ỦY BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
SỞ TÀI NGUYÊN VÀ MƠI TRƯỜNG
CỘNG HỊA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số: 9272/STNMT-PC
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 01 tháng 11 năm 2022
Về góp ý dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi)
Kính gửi: Bộ Tài ngun và Mơi trường
Liên quan đến việc góp ý dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi), Sở Tài nguyên và
Môi trường thành phố Hồ Chí Minh đã có ý kiến góp ý tại Cơng văn số
6735/STNMT-VP ngày 15 tháng 8 năm 2022 theo Công văn số 4318/BTNMTTCQLĐĐ ngày 28 tháng 7 năm 2022 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc
góp ý đối với dự thảo Tờ trình, dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) và Phiếu ý kiến kèm
theo gửi Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Ngày 18 tháng 10 năm 2022, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường có
buổi làm việc với Thành ủy và Ủy ban nhân dân thành phố thành phố Hồ Chí
Minh liên quan đến đề xuất thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành
phố Hồ Chí Minh thay thế Nghị quyết số 54/2017/QH14 của Quốc hội và những
kiến nghị giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong lĩnh vực đất đai trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Qua nghiên cứu dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi), tình hình thực tiễn của Thành
phố và những nội dung trao đổi, thảo luận tại buổi làm việc nêu trên, Sở Tài
nguyên và Mơi trường thành phố Hồ Chí Minh đã tiếp thu, hồn chỉnh nội dung
góp ý dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) với các nội dung như sau:
I. Về bố cục của dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi)
Bố cục của dự thảo Luật chưa có tính kế thừa về thứ tự các điều khoản so
sánh với Luật Đất đai 2013, việc này dẫn đến sự khó khăn khi phải thực hiện tra
cứu và đối chiếu so với Luật Đất đai 2013 mặc dù tên của Dự án Luật là Luật Đất
đai (sửa đổi).
Vì vậy, Sở Tài ngun và Mơi trường thành phố Hồ Chí Minh đề nghị điều
chỉnh thứ tự các Chương, Điều khoản tương tự với Luật Đất đai 2013. Các Chương
mới nên bổ sung vào phần cuối của Dự thảo.
II. Về góp ý nội dung dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi)
1. Tại Điều 3. Giải thích từ ngữ
1.1. Tại điểm c khoản 6:
“6. Chiếm đất là việc sử dụng đất thuộc một trong các trường hợp sau đây:
2
….c) Sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất đã hết thời hạn sử
dụng mà không được Nhà nước gia hạn sử dụng đất và đã có quyết định thu hồi
đất được công bố, tổ chức thực hiện nhưng người sử dụng đất không chấp hành
(trừ trường hợp hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp sử dụng đất
nông nghiệp).”
Đề xuất sửa đổi, bổ sung: Đối với nội dung này, cần giải thích từ ngữ rõ
hơn để khi triển khai thực hiện tránh phát sinh vướng mắc, cụ thể: cần xác định rõ
trường hợp đã có quyết định thu hồi đất được cơng bố, tổ chức thực hiện theo quy
định của pháp luật, nhưng người sử dụng đất khơng chấp hành thì mới xác định là
trường hợp chiếm đất. (thay vì chỉ nêu “...đã có quyết định thu hồi đất được cơng
bố, tổ chức thực hiện” như Dự thảo).
1.2. Tại khoản 27:
27. Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết
thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hơn nhân và gia đình, có quyền
sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận
quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất.
Thực tiễn xét xử liên quan đến việc giải quyết tranh chấp đất đai, nhiều vụ
án, việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình nhưng khơng ghi
đầy đủ tên những người trong hộ cho nên khi giải quyết, việc xác định ai là thành
viên của hộ gia đình có quyền sử dụng đất rất khó khăn; hoặc chỉ ghi tên người
đại diện là chủ hộ nhưng khơng có văn bản ủy quyền giữa các thành viên khác.
Mục 4 Phần III Giải đáp số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 của Tòa
án nhân dân tối cao giải đáp một số vấn đề về nghiệp vụ đã có hướng dẫn để tháo
gỡ vướng mắc như sau:
- Thời điểm để xác định hộ gia đình có bao nhiêu thành viên có quyền sử
dụng đất là thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử
dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất.
- Việc xác định ai là thành viên hộ gia đình phải căn cứ vào hồ sơ cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Trường hợp cần thiết, Tịa án có thể u cầu Ủy
ban nhân dân có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất xác định
thành viên hộ gia đình tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để
làm căn cứ giải quyết vụ án và đưa họ tham gia tố tụng với tư cách là người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Đề xuất sửa đổi, bổ sung:
Để kịp thời giải quyết những khó khăn vướng mắc trong thực tiễn áp dụng
pháp luật, thành phố Hồ Chí Minh đề xuất bổ sung trách nhiệm của Ủy ban nhân
dân trong việc xác định thành viên hộ gia đình sử dụng đất như sau:
“27. Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hơn nhân, huyết
thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hơn nhân và gia đình, có quyền
sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận
quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất.
Việc xác định ai là thành viên hộ gia đình phải căn cứ vào hồ sơ cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Ủy ban nhân dân có thẩm quyền cấp Giấy chứng
3
nhận quyền sử dụng đất có trách nhiệm xác định thành viên hộ gia đình tại thời
điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
1.3. Tại khoản 36:
“32. Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất là việc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất lần đầu cho người đang sử dụng đất ổn định đối với
thửa đất xác định theo quy định của Luật này”.
- Đề nghị sửa đổi, bổ sung khái niệm như sau: “Nhà nước công nhận quyền
sử dụng đất là việc Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người đang sử dụng đất
ổn định mà không có nguồn gốc được Nhà nước giao đất, cho thuê đất thông qua
việc ban hành quyết định công nhận quyền sử dụng đất và cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối
với thửa đất xác định”.
1.4. Tại khoản 49:
“49. Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng
đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”.
Điều 40 dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) quy định:
“Điều 40. Quyền sử dụng hạn chế đối với thửa đất liền kề
“1. Quyền sử dụng hạn chế đối với thửa đất liền kề bao gồm quyền về lối
đi; cấp, thoát nước; tưới nước, tiêu nước trong canh tác; cấp khí ga; đường dây
tải điện, thông tin liên lạc và các nhu cầu cần thiết khác một cách hợp lý trên
thửa đất liền kề.
2. Việc xác lập quyền sử dụng hạn chế đối với thửa đất liền kề thực hiện theo
quy định của pháp luật về dân sự và phải thực hiện đăng ký theo quy định tại Điều
142 của Luật này”.
Như vậy, trong trường hợp phát sinh tranh chấp quyền sử dụng hạn chế đối
với thửa đất liền kề theo quy định nêu trên thì có được xem là tranh chấp đất đai
hay không? Trường hợp không được xem là tranh chấp đất đai, thì cần phải điều
chỉnh cho phù hợp.
Đề nghị sửa đổi, bổ sung khoản 49 Điều 3 như sau: “49. Tranh chấp đất
đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều
bên trong quan hệ đất đai, trừ trường hợp tranh chấp quyền sử dụng hạn chế đối
với thửa đất liền kề theo Điều 40 Luật này”.
2. Tại điểm a khoản 1 Điều 9. Người chịu trách nhiệm trước Nhà nước
đối với đất được giao để quản lý
“1. Người đại diện của tổ chức chịu trách nhiệm đối với việc quản lý đất
trong các trường hợp sau đây:
a) Tổ chức trong nước được giao quản lý cơng trình …. hành lang an tồn
các cơng trình theo quy định của pháp luật”.
Đề nghị sửa đổi, bổ sung như sau: thêm cụm từ "Cơng trình quan trắc khí
tượng thủy văn quốc gia, cơng trình giám sát biến đổi khí hậu quốc gia" vào danh
sách các cơng trình cơng cộng.
4
Đồng thời bổ sung vào khoản 1 Điều 211. Đất xây dựng cơng trình cơng
cộng có hành lang bảo vệ an tồn
1. Đất xây dựng cơng trình cơng cộng có hành lang bảo vệ an toàn gồm đất
xây dựng các hệ thống giao thơng, thủy lợi, phịng, chống thiên tai, đê điều, hệ
thống cấp nước, hệ thống thoát nước, hệ thống xử lý chất thải, hệ thống dẫn điện,
dẫn xăng dầu, dẫn khí, thơng tin liên lạc "Cơng trình quan trắc khí tượng thủy văn
quốc gia, cơng trình giám sát biến đổi khí hậu quốc gia và đất thuộc hành lang
bảo vệ an toàn.
3. Tại điểm a và c khoản 1 Điều 12. Căn cứ để xác định loại đất
Đề nghị sửa đổi, bổ sung như sau:
“1. Việc xác định loại đất dựa theo một trong các căn cứ sau đây:
a) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, …. Người sử dụng đất đã hồn thành
nghĩa vụ tài chính theo xác định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
c) Quyết định giao đất, .. và đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính đối với trường
hợp chưa được cấp Giấy chứng nhận quy định tại điểm a khoản này”.
4. Tại khoản 3 Điều 13. Những hành vi bị nghiêm cấm và điểm a khoản
1 Điều 88. Thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai
- Khoản 3 Điều 13: “3. Không đưa đất vào sử dụng, sử dụng đất khơng đúng
mục đích”.
- Điểm a khoản 1 Điều 88: “1. Các trường hợp thu hồi đất do vi phạm pháp
luật về đất đai bao gồm: “a) Sử dụng đất khơng đúng mục đích đã được Nhà nước
giao, cho th, công nhận quyền sử dụng đất và đã bị xử phạt vi phạm hành chính
về hành vi sử dụng đất khơng đúng mục đích mà tiếp tục vi phạm”;
Dự thảo Luật quy định hành vi không sử dụng đất, sử dụng đất khơng đúng
mục đích là hành vi bị nghiêm cấm và là căn cứ để thu hồi đất.
Đối với hành vi sử dụng đất khơng đúng mục đích, Dự thảo Luật không quy
định cụ thể về thời gian không sử dụng đất đúng mục đích để làm căn cứ xác định
hành vi không sử dụng đất, sử dụng đất khơng đúng mục đích nhằm hạn chế việc
lãng phí tài nguyên đất.
Đối với hành vi không sử dụng đất, Án lệ số 32/2020/AL và Án lệ số
33/2020/AL đã nhận định hành vi quản lý, sử dụng ổn định, lâu dài là một trong
những căn cứ để xác định người có quyền sử dụng đất đang có tranh chấp. Tuy
nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy quy định như thế nào là “ổn định, lâu dài” chưa
quy định rõ ràng, không sử dụng đất được hiểu là không quản lý sử dụng đất trong
thời gian bao lâu nên khi phát sinh tranh chấp, rất khó để áp dụng quy định này vì
khơng quy định người chủ sử dụng cũ được quyền đòi lại trong trường hợp nào,
điều này dẫn đến việc áp dụng pháp luật khơng thống nhất.
Do đó, cần có quy định cụ thể về thời gian không sử dụng đất, thời gian
khơng sử dụng đất đúng mục đích nhằm khắc phục tình trạng lãng phí tài ngun
đất, tối ưu hóa việc sử dụng nguồn vốn và nguồn lực của quốc gia trong đầu tư
phát triển và cơ sở để Tịa án các cấp có thể thống nhất trong đường lối xét xử khi
giải quyết tranh chấp đất đai.
5
Đề nghị bổ sung thêm một khoản vào Điều 13:
“... Lập hồ sơ khống trong quá trình kê khai, đăng ký cấp Giấy chứng nhận
và đăng ký biến động.”
→ Nội dung này nhằm xác định trách nhiệm và hạn chế việc người sử dụng
đất, người được người sử dụng đất ủy quyền cố tình thực hiện nhằm mục đích
riêng.
5. Tại khoản 3 Điều 18. Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận
quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất
Đề nghị sửa đổi, bổ sung khoản 3 như sau: “3. Quyết định công nhận
quyền sử dụng đất”.
6. Tại khoản 4 Điều 29. Nội dung quản lý nhà nước về đất đai
Đề nghị sửa đổi, bổ sung như sau: “4. Đo đạc, lập các bản đồ địa chính,
bản đồ hiện trạng sử dụng đất, bản đồ quy hoạch sử dụng đất; bản đồ cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất và các bản đồ chuyên
đề về quản lý, sử dụng đất”.
7. Tại Điều 32. Quyền của công dân đối với đất đai và Điều 34. Quy định
về quyền của công dân đối với đất đai và nghĩa vụ của công dân đối với quản
lý, sử dụng đất đai.
Luật mới chỉ đề cập đến quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam (là người
có quốc tịch Việt Nam theo quy định tại Điều 17 Hiến pháp 2013), trong khi đó
tại Điều 6 có quy định người sử dụng đất bao gồm cả “Người Việt Nam định cư ở
nước ngoài theo quy định của pháp luật về quốc tịch”, mà theo quy định của Luật
Quốc tịch hiện hành thì Người Việt Nam định cư ở nước ngồi bao gồm cơng dân
Việt Nam và người gốc Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngồi.
Bên cạnh đó, tại Điều 54 Hiến pháp 2013 cũng quy định “Tổ chức, cá nhân
được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất. Người sử
dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo
quy định của luật. Quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ”.
Như vậy, Hiến pháp khơng quy định chỉ có cơng dân Việt Nam mới có quyền
và nghĩa vụ đối với đất đai, do đó kiến nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu, bổ
sung điều khoản quy định về quyền và nghĩa vụ của “Người Việt Nam định cư ở
nước ngoài” trong việc quản lý, sử dụng đất đai.
Ngoài ra, tại khoản 7 Điều 32 về Quyền của công dân đối với đất đai: “Tham
gia đấu giá quyền sử dụng đất; tham gia đấu thầu dự án có sử dụng đất; đề nghị
Nhà nước giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu
thầu dự án có sử dụng đất theo quy định của pháp luật”
Cần làm rõ công dân (theo quy định tại Điều 17 Hiến pháp 2013 là cá nhân)
có được quyền tham gia đấu giá quyền sử dụng đất và tham gia đấu thầu dự án có
sử dụng đất hay khơng ? Đối với các dự án đầu tư có sử dụng đất, hiện tại chỉ thực
hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư dự án cho pháp nhân, khơng thực hiện
thủ tục đó cho cá nhân theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 32 Luật Đầu tư năm
2020 quy định về thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh: “1. Trừ các dự án đầu tư quy định tại Điều 30 và Điều 31 của Luật này,
6
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư đối với các dự án đầu tư
sau đây:
a) Dự án đầu tư có đề nghị Nhà nước giao đất, cho thuê đất không thông
qua đấu giá, đấu thầu hoặc nhận chuyển nhượng, dự án đầu tư có đề nghị cho
phép chuyển mục đích sử dụng đất, trừ trường hợp giao đất, cho thuê đất, cho
phép chuyển mục đích sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân khơng thuộc diện
phải có văn bản chấp thuận của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định của pháp
luật về đất đai”.
8. Tại Điều 36. Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê
lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất
Đề nghị sửa đổi, bổ sung điểm b, khoản 2
“b) ...Trường hợp quyền sử dụng đất của nhóm người sử dụng đất khơng
phân chia được hoặc không đủ điều kiện tách thửa theo phần thì ủy quyền cho
người đại diện để thực hiện quyền và nghĩa vụ của nhóm người sử dụng đất và
chỉ cấp một Giấy chứng nhận, hoặc hướng dẫn ghi chú đối với việc cấp nhiều
Giấy chứng nhận”.
9. Tại điểm b, c khoản 1 Điều 44. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức kinh
tế, đơn vị sự nghiệp công lập sử dụng đất thuê trả tiền thuê đất hàng năm
“1. Tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp công lập được Nhà nước cho thuê đất
thu tiền thuê đất hàng năm, có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
…b) Thế chấp tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất và quyền thuê
trong hợp đồng thuê đất tại các tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt
Nam;
c) Bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất và
quyền thuê trong hợp đồng thuê đất khi có đủ điều kiện quy định tại Điều 214 của
Luật này; người mua tài sản gắn liền với đất và quyền thuê trong hợp đồng thuê
đất được tiếp tục sử dụng đất theo mục đích đã được xác định”;
Đây là một chủ trương mới nhằm thể chế hóa Nghị quyết số 18-NQ/TW về
thương mại hóa quyền sử dụng đất và cơ bản thực hiện thực hiện thuê đất trả tiền
hàng năm và cơ chế góp đất, giao dịch qua sàn nên cần phải bổ sung vào Điều 3
về giải thích từ ngữ một khoản mới để làm rõ thuật ngữ "quyền thuê" được quy
định tại Điều 44 dự thảo.
10. Tại Điều 57. Điều kiện thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển
nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng
đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất
Đề nghị sửa đổi, bổ sung như sau:
- Điểm b, khoản 1: “Đất khơng có tranh chấp; khơng có văn bản của cơ
quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai về việc đã tiếp nhận đơn đề nghị
giải quyết tranh chấp đất đai, tài sản khác gắn liền với đất”.
Đề nghị sửa đổi, bổ sung vào khoản 1 nội dung sau: “Đất không bị ngăn
chặn giao dịch của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.
11. Về Quy hoạch sử dụng đất tại Chương V
7
11.1. Khoản 1 Điều 70. Kỳ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất: “1. Thời kỳ
quy hoạch sử dụng đất các cấp là 10 năm. Tầm nhìn của quy hoạch sử dụng đất
quốc gia, tầm nhìn của quy hoạch sử dụng đất quốc phịng, tầm nhìn của quy
hoạch sử dụng đất an ninh là 50 năm; tầm nhìn của quy hoạch sử dụng đất cấp
tỉnh là 30 năm; tầm nhìn của quy hoạch sử dụng đất cấp huyện là 20 năm”.
11.2. Điểm a khoản 2 Điều 72. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp tỉnh:
Nội dung quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh, bao gồm: “a) Định hướng sử dụng đất
10 năm, tầm nhìn 30 năm ...”.
11.3. Điểm a khoản 2 Điều 73. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp
huyện: Nội dung quy hoạch sử dụng đất cấp huyện, bao gồm: “Định hướng sử
dụng đất 10 năm, tầm nhìn 20 năm...”.
→ Đề xuất cơ quan chủ trì soạn thảo điều chỉnh thống nhất nội dung này
Đối với Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp huyện:
Đề nghị sửa đổi, bổ sung như sau: Bổ sung thêm một điều khoản quy định
cụ thể về việc tích hợp quy hoạch đô thị, quy hoạch xây dựng, quy hoạch nông
thôn và quy hoạch sử dụng đất để đồng bộ thống nhất, làm cơ sở lập kế hoạch sử
dụng đất hàng năm với các chỉ tiêu sử dụng đất được duyệt tạo thuận lợi cho hộ
gia đình, cá nhân có nhu cầu được chuyển mục đích sử dụng đất nếu cịn chỉ tiêu
trong năm kế hoạch sử dụng đất, mà cá nhân hộ gia đình khơng phải thực hiện
đăng ký kế hoạch sử dụng đất (là loại "giấy phép con" cần phải bỏ).
12. Điểm i, khoản 1, Điều 88. Về thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất
đai
“1. Các trường hợp thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai bao gồm: “i)
Đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự án đầu tư mà không
đưa đất vào sử dụng, chậm tiến độ sử dụng đất theo tiến độ ghi trong dự án đầu
tư thì chủ đầu tư phải nộp cho Nhà nước khoản tiền tương ứng với mức tiền sử
dụng đất, tiền thuê đất đối với thời gian chậm tiến độ thực hiện dự án đầu tư và
tiền thuế tăng thêm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 157 của Luật này”.
Như vậy, đối với trường hợp chậm triển khai dự án thì theo quy định của dự
thảo Luật phải thỏa mãn hai điều kiện đã bị xử phạt mà vẫn không sử dụng và
không nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất tăng thêm thì mới bị thu hồi đất.
Tuy nhiên, quy định như trên sẽ phát sinh trường hợp nhà đầu tư sau khi bị
xử phạt vẫn không đưa đất vào sử dụng nhưng họ chấp hành nộp tiền xử phạt, nộp
tiền sử dụng đất, tiền thuê đất tăng thêm thì cơ quan có thẩm quyền khơng thể thực
hiện thu hồi đất vì chưa thỏa tất cả các điều kiện.
Do đó, để hạn chế tình trạng dự án treo làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức cũng như làm lãng phí tài nguyên đất đai, đề xuất
điều chỉnh lại quy định nêu trên theo hướng trường hợp chậm triển khai dự án, đã
bị xử phạt mà vẫn không đưa đất vào sử dụng sẽ bị xem xét thu hồi theo quy định.
13. Tại Điều 89. Thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp
luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người
Đề nghị điều chỉnh tiêu đề Điều 89 thành "Điều 89. Thu hồi đất do chấm dứt
việc sử dụng đất theo pháp luật, do sắp xếp xử lý tài sản công, tự nguyện trả lại
8
đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người". Đồng thời, bổ sung thêm điểm h
khoản 1 Điều 89: "h) Thu hồi đất trong trường hợp do sắp xếp tài sản công"
Khoản 2 đề nghị bổ sung thêm điểm "g) Văn bản của cơ quan có thẩm quyền
về sắp xếp tài sản cơng".
14. Tại Điều 93. Trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, thu
hồi đất vì mục đích quốc phịng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích
quốc gia, cơng cộng
14.1. Điểm a, b khoản 3:
“3. Lập, thẩm định, phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
được quy định như sau:
a) ..., đồng thời niêm yết công khai phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư
nơi có đất thu hồi”.
…Việc tổ chức lấy ý kiến phải được lập thành biên bản có xác nhận của đại
diện Ủy ban nhân dân cấp xã, đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp
xã, đại diện những người có đất thu hồi.
…Đề nghị sửa đổi, bổ sung như sau: Cần quy định thời gian niêm yết là ít
nhất 20 ngày như quy định của Luật đất đai năm 2013 và về đại diện những
người có đất bị thu hồi trong việc tổ chức lấy ý kiến (về số lượng đại diện của
các hộ dân, cá nhân có đất bị thu hồi thực hiện Dự án).
14.2. Điểm a, d khoản 4:
“4. Việc quyết định thu hồi đất và tổ chức thực hiện phương án bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư được quy định như sau:
a) Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quy định tại Điều 90 của Luật này
quyết định thu hồi đất sau khi có quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư;”.
Ý kiến góp ý: Cần quy định rõ thời gian sau khi có quyết định phê duyệt
phương án bồi thường hỗ trợ thì trong thời gian bao nhiêu ngày phải ban hành
quyết định thu hồi đất (vì ban hành đồng loạt và sau khi có quyết định thu hồi
đất thì mới có cơ sở tính thời hạn 30 ngày phải chi trả bồi thường như điều 117
Luật Đất đai (sửa đổi) có quy định).
...c) Tổ chức thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, bố trí tái định cư theo phương án
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được phê duyệt”;
Ý kiến góp ý: Đối với trường hợp là đất và cơng trình trên đất là tài sản công
do các lực lượng vũ trang, doanh nghiệp nhà nước.., đang trực tiếp quản lý sử
dụng thì Luật cần quy định cụ thể là sau khi kiểm đếm, đo đạc.., thì phải bàn giao
ngay theo thời hạn quy định, vừa để làm gương cho các trường hợp khác vừa sớm
giải phóng mặt bằng để có thể tổ chức thi cơng, có tình trạng một số dự án không
thể tổ chức thi công được là do các tổ chức quản lý, sử dụng đất công lại chậm trễ
bàn giao mặt bằng nhưng chưa có quy định riêng đối với trường hợp này.
Đề nghị sửa đổi, bổ sung như sau:
c) Tổ chức thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, bố trí tái định cư theo phương án bồi
9
thường, hỗ trợ, tái định cư đã được phê duyệt. Đối với trường hợp đất và cơng trình
trên đất là tài sản công do các lực lượng vũ trang, doanh nghiệp nhà nước.., đang
quản lý sử dụng thì sau khi kiểm đếm, đo đạc.., phải bàn giao cho t ổ chức làm
nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng quản lý đất theo quy định tại khoản 5
Điều này. Việc bồi thường, hỗ trợ sẽ được thực hiện trên cơ sở pháp lý, số liệu đã
được kiểm đếm, đo đạc”.
14.3. Khoản 5:
“5. Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm
quản lý đất đã được giải phóng mặt bằng trong khi chưa giao đất, cho thuê đất”.
Đề xuất giao Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất có trách nhiệm quản lý đất
đã được giải phóng mặt bằng trong khi chưa giao đất, cho th đất là phù hợp vì
chỉ có địa phương nơi có đất thu hồi mới có đủ lực lượng quản lý mặt bằng (cũng
như xem lại điều chỉnh cho thống nhất với quy định tại khoản 2 Điều 92 Luật Đất
đai (sửa đổi) có nêu: “2. Cơ quan được quy định tại điểm a khoản 1 Điều này và
Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất có trách nhiệm quản lý, khai thác sử dụng quỹ
đất do Nhà nước đã thu hồi nhưng chưa giao, chưa cho thuê.”).
14.4. Khoản 6:
“6. Việc thu hồi đất ở chỉ được thực hiện sau khi hồn thành bố trí tái định
cư, trừ trường hợp tái định cư tại chỗ hoặc người có đất bị thu hồi đồng ý nhận
tiền bồi thường để tự lo chỗ ở hoặc người có đất bị thu hồi đồng ý.”
Đề nghị sửa đổi, bổ sung như sau: "việc thu hồi đất chỉ được thực hiện sau
khi hoàn thành bố trí tái định cư, trừ trường hợp tái định cư tại chỗ được giải
quyết chỗ ở tạm thời (tạm cư) hoặc thanh toán tiền để người tái định cư tự lo
chỗ ở trong thời gian chờ được tái định cư tại chỗ".
15. Tại khoản 2, 3 Điều 97. Nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước
thu hồi đất
- “2. Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm người có đất
bị thu hồi có chỗ ở, đảm bảo thu nhập và điều kiện sống bằng hoặc tốt hơn nơi ở
cũ”.
Cần phải quy định cụ thể, chi tiết về các tiêu chí “bảo đảm người có đất bị
thu hồi có chỗ ở, đảm bảo cuộc sống bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ” vì trên thực
tế công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư luôn phát sinh khiếu nại về giá bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư không phù hợp thực tế, nhiều trường hợp sau khi Nhà
nước thu hồi đất hộ dân gặp nhiều khó khăn về chỗ ở, kinh tế khó khăn do thay
đổi công việc.
- “3. Việc bồi thường về đất được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục
đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu khơng có đất để bồi thường thì được bồi
thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp
có thẩm quyền quyết định tại thời điểm phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư.”.
Cần làm rõ thời gian quy định việc phê duyệt giá đất cụ thể của loại đất thu
hồi… tại thời điểm phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, như vậy
10
được hiểu là giá đất phê duyệt trước hay sau hoặc cùng ngày để thống nhất thực
hiện đúng quy định.
16. Tại khoản 1 Điều 115. Bố trí tái định cư cho người có đất ở thu hồi
mà phải di chuyển chỗ ở
“1. Hộ gia đình, cá nhân có đất ở, người Việt Nam định cư ở nước ngoài
đang sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất tại Việt Nam khi Nhà nước thu
hồi đất đủ điều kiện được bồi thường về đất ở thì được bố trí tái định cư.”.
Hiện nay, do công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở, công nhận
quyền sử dụng đất ở cho hộ gia đình, cá nhân được quy định tại Điều 146, 147
quy định về có giấy tờ và khơng có giấy tờ về quyền sử dụng đất, nên trong q
trình thực hiện cơng tác bồi thường, hỗ trợ cho các trường hợp có nhà ở (theo hiện
trạng) nhưng bị thu hồi tồn bộ thì Ủy ban nhân dân cấp xã và Hội đồng bồi thường
dự án phải xác minh thời điểm xây dựng nhà ở, quá trình sử dụng.., việc này tạo
rất nhiều áp lực cán bộ cơng chức và có thể phát sinh tiêu cực trong trong cơng
tác. Do đó, cần điều chỉnh lại nội dung trên cho phù hợp với thực tế và cũng thống
nhất với các điều kiện về công nhận quyền sử dụng đất như đã nêu.
Đề nghị sửa đổi, bổ sung như sau:
“1. Hộ gia đình, cá nhân có đất ở, người Việt Nam định cư ở nước ngoài
đang sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất tại Việt Nam khi Nhà nước thu
hồi đất đủ điều kiện được bồi thường về đất ở hoặc hiện trạng là nhà ở (mà bị thu
hồi toàn bộ) được tạo lập trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 thì được bố trí tái định
cư”.
17. Tại khoản 2 Điều 117. Chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
“2. Trường hợp cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường chậm chi trả
thì khi thanh tốn tiền bồi thường, hỗ trợ cho người có đất thu hồi, ngồi tiền bồi
thường, hỗ trợ theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được cấp có thẩm
quyền phê duyệt thì người có đất thu hồi cịn được thanh tốn thêm một khoản
tiền bằng mức tiền chậm nộp theo quy định của Luật Quản lý thuế tính trên số
tiền chậm trả và thời gian chậm trả”.
Đề nghị sửa đổi, bổ sung như sau:
Nội dung trên cần quy định yếu tố lỗi của tổ chức, cá nhân trong quá trình
thực hiện việc nhiệm vụ được giao, cụ thể:
- Quy định cụ thể trách nhiệm việc chậm chi trả tiền bồi thường dẫn đến phải
chi thêm một khoản tiền bằng mức tiền chậm nộp theo quy định của Luật quản lý
thuế tính trên số tiền chậm trả và thời gian chậm trả.
- Quy định về nguồn kinh phí thực hiện chi thêm một khoản tiền bằng mức
tiền chậm nộp theo quy định của Luật Quản lý thuế tính trên số tiền chậm trả (nêu
trên).
18. Tại khoản 1 Điều 118. Việc tách nội dung bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư thành tiểu dự án riêng và trách nhiệm tổ chức thu hồi đất, bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư đối với dự án đầu tư:
11
“1. Trường hợp cần thiết, việc tách nội dung bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
thành dự án riêng đối với dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội xem xét, quyết
định; đối với dự án nhóm A do Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
xem xét, quyết định. Việc quyết định tách nội dung bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
thành dự án riêng đồng thời với phê duyệt chủ trương đầu tư dự án”.
Đề nghị sửa đổi, bổ sung thành: "...Hội đồng nhân dân cấp tỉnh xem xét,
quyết định; các dự án thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia,
cơng cộng quy định tại Điều 93 của Luật này do cấp có thẩm quyền xem xét, quyết
định...". Hiện dự thảo chỉ quy định việc tách nội dung bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư thành tiểu dự án riêng đối với dự án quan trọng quốc gia và dự án Nhóm A nên
đề nghị bổ sung thêm trường hợp đối với các dự án thu hồi đất để phát triển kinh
tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng quy định tại Điều 93 của Luật này phù
hợp chủ trương tại khoản 2.3 Nghị quyết 18-NQ/TW xác định: "tiếp tục thực hiện
thí điểm và sớm tổng kết chủ trương tách dự án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư ra
khỏi dự án đầu tư để thực hiện trước". Việc tách nội dung bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư thành tiểu dự án riêng sẽ giúp đẩy nhanh tiến độ thu hồi đất, sớm hoàn
thành dự án, tiết kiệm chi phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, hạn chế tình trạng
khiếu kiện, khiếu nại kéo dài. Do đó, cần có quy định được tách riêng việc bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng thành dự án đầu tư công độc lập
đối với các dự án nhóm B.
19. Tại khoản 2 Điều 120. Dự án thu hồi đất để tạo quỹ đất
“2. Dự án thu hồi đất để tạo quỹ đất sau khi được chấp thuận chủ trương
đầu tư thì đưa vào danh mục dự án thu hồi đất trình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
thông qua”.
Đề nghị sửa đổi, bổ sung như sau: “Dự án thu hồi đất để tạo quỹ đất sau
khi có quyết định chủ trương đầu tư thì đưa vào danh mục dự án thu hồi đất trình
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thông qua”
20. Tại Điều 121. Quỹ phát triển đất
Có 02 quan điểm góp ý, sửa đổi như sau:
20.1. Quỹ phát triển đất (Quan điểm 1):
“1. Quỹ phát triển đất của địa phương do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành
lập hoặc ủy thác cho Quỹ đầu tư phát triển, quỹ tài chính khác của địa phương để
tiếp nhận và ứng vốn cho việc bồi thường, giải phóng mặt bằng và tạo quỹ đất
theo quy định tại Điều 119 của Luật này.
2. Nguồn tài chính của Quỹ phát triển đất được phân bổ từ ngân sách nhà
nước và huy động các nguồn khác theo quy định của pháp luật.
3. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm trình Hội đồng nhân dân cùng
cấp quyết định phân bổ tối thiểu 10% nguồn thu từ tiền sử dụng đất, tiền thuê đất
hàng năm của địa phương cho Quỹ phát triển đất.
4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này”.
Đề nghị điều chỉnh, bổ sung thành:
"Điều 105. Quỹ phát triển đất
12
1. Quỹ phát triển đất là tổ chức tài chính nhà nước ngoài ngân sách trực
thuộc UBND cấp tỉnh được thành lập theo quy định của pháp luật.
2. Quỹ phát triển đất có chức năng ứng vốn để thực hiện dự án quy định tại
khoản 1 và khoản 2 Điều 120 của Luật này; ứng vốn để định giá đất, tổ chức đấu
giá quyền sử dụng đất, quản lý quỹ đất sau tạo lập; ứng vốn cho việc bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án khác.
3. Căn cứ kế hoạch sử dụng đất và điều kiện thực tế của địa phương, Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm trình Hội địng nhân dân cùng cấp quyết định
mức vốn điều lệ ngân sách nhà nước cấp cho Quỹ phát triển đất, ngân sách Nhà
nước ưu tiên bố trí vốn trong kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm để
hình thành đủ vốn điều lệ cho Quỹ phát triển đất.
4. Nghiêm cấm việc sử dụng Quỹ phát triển đất khơng đúng mục đích tại
khoản 1 điều này.
5. Chính phủ quy định chi tiết Điều này".
Lý do điều chỉnh: để phù hợp với Luật Ngân sách nhà nước (khoản 1 dự
thảo), để không trùng với chức năng của Tổ chức phát triển quỹ đất (ứng vốn) và
phù hợp với Luật Đầu tư công (Điều 5), Nghị định 163/2016/NĐ-CP (Điều 12) về
cấp vốn điều lệ.
20.2. Quỹ phát triển đất (Quan điểm 2):
Nội dung góp ý: do Tổ chức phát triển quỹ đất là chủ đầu tư các dự án bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư và giải phóng mặt bằng, Dự án thu hồi đất để tạo quỹ
đất theo khoản 2 Điều 120 dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) nên kiến nghị Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh, thành phố trình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố quyết
định phân bổ cho Tổ chức phát triển quỹ đất tối thiểu 10% nguồn thu từ tiền sử
dụng đất, tiền thuê đất hàng năm của địa phương để thực hiện các Dự án thu hồi
đất để tạo quỹ đất, thực hiện nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng và
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án khác; Tổ chức thực
hiện đấu giá; quản lý Quỹ đất sau tạo lập; các dự án đầu tư và tổ chức xây dựng
kết cấu hạ tầng trên đất để tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất. Đồng thời, để đẩy
nhanh tiến độ thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Tổ chức phát triển quỹ đất,
nhằm tinh gọn bộ máy, không phải thực hiện qua nhiều trình tự, thủ tục xin ứng
vốn, cấp vốn thực hiện. Đồng thời, kiến nghị không thành lập Quỹ Phát triển đất
theo Điều 119 của dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi)
21. Tại Điều 123. Tổ chức phát triển quỹ đất
21.1. Khoản 2: “2. Tổ chức phát triển quỹ đất có chức năng thực hiện các
dự án quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 120 của Luật này; thực hiện bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng cho các dự án khác; tổ chức đấu
giá quyền sử dụng đất; quản lý, khai thác quỹ đất và các nhiệm vụ khác do Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh quyết định”.
Đề nghị sửa đổi, bổ sung như sau: “2. Tổ chức phát triển quỹ đất có chức
năng thực hiện các dự án quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 120 của Luật này;
thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng cho các dự án khác;
thực hiện các thủ tục để chuyển cho các đơn vị có chức năng tổ chức đấu giá
13
quyền sử dụng đất; quản lý, khai thác quỹ đất; Lập dự án đầu tư và tổ chức xây
dựng kết cấu hạ tầng trên đất để tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất khi được Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi tắt là Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh) giao; Tổ chức thực hiện việc đầu tư xây dựng tạo lập và phát
triển quỹ nhà, đất tái định cư để phục vụ Nhà nước thu hồi đất và phát triển kinh
tế - xã hội tại địa phương khi được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao và các nhiệm
vụ khác do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định”.
21.2. Khoản 5: “5. Kinh phí hoạt động của Tổ chức phát triển quỹ đất quy
định tại khoản 3 Điều này và chi phí thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
quy định tại khoản 4 Điều này được sử dụng từ Quỹ phát triển đất".
Đề nghị điều chỉnh, bổ sung thành: "5. Kinh phí hoạt động của Tổ chức
phát triển quỹ đất quy định tại khoản 3 Điều này và chi phí thu hồi đất, bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư quy định tại khoản 4 Điều này được cấp từ ngân sách nhà nước;
ứng từ Quỹ phát triển đất. Chi phí sử dụng vốn từ Quỹ phát triển đất do Chính
phủ quy định chi tiết theo Điều 121 Luật này".
Lý do điều chỉnh: tăng tính tự chủ cho Tổ chức phát triển quỹ đất, có thể
ứng vốn từ Quỹ phát triển đất khi cần thiết đồng thời thống nhất với chức năng,
nhiệm vụ của Quỹ tại Điều 119 và quy định về kinh phí hoạt động của Ngân hàng
đất nơng nghiệp tại khoản 4 Điều 124 của Dự thảo. Đối với "Chi phí sử dụng vốn",
là cơ sở để các đơn vị lập dự toán chi trả cho Quỹ phát triển đất. Việc xác định chi
phí sử dụng vốn do Chính phủ quy định chi tiết theo Điều 121 của Dự thảo.
Ngoài ra, Dự thảo Luật đất đai (sửa đổi) chỉ quy định Tổ chức phát triển quỹ
đất trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Đề nghị Trung ương tiếp tục nghiên cứu
mơ hình Tổ chức phát triển quỹ đất ở cấp tỉnh và cấp huyện (Thành phố Hồ Chí
Minh sẽ tổ chức lại mơ hình hoạt động của Ban Bồi thường, giải phóng mặt bằng
cấp quận, huyện) để đảm bảo tính linh hoạt, phân định, chủ động trong cơng tác
bồi thường và đấu giá quyền sử dụng đất tại mỗi địa phương.
22. Tại khoản 5 Điều 127. Giao đất không thu tiền sử dụng đất
“5. Giao đất để xây dựng nhà ở, đất ở để phục vụ tái định cư theo dự án của
Nhà nước; xây dựng nhà chung cư cho người lao động làm việc trong các khu
công nghiệp thuê nhà ở xã hội và nhà ở công vụ”.
Đề nghị sửa đổi, bổ sung như sau: “5. Giao đất để xây dựng nhà ở, đất ở
để phục vụ tái định cư theo dự án của Nhà nước; xây dựng nhà chung cư cho
người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế
xuất, khu công nghệ cao thuê nhà ở xã hội và nhà ở công vụ”.
Bổ sung như trên để phù hợp với:
- Khoản 9 Điều 204: “9. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm xác định
nhu cầu xây dựng khu nhà ở, cơng trình cơng cộng phục vụ đời sống người lao
động làm việc trong khu công nghiệp, khu chế xuất để tích hợp vào quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất, quy hoạch đơ thị, nơng thơn. Khơng bố trí khu vực nhà ở của
người lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất”.
- Khoản 1 Điều 205: “1. Đất sử dụng cho khu công nghệ cao theo quyết
định thành lập của Thủ tướng Chính phủ bao gồm các loại đất để sử dụng vào
14
các mục đích theo quy định của pháp luật về công nghệ cao. Việc sử dụng đất cho
khu công nghệ cao phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch
xây dựng đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Khi quy hoạch, thành lập khu công nghệ cao phải đồng thời lập quy hoạch,
xây dựng khu nhà ở, cơng trình cơng cộng nằm ngồi khu công nghệ cao để phục
vụ đời sống chuyên gia, người lao động làm việc trong khu cơng nghệ cao”.
Ngồi ra, cần nghiên cứu bổ sung quy định cụ thể về giao đất, thuê đất, đấu
giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất để xây dựng nhà ở phục vụ
tái định cư theo dự án và nhà ở cải tạo xây dựng lại chung cư cũ, hư hỏng; quy
định việc lựa chọn chủ đầu tư xây dựng nhà ở cho người lao động tại các khu công
nghiệp, nhà ở xã hội, nhà ở để phục vụ tái định cư cho dự án ngoài ngân sách, cải
tạo, xây dựng lại chung cư thực hiện theo pháp luật về nhà ở.
23. Tại điểm đ, e khoản 1 Điều 134. Điều kiện để Nhà nước quyết định
giao đất, cho thuê đất không đấu giá quyền sử dụng đất, khơng đấu thầu dự
án có sử dụng đất
“1. Nhà nước giao đất, cho thuê đất không đấu giá quyền sử dụng đất, khơng
đấu thầu dự án có sử dụng đất đối với các trường hợp sau:
…đ) Giao đất ở cho hộ gia đình, cá nhân thường trú tại xã mà khơng có đất
ở và chưa được Nhà nước giao đất ở;
e) Giao đất ở cho hộ gia đình, cá nhân có hộ khẩu thường trú tại thị trấn
thuộc vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã
hội đặc biệt khó khăn mà khơng có đất ở và chưa được Nhà nước giao đất ở”;
Dự thảo Luật Đất đai chưa phù hợp với quy định của Luật Cư trú năm 2020
về hộ khẩu thường trú tại địa phương; Do đó, cần điều chỉnh nội dung về điều
kiện, đối tượng cho thống nhất với Luật Cư trú.
24. Tại khoản 4 Điều 135. Đấu giá quyền sử dụng đất
“4. Người trúng đấu giá phải đảm bảo hoàn thành dự án theo tiến độ nhưng
không quá 05 năm kể từ ngày được bàn giao đất tại thực địa”.
Việc quy định thời gian 05 năm kể từ ngày bàn giao đất trên thực địa phải
đảm bảo hoàn thành dự án mà chưa xem xét đến các yếu tố lỗi về việc chậm triển
khai dự án, khơng hồn thành. Do đó, để khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham
gia đấu giá và đưa đất vào sử dụng đúng tiến độ, dự thảo Luật cần quy định Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh giao cho các cơ quan như: Kế hoạch – Đầu tư, Xây dựng..,
phải thực hiện việc chấp thuận chủ trương đầu tư, cấp phép xây dựng.., trong một
thời gian nhất định phải hoàn thành các thủ tục cần thiết để người trúng đấu giá
có thể triển khai ngay việc thực hiện dự án hoặc có thể cấp trước các thủ tục đó
cho khu đất đấu giá, khi tổ chức, cá nhân trúng đấu giá thì chỉ ghi thơng tin vào là
có thể thực hiện dự án ngay. Đây cũng là biện pháp để thực hiện cải cách các thủ
tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng và khuyến khích việc tham gia đấu
giá đất.
Đề nghị sửa đổi, bổ sung như sau:
“4. Người trúng đấu giá phải đảm bảo hoàn thành dự án theo tiến độ nhưng
không quá 05 năm kể từ ngày được bàn giao đất tại thực địa và hoàn tất các thủ
15
tục liên quan đến đầu tư xây dựng theo quy định của pháp luật có liên quan”
25. Tại Điều 136. Đấu giá quyền sử dụng đất trong trường hợp đất chưa
được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc đối với trường hợp đất chưa hồn thành
cơng tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nhưng được tổ chức bán đấu giá sẽ không
khả thi khi các tổ chức, cá nhân sử dụng đất vẫn chưa bàn giao mặt bằng. Sau khi
trúng đấu giá, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được giao tổ chức thực hiện công tác bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư càng gặp khó khăn khi xác định giá đất cụ thể tính bồi
thường, hỗ trợ khi thu hồi đất, có thể phát sinh các vụ khiếu kiện đông người...
Đồng thời, quy định tại Điều 136 nêu trên chưa thống nhất với quy định tại
Điều 126 của dự thảo về việc giao đất, cho thuê đất đối với đất đang có người sử
dụng cho người khác: “Nhà nước quyết định giao đất, cho thuê đất đối với đất
đang có người sử dụng cho người khác chỉ được thực hiện sau khi cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quyết định thu hồi đất và phải thực hiện xong việc bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư theo quy định của pháp luật.”
Do đó, kiến nghị xem xét tính khả thi khi quy định việc đấu giá quyền sử
dụng đất trong trường hợp đất chưa được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư như Điều
136 dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) vì khi triển khai thực hiện có thể phát sinh
nhiều khó khăn, vướng mắc.
Tại Công văn số 6735/STNMT-VP ngày 15 tháng 8 năm 2022, Sở Tài
ngun và Mơi trường thành phố Hồ Chí Minh đã kiến nghị: “Về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư: Đối với trường hợp trên 80% người dân đã chấp thuận nhận bồi
thường trong các dự án đã được Nhà nước chấp thuận chủ trương thì Nhà nước
cần có quy định để chủ đầu tư tiếp tục bồi thường phần đất còn lại để dự án sớm
được triển khai. Ngoài việc phê duyệt giá bồi thường phù hợp với giá thị trường,
những doanh nghiệp vẫn phải hỗ trợ thêm cho người sử dụng đất vì trong thực tế
trước đó doanh nghiệp đã thỏa thuận với người sử dụng đất có mức giá cao. Do
đó, cần quy định mức hỗ trợ thêm bằng mức bình quân của mức doanh nghiệp đã
nhận chuyển nhượng trước đó trừ đi giá bồi thường được duyệt (giá thị trường)
và doanh nghiệp sẽ không được khấu trừ phần hỗ trợ thêm này khi thực hiện nghĩa
vụ tài chính”.
Do đó, Sở Tài ngun và Mơi trường thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị Ban
soạn thảo nếu vẫn quy định nội dung đấu giá quyền sử dụng đất trong trường
hợp đất chưa được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại Điều 136 dụ thảo thì đưa
các dự án dang dở vào thành một khoản để xử lý cho các dự án cịn vướng mắc,
trong đó một số hộ dân yêu cầu về đơn giá, về tái định cư.., ở mức cao hơn so với
thực tế mà chủ đầu tư không thể đáp ứng được dẫn đến việc dự án kéo dài nhiều
năm, khiếu nại, khiếu kiện kéo dài.
Trường hợp chủ đầu tư phải trả tiền bồi thường với giá cao “bất thường” phi
thị trường theo đòi hỏi vô lý của người đang sử dụng đất sẽ dẫn tới tác động tâm
lý không nhỏ đối với những trường hợp tương tự ở dự án khác, đặc biệt là các dự
án cơng ích do Nhà nước đầu tư, gây nhiều hệ lụy pháp lý và kinh tế không nhỏ
16
làm ách tắc trong đầu tư công đồng thời dẫn tới tình trạng đất đai của doanh nghiệp
khác bị bỏ hoang vì khơng thể đáp ứng được những địi hỏi vơ lý đó.
Điều kiện để Nhà nước áp dụng các biện pháp đấu giá quyền sử dụng đất
trong trường hợp đất chưa được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là dự án không
thể điều chỉnh quy mô do việc thỏa thuận của chủ đầu tư trước đây không liền khu
(da beo), sau khi bồi thường, tái định cư và thu hồi đất thì chủ đầu tư sẽ hốn đổi
lại cho Nhà nước khu đất tương ứng để đấu giá (phần đất đã thỏa thuận bồi thường
của chủ đầu tư được tiếp tục thực hiện dự án với diện tích tương ứng).
Đối với trường hợp các khu vực dự án có đất Nhà nước quản lý (kênh, rạch,
đường giao thơng, đất chưa sử dụng...) thực hiện giao đất cho chủ đầu tư dự án,
đồng thời kết hợp việc Chủ đầu tư dự án phải hoán đổi lại cho Nhà nước diện tích
đất ở theo đúng tỷ lệ quy hoạch được duyệt ở khu vực đó. Nhà nước sẽ trả lại chi
phí hạ tầng cho doanh nghiệp theo kiểm tốn. Đối với trường hợp này, đất Nhà
nước hốn đổi có được sẽ được quản lý theo quy định về tài sản công.
26. Tại Điều 143. Đăng ký lần đầu
“1. Đăng ký lần đầu đối với đất đai, tài sản gắn liền với đất được thực
hiện trong các trường hợp sau đây:
a) Thửa đất đang sử dụng mà chưa đăng ký;
b) Thửa đất được Nhà nước giao, cho thuê để sử dụng; chuyển mục đích
sử dụng đất đối với trường hợp phải xin phép;
...Đề nghị bổ sung thêm trường hợp: “Thửa đất được chuyển từ hình thức
Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm sang hình thức thuê đất thu
tiền một lần cho cả thời gian thuê; từ hình thức Nhà nước giao đất không thu tiền
sử dụng đất sang hình thức thuê đất; từ thuê đất sang giao đất có thu tiền sử dụng
đất theo quy định của Luật này”.
27. Tại Điều 146. Công nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá
nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có giấy tờ về quyền sử dụng đất
1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định mà có một trong các loại
giấy tờ quy định tại Điều 145 của Luật này thì được công nhận quyền sử dụng đất
và không phải nộp tiền sử dụng đất.
2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy
định tại Điều 145 của Luật này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo
giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan,
nhưng đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền
sử dụng đất theo quy định của pháp luật và đất đó khơng có tranh chấp thì được
cơng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất”.
Căn cứ theo quy định khoản 1 Điều 146 nêu trên thì hộ gia đình, cá nhân
đang sử dụng đất ổn định mà có một trong các loại giấy tờ tại Điều 145 Luật này
thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất. Tuy nhiên, khoản 2 Điều
146 chỉ quy định “Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại
giấy tờ quy định tại Điều 145 của Luật này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác,
kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên
17
quan, nhưng đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 chưa thực hiện thủ tục chuyển
quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật và đất đó khơng có tranh chấp thì
được cơng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất” mà không
xác định đất sử dụng ổn định như khoản 1 để xác định loại đất hay khơng.
Ví dụ: Trường hợp hộ gia đình, cá nhân nhận chuyển quyền sử dụng đất đối
với một phần diện tích đất của hộ gia đình, cá nhân khác có một trong các loại
giấy tờ tại Điều 145 (phần diện tích nhận chuyển quyền là một phần của khu đất
đã được cấp các loại giấy tờ tại Điều 145), tại thời điểm nhận chuyển quyền sử
dụng đất thì phần diện tích đất nhận chuyển nhượng sử dụng vào mục đích nơng
nghiệp nhưng sau đó người nhận chuyển nhượng sử dụng vào mục đích để ở thì
sẽ xác định mục đích chính sử dụng đất để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất là mục đích gì, đồng thời, trường hợp nhận chuyển nhượng một phần diện tích
mà có các loại giấy tờ tại Điều 145 có được xem là trường hợp có một trong các
loại giấy tờ quy định tại Điều 145 mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác theo quy
định tại khoản 2 Điều 146 nêu trên hay không.
→ Đề nghị quy định cụ thể nội dung nêu trên.
28. Tại khoản 1 Điều 147. Cơng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình,
cá nhân đang sử dụng đất mà khơng có giấy tờ về quyền sử dụng đất
“1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất trước ngày ngày 01 tháng 7 năm
2014 mà khơng có các giấy tờ quy định tại Điều 145 của Luật này, có hộ khẩu
thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ni
trồng thuỷ sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã
nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, khơng có tranh chấp thì
được cơng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất”.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 38 Luật Cư trú năm 2020, quy định: “3. Kể
từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành, Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú đã được cấp vẫn
được sử dụng và có giá trị như giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú theo quy định
của Luật này cho đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2022.
Trường hợp thông tin trong Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú khác với thông tin trong
Cơ sở dữ liệu về cư trú thì sử dụng thơng tin trong Cơ sở dữ liệu về cư trú.
Khi công dân thực hiện các thủ tục đăng ký cư trú dẫn đến thay đổi thông
tin trong Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú thì cơ quan đăng ký cư trú có trách nhiệm thu hồi
Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú đã cấp, thực hiện điều chỉnh, cập nhật thông tin trong Cơ
sở dữ liệu về cư trú theo quy định của Luật này và không cấp mới, cấp lại Sổ hộ
khẩu, Sổ tạm trú”;
Như vậy, việc quy định tại khoản 1 Điều 147 của dự thảo Luật Đất đai chưa
phù hợp với quy định của Luật Cư trú năm 2020 về hộ khẩu thường trú tại địa
phương; Do đó, cần điều chỉnh nội dung quy định về “Có hộ khẩu thường trú”
nhằm đảm bảo thực hiện công tác Công nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình,
cá nhân đang sử dụng đất mà khơng có giấy tờ về quyền sử dụng đất.
Ngồi ra, trường hợp các đương sự có đơn tranh chấp đất đai, đã được hịa
giải khơng thành tại Ủy ban nhân dân cấp xã đồng thời đã hướng dẫn đương sự
18
liên hệ cơ quan có thẩm quyền để được giải quyết tranh chấp tuy nhiên đương sự
không tiếp tục nộp đơn tranh chấp.
Sau đó, cơng dân nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, Ủy ban nhân dân cấp xã
thực hiện việc niêm yết theo quy định về việc tranh chấp liên quan nhà đất nêu
trên.
Do đó, đề xuất sửa đổi, bổ sung đối với quy định nêu trên như sau:
- Bỏ quy định về “Có hộ khẩu thường trú” nhằm đảm bảo thực hiện công
tác Công nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà
khơng có giấy tờ về quyền sử dụng đất.
- Bổ sung quy định: Trường hợp có bản án hoặc quyết định hịa giải thành
của Tịa án nhân dân các cấp thì Ủy ban nhân dân cấp xã chỉ xác nhận là đất
khơng có tranh chấp trong thời gian niêm yết.
29. Tại khoản 1, 3, 4, 6, 7 Điều 153. Nguyên tắc, thẩm quyền cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất
- Khoản 1: Để đảm bảo thống nhất quản lý, cập nhật hồ sơ địa chính, thể
hiện sơ đồ thửa đất trên trang 3 Giấy chứng nhận, kiến nghị điều chỉnh “1. Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất được cấp theo từng thửa đất. Trường hợp người sử dụng đất đang sử dụng
nhiều thửa đất nông nghiệp tại cùng một xã, phường, thị trấn mà có yêu cầu thì
được cấp một Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất chung cho các thửa đất đó”
Đề nghị bổ sung như sau: “1. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất được cấp theo từng thửa đất. Trường
hợp người sử dụng đất đang sử dụng nhiều thửa đất nông nghiệp liền kề trong
một tờ bản đồ tại cùng một xã, phường, thị trấn mà có u cầu thì được cấp một
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất chung cho các thửa đất đó”.
- Khoản 3: “…Trường hợp người sử dụng đất, chủ sở hữu nhà ở, tài sản
khác gắn liền với đất không thuộc đối tượng phải thực hiện nghĩa vụ tài chính
hoặc được miễn, được ghi nợ nghĩa vụ tài chính và trường hợp thuê đất trả tiền
thuê đất hàng năm thì được nhận Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ngay sau khi cơ quan có thẩm quyền
cấp”;
Đề nghị bổ sung thêm đoạn như sau “ngay sau khi cơ quan có thẩm quyền
cấp và xác nhận trường hợp này được ghi nợ nghĩa vụ tài chính”.
- Khoản 4: “4. Trường hợp quyền sử dụng đất hoặc quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất là tài sản chung của vợ và chồng thì phải ghi cả họ,
tên vợ và họ, tên chồng vào Giấy chứng nhận, trừ trường hợp vợ và chồng có thỏa
thuận ghi tên một người.
Đề nghị bỏ đoạn “…Trường hợp ….. Giấy chứng nhận để ghi cả họ, tên vợ
19
và họ, tên chồng nếu có yêu cầu” tại khoản 4.
Lý do: tại khoản 4 đã xác định phải ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng vào
Giấy chứng nhận trừ trường hợp vợ và chồng có thỏa thuận ghi tên một người.
- Khoản 6: “6. Trường hợp có sự chênh lệch diện tích giữa số liệu đo đạc
thực tế với số liệu ghi trên giấy tờ quy định tại Điều 145 của Luật này hoặc Giấy
chứng nhận đã cấp mà ranh giới thửa đất đang sử dụng không thay đổi so với
ranh giới thửa đất tại thời điểm có giấy tờ về quyền sử dụng đất, khơng có tranh
chấp với những người sử dụng đất liền kề thì khi cấp hoặc cấp đổi Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất diện
tích đất được xác định theo số liệu đo đạc thực tế. Người sử dụng đất không phải
nộp tiền sử dụng đất đối với phần diện tích chênh lệch nhiều hơn nếu có...”
Đề nghị sửa đổi, bổ sung thành: “6. Trường hợp có sự chênh lệch diện tích
giữa số liệu đo đạc thực tế với số liệu ghi trên giấy tờ quy định tại Điều 145 của
Luật này hoặc Giấy chứng nhận đã cấp mà ranh giới thực tế thửa đất đang sử
dụng không thay đổi so với ranh giới thực tế thửa đất tại thời điểm có giấy tờ về
quyền sử dụng đất....”
- Khoản 7: “7. Thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận do Cơ quan đăng ký đất
đai thực hiện theo quy định của Chính phủ”.
Đề nghị làm rõ thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận theo hướng Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh, cấp huyện cấp Giấy chứng nhận lần đầu; Cơ quan đăng ký cấp Giấy
chứng nhận đối với trường hợp có biến động.
30. Tại Điều 154. Các trường hợp không được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
Đề nghị bổ sung tại các khoản 1, 2, 3 về chủ thể “người quản lý, sử dụng
đất, người thuê đất...” vì việc cấp Giấy chứng nhận là “Người có quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu tài sản” mà không phải là cấp cho thửa đất.
- Khoản 4: đề nghị sửa đổi, bổ sung thành “Người sử dụng đất đủ điều kiện
được công nhận quyền sử dụng đất nhưng đã có quyết định thu hồi đất của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp đã quá 03 năm kể từ thời điểm có
quyết định thu hồi đất mà khơng thực hiện”.
Đề xuất bổ sung: "Chính phủ quy định chi tiết thực hiện nội dung này".
- Đề nghị bổ sung thêm một khoản vào Điều 154 như sau:“Đất đang tranh
chấp, đất có thơng báo giải quyết tranh chấp liên quan đất đai, đất có văn bản
ngăn chặn của các cơ quan có thẩm quyền”.
31. Tại Điều 156. Đính chính, thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp
- Khoản 1: Đề nghị bổ sung thêm nội dung đính chính, thu hồi Giấy chứng
nhận đối với trường hợp thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận trước đây khác với
thẩm quyền cấp Giấy theo luật hiện hành.
...“b) Có sai sót thơng tin về thửa đất, tài sản gắn liền với đất so với hồ sơ
kê khai đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất đã được cơ quan đăng ký đất đai
kiểm tra xác nhận”.
20
Đề nghị sửa đổi, bổ sung điểm b, khoản 1: “b) Có sai sót thơng tin về thửa
đất, sơ đồ thửa đất, tài sản gắn liền với đất so với hồ sơ kê khai đăng ký đất đai,
tài sản gắn liền với đất đã được cơ quan đăng ký đất đai kiểm tra xác nhận”.
Đề nghị bổ sung thêm vào khoản 2 trường hợp: “Thu hồi Giấy chứng nhận
theo đề nghị của cơ quan Thi hành án, Tòa án”.
32. Tại khoản 2 Điều 157. Các khoản thu tài chính từ đất đai và khoản
1 Điều 158. Điều tiết nguồn thu từ đất
- Khoản 2 Điều 157: “2. Các khoản thu tài chính từ đất đai là nguồn thu
của ngân sách trung ương và ngân sách địa phương theo quy định của Luật Ngân
sách Nhà nước”.
- Khoản 1 Điều 158:” 1. Nhà nước điều tiết nguồn thu từ đất của các tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương về ngân sách trung ương theo quy định của pháp
luật để phân bổ cho các địa phương thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh lương
thực, bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học, bảo đảm an ninh, quốc phòng, bảo
vệ, phục hồi đất bị thối hóa, ơ nhiễm.”
Căn cứ Điều 37 Luật Ngân sách Nhà nước năm 2015 thì ngân sách địa
phương được hưởng 100% khoản thu từ đất. Do đó, để đảm bảo phù hợp với luật
chuyên ngành, Thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị bỏ nội dung quy định tại khoản
1 Điều 158 dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi).
33. Tại khoản 3 Điều 160. Căn cứ, thời điểm tính tiền sử dụng đất, tiền
thuê đất
“3. Thời điểm tính thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất là thời điểm Nhà
nước quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất,
cơng nhận kết quả trúng đấu giá quyền sử dụng đất, kết quả trúng đấu thầu dự
án có sử dụng đất, quyết định cơng nhận quyền sử dụng đất, gia hạn sử dụng đất,
chuyển hình thức sử dụng đất, điều chỉnh quyết định giao đất, cho thuê đất”.
Trước khi Luật Đất đai 2013 có hiệu lực thi hành, với nhận thức “Nhà nước
quyết định” có nghĩa là ý chí của Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong cơng
tác quản lý sử dụng đất (có hoặc khơng có tài sản trên đất) được thể hiện bằng
văn bản để các đối tượng có liên quan căn cứ vào đó thực hiện nghĩa vụ và quyền
của mình, mà văn bản này được thể hiện dưới hình thức Quyết định hoặc Công
văn tùy theo đối tượng quản lý. Với nhận thức này, đối với trường hợp nhà đất
đã có Phương án rà soát, xử lý, sắp xếp do Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê
duyệt theo Pháp luật về quản lý sử dụng tài sản Nhà nước (trong đó đối tượng
được sử dụng đất; ranh giới, vị trí đất; mục đích, chế độ sử dụng đất; chỉ tiêu quy
hoạch kiến trúc,… đã được xác định khá cụ thể) thì Cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền căn cứ vào đó để xác định giá trị đất, thu tiền thuê đất, tiền sử dụng đất và
cấp Giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất
Tuy nhiên, sau khi Luật Đất đai 2013 có hiệu lực thi hành thì có quan điểm
cho rằng “ Nhà nước quyết định” có nghĩa là Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
phải ban hành văn bản dưới hình thức “Quyết định” với các trình tự, thủ tục theo
đúng quy định của Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành thì mới đảm
bảo căn cứ để thực hiện xác định giá trị đất, thu tiền thuê đất, tiền sử dụng đất và