia miền Bắc thành bốn vùng nông
9
nghiệp lớn và gồm 46 tiểu vùng. Dự án này đã đợc chính phủ xem xét nhng
cha đợc chính phủ phê chuẩn. Sau năm 1975 Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ IV đã đặc biệt chú ý đến vấn đề phát triển vùng và xác định tiến hành
phân vùng, quy hoạch sản xuất để phát triển tất cả các vùng, sớm hình
thành những khu vực lớn, sản xuất tập trung, chuyên môn hóa. Đại hội đã
phân định nớc ta thành bốn vùng kinh tế lớn là: Vùng đồng bằng, vùng
trung du, vùng miền núi và vùng miền biển. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ V đã phân định nớc ta thành bảy vùng kinh tế gồm: Đồng bằng sông
Hồng, đồng bằng sông Cửu Long, miền Đông Nam Bộ, Duyên hải Trung
bộ, Khu bốn cũ và Thanh Hóa, miền núi và trung du phía bắc, Tây Nguyên.
Đại hội VI và Đại hội VII của Đảng kế thừa cách phân định vùng kinh tế
của Đại hội V. Đến Đại hội VIII của Đảng, việc phân định các vùng kinh tế
cơ bản lại đợc đề cập theo quan điểm là dựa trên cơ sở tiềm năng và chuyên
môn hóa hoàn toàn, không phụ thuộc vào không gian địa lý lãnh thổ theo
đó nền kinh tế quốc dân đợc phân định thành bốn vùng lớn là: Vùng kinh tế
đô thị, vùng đồng bằng, vùng miền núi, vùng kinh tế biển. Theo cách phân
loại này chỉ có thể làm căn cứ cho việc đánh giá và sử dụng một cách tổng
hợp các nguồn lực tài nguyên phục vụ cho công tác quản lý vĩ mô, nhng lại
gặp trở ngại trong quá trình quy hoạch và thực thi phát triển các dự án theo
chiến lợc phát triển tổng thể của cả nớc. Vì vậy trên thực tế chính phủ đã
tiến hành tổ chức nền kinh tế trên quy mô lãnh thổ bao gồm tám vùng: 1.
Vùng Tây Bắc, 2. Vùng Đông Bắc, 3. Vùng đồng bằng sông Hồng, 4. Vùng
Bắc Trung bộ, 5, Vùng Nam Trung Bộ, 6. Vùng Tây Nguyên, 7. Vùng
Đông Nam Bộ, 8. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Dự thảo các văn kiện trình Đại hội IX của Đảng đã nêu định hớng
phát triển các vùng lãnh thổ theo 6 vùng, đó là:
1- Vùng trung du và miền núi Bắc Bộ
2- Đồng bằng sông Hồng và vùng trọng điểm Bắc Bộ.
3- Duyên hải Trung Bộ và vùng trọng điểm miền Trung.
10
4- Vùng Tây Nguyên.
5- Vùng miền Đông Nam Bộ và trọng điểm phía Nam.
6- Đồng bằng sông Cửu Long.
Từ năm 1993 bắt đầu một giai đoạn mới về phát triển kinh tế vùng ở
nớc ta. Về quy mô, thời gian và không gian tất cả các vùng kinh tế này đều
đồng thời đợc tiến hành xây dựng quy hoạch phát triển tổng thể, thực hiện
các cuộc điều tra cơ bản và toàn diện để lập nên các căn cứ khoa học và
thực tiễn cho quá trình đầu t phát triển kinh tế vùng. Việc xây dựng chiến l-
ợc phát triển kinh tế đất nớc, trong đó có kinh tế vùng không chỉ là những
nỗ lực quan trọng của công tác quản lý và chỉ đạo phát triển kinh tế nói
chung, mà thực sự là bớc nhảy vọt trong lý luận và thực tiễn phát triển kinh
tế vùng. Quá trình phân vùng đã chú trọng đến các chỉ tiêu giá trị theo tính
chất đặc thù về kinh tế sinh thái và nhân văn của mỗi vùng để tiếp tục nâng
cao trình độ chuyên môn hóa theo quy mô vùng. Lần đầu tiên trong nền
kinh tế Việt Nam đã xuất hiện các vùng kinh tế phát triển trọng điểm (còn
gọi là các tam giác tăng trởng) đó là:
1. Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.
2. Thành phố Hồ Chí Minh - Biên Hòa - Bà Rịa Vũng Tàu.
3. Quảng Nam - Đà Nẵng - Dung Quất
Cách xác định các vùng kinh tế phát triển trọng điểm này phản ánh
rõ đặc trng bố trí các cực phát triển chủ yếu của đất nớc trong giai đoạn
hiện nay. Nó cũng phù hợp với các điều kiện địa lý không gian của nớc ta
theo ba miền Bắc, Trung, Nam. Đây là ba vùng kinh tế trọng điểm có điều
kiện tăng trởng kinh tế nhanh hơn nhịp độ chung của cả nớc, cung ứng cho
cả nớc nhiều sản phẩm và dịch vụ cần thiết, phát huy vai trò trung tâm về
công nghiệp, dịch vụ, thơng mại, tài chính, khoa học kỹ thuật, là cửa ngõ
giao lu quốc tế. Trong giai đoạn hiện nay nhiều tỉnh có hàng loạt các đô thị
mới đã đợc hình thành trên cơ sở phân định ranh giới hành chính và nâng
11
cấp quản lý đầu t các trung tâm phát triển mũi nhọn, việc "phát triển ba
vùng trọng điểm phải kết hợp chặt chẽ, phục vụ và thúc đẩy cho sự phát
triển các vùng khác và cả nớc, tạo điều kiện để các doanh nghiệp ở vùng
trọng điểm mở rộng kinh doanh và đầu t ra các vùng khác" [18, 214].
Kinh tế vùng trọng điểm phát triển trên cơ sở phát triển mạnh sản
xuất hàng hóa. Lịch sử phát triển của xã hội loài ngời là lịch sử phát triển và
thay thế nhau của các phơng thức sản xuất từ thấp đến cao. Hình thức tổ
chức kinh tế xã hội đầu tiên của loài ngời là kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp.
Kinh tế hàng hóa là sự phát triển kế tiếp kinh tế tự nhiên trên cơ sở phân
công lao động đã phát triển trong nền kinh tế tự nhiên và dần dần mang tính
đối lập với kinh tế tự nhiên. Các Mác cho rằng, phân công lao động xã hội
là cơ sở của mọi nền sản xuất hàng hóa: "lao động đợc phân công một cách
có hệ thống, nhng sự phân công này đợc thực hiện không phải bằng cách
các công nhân trao đổi những sản phẩm của cá nhân họ với nhau. Chỉ có
sản phẩm của những lao động t nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau
mới đối diện với nhau nh là những hàng hóa" [29, 61].
Nh vậy vừa có sự phân công lao động vừa phải có những ngời chủ
sở hữu khác nhau có tính tách biệt tơng đối giữa các chủ thể sản xuất họ
trao đổi sản phẩm cho nhau nhằm thỏa mãn nhu cầu của ngời mua nó. Theo
Lênin: "Sản xuất hàng hóa chính là cách tổ chức của nền kinh tế xã hội,
trong đó sản phẩm đều do những ngời sản xuất cá thể riêng lẻ sản xuất ra,
mỗi ngời chuyên làm ra một thứ sản phẩm nhất định, thành thử muốn thỏa
mãn các nhu cầu của xã hội thì cần phải có mua bán sản phẩm (vì vậy sản
phẩm trở thành hàng hóa) trên thị trờng" [27, 106]. Đó là kiểu tổ chức kinh
tế - xã hội trong mối quan hệ giữa ngời với ngời thể hiện thông qua quan hệ
trao đổi mua bán hàng hóa trên thị trờng. Thị trờng vừa là môi trờng lu
thông hàng hóa đồng thời nó là một nhân tố của quá trình tái sản xuất xã
hội, là sự giao tiếp giữa ngời sản xuất với ngời tiêu dùng. Trong nền kinh tế
hàng hóa, thị trờng trực tiếp hớng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực
12
hoạt động, mặt hàng, quy mô công nghệ và hình thức tổ chức sản xuất kinh
doanh, nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
Tiểu vùng kinh tế là một bộ phận trong kết cấu chung của vùng kinh
tế. Phát triển kinh tế hàng hóa của vùng hay tiểu vùng đều nhằm thúc đẩy
việc tích tụ, tập trung sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất, không ngừng cải
tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ, đổi mới tổ chức sản xuất vừa để nâng cao
năng suất, chất lợng sản phẩm vừa giảm chi phí sản xuất hạ giá thành sản
phẩm. Xác định ngành mũi nhọn đối với từng vùng để sản xuất, cải tạo ph-
ơng pháp tập quán sản xuất, thực hiện chuyên môn hóa sản xuất đồng thời
phát triển nhiều ngành nghề khác, thúc đẩy việc trao đổi hàng hóa, mở rộng
thị trờng. Kinh tế hàng hóa của vùng phát triển sẽ thúc đẩy và mở rộng việc
giao lu kinh tế, văn hóa của vùng với các vùng khác trong địa phơng cũng
nh trong cả nớc, góp phần tạo nên sự phát triển kinh tế xã hội mạnh mẽ của
cả nớc. Muốn vậy phải "tạo điều kiện cho tất cả các vùng đều phát triển trên
cơ sở khai thác thế mạnh và tiềm năng của mỗi vùng để hình thành cơ cấu
kinh tế hợp lý" [18, 209]
Vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế (hoặc gọi là tiểu vùng trong vùng
kinh tế nói chung) có đặc điểm, điều kiện tự nhiên, địa lý, địa hình hình
thành nên một vùng riêng biệt có điều kiện phát triển kinh tế hàng hóa với
những tiềm năng vốn có của vùng. Đầm phá Tam Giang có địa hình ven bờ
với độ cao không quá 10 m, lòng đầm phá hình lòng chảo hợp thành từ các
con sông, có độ sâu từ 0, 5 đến 1, 5 m; hình thành một lạch triều ngầm có
độ sâu trung bình 2m sâu dần về phía cửa Thuận An đạt 4,5 đến 5 m. Đầm
phá Tam Giang là một hệ thống gồm nhiều hệ sinh thái khác nhau: khu hệ
thực vật bao gồm thực vật phù du, thực vật nhỏ sống ở đáy, rong biển, thực
vật thủy sinh bậc cao, thực vật bậc cao. Khu hệ động vật có: động vật phù
du, động vật đáy, khu hệ cá và chim. Do đặc điểm địa hình hệ sinh thái
phức tạp, đan xen nhau nên có nhiều cách hiểu và xác định phạm vi về vùng
đầm phá khác nhau:
13
Theo ng dân qua kinh nghiệm sống bằng nghề chài lới trên vùng
đầm phá cho rằng: Đầm phá Tam Giang là một hệ thống nối liền nhau,
"đầm" có mức nớc cạn hơn phá (độ sâu 0,5 đến 1,5 m), còn "phá" sát với
biển hơn và có các cửa thông ra biển, đầm có độ rộng phẳng hơn so với phá.
Có nơi địa hình của đầm khép kín có lạch thông ra phá (nh đầm Lăng Cô) ở
đây đầm đợc hiểu nh là ao, chuôm
- Theo cách tiếp cận của các nhà khoa học môi trờng trong việc
quản lý các dự án về đầm phá cho rằng: Đầm phá Tam Giang là một hệ
thống gồm nhiều hệ sinh thái khác nhau, có quan hệ chặt chẽ tác động qua
lại lẫn nhau, phụ thuộc vào nhau. Nằm giữa biển và lục địa, giữa nớc mặn
và nớc ngọt, giữa hữu hạn và vô hạn là nơi giao lu của cái này và cái kia, và
tất nhiên đầm phá cũng có cái riêng của mình. Chính sự phức tạp của tự
nhiên mà tạo nên sự phức tạp trong các vấn đề xã hội.
- Theo các nhà nghiên cứu kinh tế - xã hội cho rằng xét việc phát
triển kinh tế - xã hội của một vùng sẽ chịu tác động của các nhân tố chủ tr-
ơng, đờng lối, chính sách và đầu t theo góc độ hành chính nên phạm vi
vùng sẽ đợc xác định theo đờng ranh giới hành chính cấp xã. Do vậy đầm
phá Tam Giang bao gồm phần đất liền của 31 xã ven đầm phá và phần vực
nớc của đầm phá.
- Cũng có cách nhìn đầm phá từ góc độ khác cho rằng: Đầm phá
Tam Giang là một tạo hình thủy vực độc đáo đợc coi nh một vụng biển ven
bờ biển nhiệt đới ẩm, gồm bốn yếu tố cấu thành: Vực nớc, cồn cát, cửa
biển, và các cửa sông chính đổ vào đầm phá.
Vận dụng t tởng của Lênin về kinh tế vùng và từ các cách tiếp cận ở
các góc độ khác nhau cho thấy vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế cũng có
các đặc trng của một vùng kinh tế, do vậy nó có đủ các nhân tố hình thành
một tiểu vùng kinh tế hàng hóa, là một bộ phận của kinh tế xã hội tỉnh Thừa
Thiên - Huế đầm phá có giới hạn trong một khu vực địa lý riêng biệt mang
tính đặc thù. Vì vậy, theo chúng tôi, vùng kinh tế đầm phá Tam Giang có
14
các đặc trng của một tiểu vùng kinh tế hàng hóa: đó là một lãnh thổ trong
vùng kinh tế biển miền Trung thuộc tỉnh Thừa Thiên - Huế, có điều kiện tự
nhiên và vị trí địa lý thuận lợi cho phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá
mang tính chất của vùng biển và đồng bằng. Đặc trng của nguồn lực phát
triển kinh tế là thủy sản. Nó đợc hình thành tổng hợp từ các loại hình kinh
tế phổ biến là kinh tế hợp tác và cá thể tiểu chủ tự chủ trong hoạt động sản
xuất kinh doanh. Đồng thời, tác động qua lại lẫn nhau thúc đẩy sự phát triển
của vùng đầm phá và của các vùng lân cận cũng nh nền kinh tế của tỉnh
Thừa Thiên - Huế.
1.1.2. Những nhân tố tác động đến sự phát triển kinh tế hàng
hóa vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế
Thừa Thiên - Huế là tỉnh có vị thế địa lý quan trọng, là một trong
bốn tỉnh nằm trong vùng phát triển kinh tế trọng điểm của miền Trung và
nằm ở trung độ của cả nớc. Có đờng quốc lộ số 1 và đờng sắt quốc gia đi
qua nối hai miền Nam Bắc; nằm trên dải đất hẹp với chiều dài 127 km,
chiều rộng trung bình 60 km, với các dạng địa hình rừng núi, gò đồi, đồng
bằng, đầm phá và biển Trong đó rừng núi chiếm 70% diện tích tự nhiên.
Địa hình phức tạp thấp dần từ Tây sang Đông và bị chia cắt mạnh, phần
phía Tây của tỉnh chủ yếu là núi đồi, tiếp đến là lu vực của các con sông tạo
nên các bồn trũng đồng bằng, ven biển nhỏ hẹp và vùng đầm phá rộng lớn
với diện tích 22.000 ha. Có cửa biển và cảng Thuận An, có vịnh Chân Mây
với độ sâu 10 - 14 m có khả năng xây dựng cảng biển nớc sâu cho khu vực
miền Trung. Huế có sân bay Phú Bài thuận lợi cho giao lu trong cả nớc và
quốc tế.
Thừa Thiên - Huế có diện tích tự nhiên 5.009,2 km
2
chiếm 1,51%
tổng diện tích tự nhiên của cả nớc. Theo tổng điều tra nông nghiệp, nông
thôn năm 1994, phân bố diện tích đất tự nhiên của Thừa Thiên - Huế
nh sau:
15
Bảng 1: Phân bố diện tích đất tự nhiên của Thừa Thiên - Huế
Tổng diện
tích đất
tự nhiên
Đất khu
dân c
Đất nông
nghiệp
Đất lâm
nghiệp
Diện tích
mặt nớc
nuôi trồng
thủy sản
Đất
chuyên
dùng
Đất cha sử
dụng
Cả nớc
- Số tuyệt
đối (ha)
32.835.964 732.842,9 6.342.693,5 12.055.239 318.342,6 1.218.625,9 12.168.21
9
- Cơ cấu (%) 100 2,2 19,3 36,7 1,0 3,7
Khu Bốn cũ
- Số tuyệt
đối (ha
5.053.827 125.838 590.732 2.146.038 16.930 180.323
- Cơ cấu (%) 100 2,5 11,6 42,5 0,3 3,6
Thừa Thiên
- Huế
- Số tuyệt
đối (ha
454.945 9.088,4 41.306,2 214.474 854,2 15.214 174.008,7
- Cơ cấu (%) 100 2,0 9,1 47,1 0,2 3,3 38,2
Nguồn: [15, 160].
Qua số liệu của bảng cho thấy, đất nông nghiệp Thừa Thiên - Huế
chiếm tỷ lệ 9,1% diện tích đất tự nhiên thấp hơn so với tỷ lệ bình quân của cả
nớc và khu Bốn cũ - đất lâm nghiệp chiếm tỷ lệ cao nhất 47,1% trong khi
đó của cả nớc là 36,7%, khu Bốn cũ là 42,5%. Với diện tích mặt nớc nuôi
trồng thủy sản hầu hết là vùng đầm phá chiếm 0,2% diện tích đất tự nhiên.
Thừa Thiên - Huế có trên 100 điểm khoáng sản chiếm tỷ trọng lớn
có giá trị kinh tế đáng kể. Biển và đầm phá có nhiều chủng loại thủy hải sản
với trên 500 loài tôm cá trong đó có 35 - 40 loài có giá trị kinh tế cao. Trữ l-
ợng khai thác hàng năm 30 - 40 nghìn tấn. Thừa Thiên - Huế có u thế nuôi
trồng thủy sản với diện tích 22.000 ha mặt nớc vùng đầm phá có khả năng
đánh bắt và nuôi trồng nhiều loại thủy sản có giá trị kinh tế cao nh tôm sú,
tôm bạc, cua, sò huyết, vẹm xanh có rong câu chỉ vàng là nguồn nguyên
liệu phong phú cho công nghiệp chế biến agar.
16
Từ năm 1996 đến nay nền kinh tế của tỉnh tiếp tục giữ đợc nhịp độ
tăng trởng. Tổng sản phẩm xã hội thời kỳ 1996 - 2000 tăng 35,4% (nhng do
thiệt hại của trận lụt lịch sử cuối năm 1999 nên bình quân mỗi năm chỉ đạt
6,3%). Hầu hết các ngành và các thành phần kinh tế đều có mức tăng trởng
khá. Thu nhập bình quân đầu ngời tăng từ 289 USD năm 1995 lên 378 USD
năm 2000, gấp 1,7 lần so với năm 1990 (cha đạt so với kế hoạch năm 2000
thu nhập bình quân là 460 USD). Những nhân tố phát triển kinh tế hàng hóa
của tỉnh trong các ngành nghề đợc thể hiện:
- Công nghiệp: Chiếm 32,7% trong GDP năm 2000, tăng 6,3% so
với năm 1995. Giá trị sản xuất tăng bình quân hàng năm 17,1%, đóng góp
60% tổng thu ngân sách. Một số ngành có lợi thế so sánh đợc chú trọng đầu
t tạo năng lực sản xuất mới, phát triển quy mô đổi mới công nghệ, nâng cao
chất lợng, mở rộng thị trờng tiêu thụ.
- Nông nghiệp: Bao gồm nông - lâm - thủy sản chiếm 22,3% trong
GDP, giảm 8,2% so với năm 1995. Giá trị xuất khẩu tăng 1,7% năm. Cơ
cấu cây trồng, vật nuôi đã chuyển dịch ổn định theo hớng sản xuất hàng
hóa.
- Du lịch - dịch vụ: Năm 1995 chiếm tỷ trọng 43,1%, tăng lên 45%
năm 2000. Đây là ngành Thừa Thiên - Huế có thế mạnh, cơ sở vật chất dịch
vụ du lịch đợc tăng cờng các loại hình du lịch ngày càng đa dạng, hấp dẫn
nh: du lịch sinh thái, du lịch nhà vờn, du lịch nghỉ dỡng, du lịch lễ hội
Thơng mại - dịch vụ tiếp tục phát triển đa dạng, bảo đảm nhu cầu phục vụ
sản xuất và đời sống.
Các thành phần kinh tế tiếp tục phát triển đúng hớng, nền kinh tế
chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa. Kinh tế nhà nớc chiếm vị trí quan
trọng trong nền kinh tế của tỉnh. Năm 1995 chiếm 30% GDP, tăng lên
37,41% năm 2000. Doanh nghiệp nhà nớc đảm nhận các khâu then chốt và
các lĩnh vực trọng yếu nh: sản xuất công nghiệp, xây dựng hạ tầng cơ sở, tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm giữ vai trò tác động, thúc đẩy các thành phần
17
kinh tế phát triển. Kinh tế hợp tác đợc củng cố và tổ chức lại theo Luật Hợp
tác xã góp phần quan trọng trong việc củng cố quan hệ sản xuất định hớng
XHCN. Các hình thức hợp tác trong sản xuất và kinh tế hộ ngày càng phát
triển dới nhiều hình thức đa dạng phong phú. Kinh tế cá thể, tiểu chủ phát
triển mạnh trong hoạt động thơng mại, tiểu thủ công nghiệp. Kinh tế t bản
t nhân hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng, dịch vụ kinh doanh th-
ơng mại, sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Cả hai thành phần
kinh tế t nhân và cá thể quy mô sản xuất cha lớn, nhng đã phát huy tính
năng động, tự chủ trong sản xuất kinh doanh, góp phần tăng sản phẩm cho
xã hội, giải quyết việc làm. Chiếm tỷ trọng từ 47 - 48% trong GDP của tỉnh.
Kinh tế t bản nhà nớc và kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài tuy số lợng không
nhiều nhng đợc đầu t công nghệ tiến bộ, có năng lực quản lý nên đạt tốc độ
tăng trởng cao, mức tăng bình quân 34,8%/năm. Chiếm tỷ trọng ngày càng
cao trong tổng giá trị sản xuất và nộp ngân sách của tỉnh [46, 2-7].
Trong năm năm từ 1996 - 2000 tỉnh đã chú trọng đến việc xây dựng
kết cấu hạ tầng cơ sở, đó là điều kiện rất cơ bản bảo đảm cho quá trình phát
triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là phát triển kinh tế hàng hóa trên địa bàn của
tỉnh. Chơng trình điện khí hóa đã cơ bản hoàn thành. Toàn tỉnh đã có
90,16% số xã có điện và 76% số hộ sử dụng điện. Hệ thống cấp nớc phát
triển mạng lới phân phối đợc cải tạo, số hộ đợc sử dụng nớc sạch ngày càng
tăng. Giao thông phát triển cả ở đô thị và nông thôn phục vụ nhu cầu đi lại,
giao lu kinh tế văn hóa của nhân dân. Hệ thống thủy lợi đợc u tiên đầu t và
đang từng bớc phát huy tác dụng trong phục vụ sản xuất nông nghiệp, môi
trờng sinh thái. Cơ sở vật chất của các ngành giáo dục - đào tạo, khoa học -
công nghệ, văn hóa, y tế, thể dục - thể thao đều đợc tăng cờng.
Văn hóa - xã hội là nhân tố không thể thiếu trong quá trình phát
triển kinh tế hàng hóa. Vì vậy trong những năm vừa qua tỉnh đã tập trung
phát triển sự nghiệp giáo dục cả về quy mô, chất lợng, hình thức đào tạo và
cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng lớn của nhân dân. Các
trung tâm y tế huyện, xã đợc xây dựng và nâng cấp. Công tác dân số kế
18
hoạch hóa gia đình đợc triển khai thực hiện tốt, tỷ lệ tăng dân số năm 1999
đạt 1,78%. Hoạt động văn hóa thông tin có nhiều đóng góp tích cực trong
việc tuyên truyền đờng lối đổi mới của Đảng, xây dựng nền văn hóa mới
nh: làng văn hóa, bu điện văn hóa xã, gia đình văn hóa mới, cụm dân c
không có ngời sinh con thứ ba Khơi dậy và phát huy truyền thống nhân ái
giúp đỡ nhau trong những khi hoạn nạn thiên tai. Chơng trình xóa đói giảm
nghèo đợc triển khai mạnh mẽ, tỷ lệ đói nghèo giảm từ 23,5% năm 1996
xuống 17% năm 1999. Giải quyết việc làm cho 12000 lao động/năm, trong
đó kinh tế t nhân và hợp tác chiếm 90%. Công tác chăm sóc ngời có công,
các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nớc nhớ nguồn đợc quan tâm thu hút
sự tham gia rộng rãi của các cơ quan, đoàn thể và toàn dân. Các hoạt động
từ thiện đem lại kết quả thiết thực. Việc cứu nạn, cứu trợ đồng bào bị thiên
tai trong cơn lũ 1999 đợc quan tâm kịp thời có hiệu quả.
Những nhân tố trên đây đã tác động rất mạnh đến quá trình phát
triển kinh tế hàng hóa của tỉnh nói chung và kinh tế vùng đầm phá Thừa
Thiên - Huế nói riêng. Kinh tế vùng đầm phá chịu ảnh hởng chi phối rộng
lớn của cơ cấu kinh tế của tỉnh. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh có
xu hớng tốt, bớc đầu phát huy đợc thế mạnh của tỉnh, góp phần thu hút lao
động, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho ngời lao động. Trong đó, dân
c vùng đầm phá cũng đợc giải quyết một phần cơ bản. Doanh nghiệp nhà n-
ớc giữ vai trò tác động thúc đẩy kinh tế vùng đầm phá nh: xây dựng hạ tầng
cơ sở, tài chính, tín dụng, điện phục vụ sản xuất và sinh hoạt, khoa học kỹ
thuật, cơ sở vật chất cho giáo dục đào tạo, văn hóa, y tế, thể dục thể thao
tạo điều kiện cho kinh tế hàng hóa vùng phát triển.
Ngoài sự tác động chung của các nhân tố trên còn có những nhân tố
cụ thể tác động đến sự phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá của tỉnh
Thừa Thiên - Huế, đó là:
- Về điều kiện tự nhiên: vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế nằm trong
ô tọa độ vào khoảng 16
0
15' -16
0
42' vĩ bắc và 107
0
22' - 107
0
57' kinh đông là
một vùng đất ngập nớc cỡ lớn kéo dài 68 km theo hớng Tây Bắc - Đông
19
Nam, cách thành phố Huế 7 km và các huyện lỵ ven bờ 0,5 - 9 km về phía
Tây Nam. Vùng đầm phá Tam Giang nối đờng thủy của 5 trong 8 huyện
của tỉnh gồm các huyện Phong Điền, Quảng Điền, Hơng Trà, Phú Vang,
Phú Lộc. Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh vùng đầm phá Tam Giang thuộc
đất ngập nớc tự nhiên và là nớc lợ. Căn cứ vào tính chất phân dị, chức năng
sinh thái có thể phân chia chúng thành 10 kiểu thuộc 4 nhóm là: Nhóm đất
ngập nớc phủ thực vật, nhóm đất ngập nớc không phủ thực vật, đất ngập n-
ớc thờng xuyên và đất ngập nớc khác đã đợc sử dụng. Bao gồm Phá Tam
Giang, đầm Sam, đầm Hà Trung, đầm Chuồn, đầm Thủy Tú, đầm Cầu Hai,
đầm Lăng Cô tạo thành hệ đầm phá. Đất đai vùng đầm phá chủ yếu là đất
xấu nghèo chất dinh dỡng gồm các nhóm đất: đất cát biển, đất cát mặn, đất
lầy và than bùn, đất đầm phá nuôi trồng thủy sản, các loại đất khác đất ở
đây cho năng suất thấp, muốn canh tác có hiệu quả đòi hỏi phải đợc cải tạo
tích cực.
Vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế có khí hậu khắc nghiệt, bức xạ
mặt trời của khu vực thuộc loại cao có thể đạt 234,15 kcal/cm
2
/năm. Mùa
hè lợng mây thấp (4/10) nắng nhiều đạt trung bình 170 giờ - 240 giờ/tháng.
Mùa đông lợng mây cao(8/10) gây ma nhiều trung bình 2744 mm/năm cao
hơn so với cả nớc (1900 mm/năm). Nhiệt độ không khí trung bình 25,2
0
C
bằng trung bình so với cả nớc nhng cao hơn so với miền Bắc, nhiệt độ thấp
nhất 8,8
0
C, cao nhất 40
0
C. Vùng đầm phá chịu ảnh hởng chung của gió
Đông Bắc (mùa đông) và gió Tây Nam (mùa hè). Đặc biệt là chịu ảnh hởng
của từ 0 - 4 cơn bão kèm theo ma lớn và dài ngày gây thiệt hại nặng nề về
ngời, tài sản, t liệu sản xuất đánh bắt và nuôi trồng thủy sản cũng nh nông
nghiệp nói chung.
Thủy văn vùng đầm phá chịu ảnh hởng sâu sắc của chế độ thủy văn
(sông) và hải văn (biển), mực nớc đầm phá biến đổi không đồng nhất giữa
các vị trí trong đầm phá và giữa đầm phá với biển. Mùa nắng mức nớc đầm
phá luôn thấp hơn mức nớc biển từ 5 cm - 15 cm (so với đỉnh triều) ở phá
Tam Giang và 25cm - 30 cm ở đầm Cầu Hai. Mùa ma mức nớc cao hơn
20
mức nớc biển từ 70cm - 97cm. Dòng chảy trong đầm phá hỗn hợp nhiều
thành phần gồm dòng chảy sông, dòng chảy gió và các dòng triều phân với
tốc độ và hớng thay đổi theo mùa. Sự trao đổi nớc giữa đầm phá và biển qua
cửa biển thay đổi phức tạp theo mùa tác động đến các yếu tố thủy hóa của
toàn vùng. Vùng cửa sông gần nh ngọt về mùa ma và không còn phân tầng,
độ muối trong khoảng 0,02% - 0,2% và lợ về mùa khô khoảng 1,3% -
11,4%. Vùng lòng chảo đầm phá có độ muối cao hơn và phân tầng về mùa
khô. Độ muối trong khoảng 18,2% - 24,1% (tầng mặt), 22,2% - 25,4% (tầng
đáy) và về mùa ma 3,4% - 11,9% (tầng mặt) và 5,2% - 12,1% (tầng đáy).
Vùng cửa phá 27,2% - 32,4% (tầng mặt) và 29,4 - 32,3% (tầng đáy) vào
mùa khô. Còn mùa ma 15,1% - 22,6% (tầng mặt), 23,2% - 23,5% (tầng
đáy). Độ muối cao nhất ở cửa phá và thấp nhất ở cửa sông.
- Về nguồn lợi thủy sản: vùng đầm phá là nơi giàu nguồn lợi thủy
sản và tài nguyên khác. Khu hệ cá đầm phá Tam Giang phong phú và đa
dạng với 233 loài cá thuộc 125 giống, 62 họ khác nhau chúng gồm có ba
nhóm sinh thái: Nhóm cá biển chiếm 65% tổng số loài
Nhóm cá nớc lợ khoảng 19,3% số loài
Nhóm cá nớc ngọt chiếm 15,7% số loài.
Nguồn lợi này cho sản lợng cao và có thể đánh bắt quanh năm(nh
bộ cá trích, cá mối, cá đồi, cá dìa, cá chép, cá dầy, cá bống, cá song, cá
hồng, cá khế, cá liệt ). Cá đầm phá không to bằng cá biển nhng ngon nên
đợc tiêu thụ mạnh và một số loài đang là đối tợng thủy sản xuất khẩu.
Vùng đầm phá có 12 loài tôm thuộc 3 họ trong đó có nhiều loài có
giá trị cao nh tôm sú, tôm bạc, tôm rằn, tôm đất có thể khai thác quanh
năm đặc biệt là tháng t và tháng chín. Ngoài cá và tôm vùng đầm phá còn
có cua, trai, vẹm xanh, sò huyết có giá trị kinh tế cao.
Vùng đầm phá Tam Giang có 73 loài chim trong đó có 34 loài di c
và 39 loài định c trong đó có 28 loài có giá trị kinh tế cao, 25 loài đợc ghi
21
trong danh mục bảo vệ nghiêm ngặt của cộng đồng châu Âu, một loài đợc
ghi trong sách đỏ Việt Nam.
Vùng đầm phá có nhiều loài thực vật có giá trị thực tiễn lớn đợc
khai thác dùng làm phân bón gồm tảo biển, thực vật có hoa. Các loài thực
vật là đối tợng khai thác để sản xuất agar nh rong câu thuộc ngành tảo đỏ.
Vùng cát trắng ven phá giáp với biển là nguồn nguyên liệu dồi dào
cho sản xuất thủy tinh pha lê, ngoài ra còn có một số vùng cát đen là
nguyên liệu sản xuất titan.
Tiềm năng lớn về nguồn lợi thủy hải sản là điều kiện thuận lợi để
phát triển công nghiệp chế biến các loại sản phẩm phục vụ tiêu dùng trong
nớc và xuất khẩu có giá trị kinh tế cao.
Sự kết hợp hài hòa cảnh quan thiên nhiên và cảnh quan văn hóa xã
hội tạo ra sự phong phú trong du lịch sinh thái. Khả năng phát triển du lịch
ở vùng biển và đầm phá là rất lớn, đặc biệt là các loại hình du lịch bằng tàu
thuyền trong sự liên quan mật thiết với trung tâm du lịch Huế. Từ vùng đầm
phá các tuyến du lịch có thể thông ra biển và nhiều vùng du lịch trong toàn
tỉnh bằng đờng thủy rất thuận lợi. Vùng đầm phá còn là nơi cung cấp nguồn
đặc sản thủy sản phục vụ khách du lịch. Cảng Thuận An là nơi ra vào của
hàng nghìn tấn hàng của các con tàu từ biển vào đất liền trên phá Tam
Giang. Chân Mây là vịnh nớc sâu đã đợc Chính phủ cho phép tỉnh đầu t xây
dựng vào tháng 7/2000.
- Về điều kiện kinh tế - xã hội: vùng đầm phá có tổng dân số là
314.500 ngời, chiếm trên 30% dân số của toàn tỉnh. Có 39.025 hộ gia đình,
bình quân 8 ngời/1 hộ. Tỷ lệ lao động chiếm khoảng 40,9% dân số trong đó
lao động nữ chiếm 55,9%. Lao động nông nghiệp cao nhất ở các xã thuộc
huyện Phong Điền chiếm 85%; thấp nhất ở các xã thuộc huyện Phú Lộc là
42%. Lao động thủy sản trung bình chiếm 20%. Mật độ dân số trung bình
399 ngời/km
2
; tỷ lệ tăng dân số 1,9%. Trong cộng đồng dân c các xã vùng
đầm phá có một bộ phận sống du c trên mặt nớc với khoảng 1.200 hộ
22
(10.000 ngời). Đông nhất là dân thủy diện huyện Phú Vang có 652 hộ
(3.512 ngời) và 1.479 lao động; sau đó là huyện Phú Lộc có 3.304 dân c
thủy diện. Thực tế cho thấy ng dân thủy diện đầm phá là những ngời có tín
ngỡng và tâm linh sâu đậm hớng vào nghề đánh bắt trên đầm phá. Với
những trắc ẩn của thiên nhiên vốn chứa đựng nhiều yếu tố thần linh, vô
hình, siêu hình trình độ dân trí thấp, đa số mù chữ, trẻ em thất học nhiều,
dân số tăng nhanh, các tệ nạn xã hội phát triển. Những năm vừa qua chơng
trình phổ cập giáo dục tiểu học đã đợc triển khai ở hầu hết các xã, tuy nhiên
vẫn còn hạn chế. Dân c đầm phá Thừa Thiên - Huế nói riêng và dân c Huế
nói chung cuộc sống ảnh hởng t tởng của Nho giáo và Phật giáo từ bao đời
nay. Văn hóa làng, xã với nếp sống truyền thống luôn tôn vinh quá trình
giáo dỡng cho nhân dân đạo lý làm ngời, có ý thức tôn s trọng đạo, xây
dựng thực hiện kỷ cơng gia đình và xã hội. Vùng đầm phá có lợi thế về giao
thông nhng cha khai thác đợc cho nên việc đi lại của dân còn cách trở dẫn
đến tình trạng yếu kém về trình độ văn hóa, mức sống của dân c trong vùng
nói chung còn thấp và không đồng đều giữa các khu vực, điều kiện hởng
thụ văn hóa thấp, tỷ lệ mù chữ cao so với toàn tỉnh. Nhìn chung, đời sống
văn hóa, tinh thần của dân c vùng đầm phá còn nghèo nàn lạc hậu. Tình
hình an ninh trật tự an toàn xã hội vùng đầm phá tơng đối ổn định. Tuy
nhiên, số ngời vợt biên khá lớn sau năm 1975, hiện nay hồi hơng trở về
ngày càng đông. Trên địa bàn có nhiều hoạt động viện trợ nhân đạo, hoạt
động từ thiện của các tổ chức phi chính phủ, tổ chức tôn giáo ở quy mô
nhỏ; trong đó có cả việc vận động dân c đi chùa, đi nhà thờ ngày càng
nhiều.
Về hệ thống giao thông phát triển ở cấp huyện, vùng đầm phá chủ
yếu là đờng cấp phối liên thôn liên xã. Điện lới về hầu hết các xã trong các
huyện, trên thực tế chỉ khoảng 45% - 50% dân số các xã dùng điện cho sinh
hoạt và sản xuất thấp hơn mức chung của cả tỉnh. Nguồn nớc ngọt cho sinh
hoạt rất khó khăn trong mùa hè. Thông tin liên lạc còn hạn chế tuy nhiên
các trung tâm dân c ven biển và đầm phá đều có trung tâm bu chính viễn
23
thông. Hệ thống cơ sở chăm sóc sức khỏe cộng đồng trên toàn vùng đã đợc
hình thành, nhng hạ tầng kỹ thuật của các bệnh viện, trạm xá bị xuống cấp
nghiêm trọng, đội ngũ y, bác sĩ thiếu Nh vậy với điều kiện tự nhiên, kinh
tế xã hội của vùng đầm phá nếu khai thác đúng và hết tiềm năng to lớn của
vùng sẽ trở thành những yếu tố rất tích cực đối với quá trình hình thành và
phát triển kinh tế hàng hóa của vùng.
- Các mối quan hệ cơ bản: mối quan hệ gắn bó giữa các vùng, các
ngành, các khâu, các yếu tố là cơ sở để phát huy và khai thác có hiệu quả
lợi thế của vùng, nâng cao khả năng chuyên môn hóa của vùng, góp phần
làm tăng tính hiệu quả của các hoạt động trong nền kinh tế. Mối quan hệ
liên kết vùng không những khơi dậy các nguồn lực phát triển nội tại của
vùng, mà còn tạo nên các nhu cầu sản xuất và tiêu dùng mới có tác dụng
kích thích các hoạt động kinh tế của các vùng khác ngành khác cùng phát
triển. Vai trò quan trọng nhất của mối quan hệ giữa vùng kinh tế là phát huy
đợc lợi thế so sánh đặc thù của mỗi vùng. Đồng thời còn trở thành một
trong những ngoại lực tác động trực tiếp vào cấu trúc kinh tế của vùng và
kết cấu xã hội của vùng tạo nên những cấu trúc hợp lý tơng quan giữa "nội
lực" và "ngoại lực" trong quá trình phát triển của từng vùng và của nền kinh
tế. Các mối quan hệ cơ bản nhằm phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá
Thừa Thiên - Huế đó là:
Thứ nhất, mối quan hệ giữa các yếu tố của quá trình sản xuất, bao
gồm các yếu tố đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất và tái sản xuất nh:
sức lao động, t liệu sản xuất (tàu thuyền, lới các loại, te, rớ, nò sáo ), yếu
tố về vốn khoa học kỹ thuật tạo điều kiện cho đánh bắt và nuôi trồng thủy
sản, đặc biệt là nuôi trồng thủy sản hiện nay. Lu thông hàng hóa là một
trong những nhân tố thúc đẩy mạnh mẽ quá trình sản xuất hàng hóa "Trớc
khi trao đổi những vật A và B cha phải là hàng hóa và chỉ có nhờ sự trao đổi
thì chúng mới trở thành hàng hóa" [29, 119]. Nền sản xuất hàng hóa càng
phát triển cao thị trờng lu thông hàng hóa càng đóng vai trò quan trọng.
Trong nền kinh tế hàng hóa thị trờng là "bàn bay vô hình" điều tiết và kích
24
thích sản xuất, tiêu dùng thông qua tác động của giá cả và quan hệ cung cầu
hàng hóa ở thị trờng. Vì vậy tìm kiếm thị trờng tiêu thụ sản phẩm hết sức
quan trọng. Mặt khác thông qua thị trờng đòi hỏi ngời sản xuất luôn phải
cải tiến kỹ thuật tăng năng suất lao động từ nuôi trồng, đánh bắt đến chế
biến sản phẩm, từ đó giảm giá thành sản phẩm hàng hóa. Các yếu tố của
quá trình sản xuất có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nếu ách tắc ở yếu tố
nào đó sẽ dẫn đến thiệt hại lớn, vì do đặc điểm của sản phẩm là sản phẩm t-
ơi sống.
Thứ hai, mối quan hệ giữa các ngành tạo điều kiện cho kinh tế hàng
hóa vùng đầm phá phát triển. Trớc đây dân c đầm phá sống chủ yếu dựa vào
trồng trọt và đánh bắt thủy sản mang tính tự cung tự cấp. Nuôi trồng thủy
sản phát triển mạnh từ năm 1995 đến nay đã đem lại hiệu quả kinh tế cao và
có khả năng làm giàu cho các hộ nuôi trồng. Vì vậy phát triển ngành thủy
sản của vùng đầm phá có mối quan hệ với các ngành khác đó là: quan hệ
với ngành chế biến "Phát triển công nghiệp chế biến thực phẩm và công
nghiệp hàng tiêu dùng nhằm đáp ứng nhu cầu trong nớc, đồng thời hớng
mạnh về xuất khẩu, u tiên phát triển những sản phẩm có lợi thế cạnh tranh
và hiệu quả cao" [18, 179]. Đối với thủy sản vùng đầm phá nhiều loại có
giá trị cao, phát triển công nghiệp chế biến đáp ứng nhu cầu trong nớc và
xuất khẩu. Chế biến thủ công phổ biến hiện nay của ng dân ven phá chỉ đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng trong tỉnh và một số tỉnh miền Trung.
Quan hệ với ngành trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp trồng rừng ven
biển đầm phá, đánh bắt hải sản ven bờ và xa bờ. Đây là những ngành mà
ng dân vừa đánh bắt nuôi trồng vừa kiêm thêm các nghề đó, tạo thu nhập
bảo đảm đời sống cho dân c, từ đó tạo điều kiện cho sản phẩm nuôi trồng đ-
ợc đem ra trao đổi mua bán thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển.
Điều kiện tự nhiên vùng đầm phá cho phép phát triển du lịch sinh
thái góp phần tạo nên sự phong phú đa dạng trong ngành du lịch của Thừa
Thiên - Huế đó là: các lăng tẩm, các chùa, suối, thác biển, vờn quốc gia
25