TIỂU LUẬN: PHÁT HUY
VAI TRÒ CỦA HQND VIỆT
NAM TRONG THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH TƠN GIÁO
CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ
NƯỚC TA HIỆN NAY
2
MỞ ĐẦU
Việt Nam là một quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo. Hiện nay, Nhà nước đã
công nhận và cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo cho 43 tổ chức, thuộc
16 tơn giáo với hơn 27 triệu tín đồ, chiếm khoảng 28% dân số cả nước, trên
55.000 chức sắc, gần 150.000 chức việc, gần 30.000 cơ sở thờ tự. Đồng bào theo
các tôn giáo chủ yếu là nhân dân lao động, có tinh thần yêu nước, gắn bó với
dân tộc và chế độ XHCN, sống "tốt đời đẹp đạo". Trong suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh ln nhất qn quan
điểm thực hiện chính sách tơn trọng tự do tín ngưỡng, tơn giáo, chăm lo xây
dựng mối quan hệ đồn kết giữa người theo tơn giáo và người khơng theo tôn
giáo; tập hợp mọi tầng lớp nhân dân trong mặt trận chung, tạo thành lực lượng
cách mạng to lớn, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng do Đảng lãnh đạo.
Trong những năm tới, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến
phức tạp, khó lường. Đối với nước ta, công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH
đất nước tiếp tục đạt được nhiều thành tựu quan trọng, vị thế, uy tín của nước ta
trên trường quốc tế không ngừng được nâng lên. Tuy nhiên, trong thời kỳ hội
nhập kinh tế thế giới, đất nước ta vẫn cịn đứng trước những khó khăn, thách
thức mới; các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược "Diễn biến
hịa bình" với âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, phức tạp hơn,
trong đó, việc lợi dụng tự do tôn giáo để xuyên tạc, chống phá cách mạng nước
ta là một trong những nội dung trọng tâm của chúng. Đối với hoạt động tôn giáo,
bên cạnh xu thế hành đạo gắn bó với dân tộc, trong khn khổ pháp luật là chủ
yếu, vẫn cịn tiềm ẩn những yếu tố khó lường, ảnh hưởng đến an ninh chính trị,
trật tự, an tồn xã hội ở địa phương, cơ sở. Vì vậy để tiến hành thắng lợi công
cuộc đổi mới, hội nhập Quốc tế ở nước ta và công cuộc bảo vệ độc lập chủ
quyền quốc gia dân tộc ta hiện nay, trước hết đòi hỏi Đảng và nhà nước ta cần
phải có cái nhìn đúng đắn những vấn đề lí luận và thực tiễn về vấn đề tơn giáo
cũng như có những chính sách về tơn giáo một cách phù hợp và linh hoạt trong
tình hình hiện nay.
Vì vậy, nghiên cứu vấn đề “Phát huy vai trị của HQND Việt Nam trong
thực hiện chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay” có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn lớn trong giai đoạn hiện nay.
3
NỘI DUNG
Phần 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Phát huy vai trò của
Hải quân Nhân dân Việt Nam trong thực hiện chính sách tơn giáo của Đảng
và Nhà nước ta
1.1. Một số vấn đề lý luận về phát huy vai trò của Hải quân Nhân dân
Việt Nam trong thực hiện chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước ta
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về công tác tôn giáo
Kế thừa những quan niệm đúng đắn của các nhà triết học duy vật đi trước,
Mác - Ăngghen đã vạch ra một cách khoa học nguồn gốc, bản chất, tính chất và
vai trị của tôn giáo trong đời sống xã hội.
Khi bàn về vai trị của tơn giáo trong đời sống xã hội, Mác - Ăngghen cho
rằng, sự ra đời của tôn giáo một mặt là sự phản ánh hiện thực khách quan, mặt
khác nó cịn là sự phản kháng xã hội hiện thực với quá nhiều bất công, đau khổ.
Mác - Ăngghen, khi bàn đến vai trị của tơn giáo, cũng đã lưu ý đến khía cạnh
tơn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, nhu cầu của sự phát triển xã hội
trong những thời kỳ lịch sử nhất định.
Ăngghen, khi nghiên cứu đạo Cơ Đốc sơ kỳ cũng đã thừa nhận nó như là
sự phản ánh khát vọng của những người nơ lệ và trong bản thân nó có những
điểm tương đồng với lý tưởng của chủ nghĩa xã hội. Ông viết: “Trong lịch sử
đạo Cơ Đốc sơ kỳ có những điểm giống đáng lưu ý với phong trào công nhân
hiện đại, đạo Cơ Đốc nảy sinh như là một phong trào của những người bị áp
bức; lúc đầu nó là tôn giáo của những người nô lệ và nô lệ đã được tha, của
người nghèo và người vô quyền, của các dân tộc bị La Mã chinh phục hoặc đuổi
đi tản mát. Cả đạo Cơ Đốc lẫn chủ nghĩa xã hội cơng nhân đều tun truyền sự
giải phóng con người trong tương lai khỏi cảnh nô lệ và nghèo khổ”1.
Trên lập trường duy vật vô thần triệt để, chủ nghĩa Mác - Lênin dù có thừa
nhận những giá trị tích cực nhất định của tơn giáo, song vẫn phê phán nó, vì xét
cho cùng, tơn giáo vẫn hướng con người vào một thế giới ảo tưởng, an ủi họ
quên nỗi đau khổ ở cuộc sống hiện thực và hứa hẹn sự đền bù cho họ ở một thế
giới siêu nhiên. Trong khi đó, để khắc phục những khổ đau ở cuộc sống trần thế,
con người cần phải có phương tiện hiện thực, có nghị lực, dũng cảm sáng tạo
vượt qua trong xã hội hiện thực. Ăngghen đã chỉ ra điểm khác nhau căn bản giữa
đạo Cơ Đốc và chủ nghĩa xã hội, đó là: “Đạo Cơ Đốc tìm sự giải thoát ấy trong
cuộc sống trên trời, ở thế giới bên kia sau khi chết, còn chủ nghĩa xã hội thì tìm
1
C.Mác - Ph.Ăngghen Tồn tập, t.22, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995, tr.662.
4
nó ở thế giới bên này, ở việc tổ chức lại xã hội”2.
Theo Mác - Ăngghen, sự phản kháng của tơn giáo về cơ bản vẫn mang
tính tiêu cực, thụ động, nó khuyên con người chấp nhận hiện thực để mỗi người
tự hồn thiện mình, tách khỏi mọi mối quan hệ của xã hội hiện thực.
Tiếp tục quan điểm của Mác - Ăngghen, V. I. Lênin bổ sung, phát triển,
hoàn thiện thêm và chỉ ra vai trị của tơn giáo trong đời sống xã hội, về cơ bản,
là tác động tiêu cực. Tôn giáo dạy cho con người chịu đựng những đau khổ để
chờ đợi những điều tốt đẹp ảo tưởng, khơng có thực: “Những điều thiêng liêng
của đạo chính thống quý báu là ở chỗ nó dạy người ta chịu đựng đau khổ “không
một tiếng kêu ca”! Thực tế, điều thiêng liêng đó có lợi cho giai cấp thống trị biết
chừng nào!…tôn giáo dạy người ta chịu đựng “không một tiếng kêu ca”cái địa
ngục trần gian để chờ đợi một thiên đường nào đấy”3.
Lênin cho rằng, một mặt tôn giáo đem lại cho con người sự an ủi mơ hồ,
răn dạy họ nhẫn nhục trong cuộc sống thực để hy vọng được đền bù ở cõi sống
khác, mặt khác tôn giáo là sự biện hộ cho các thế lực bóc lột và khuyên những
người bị bóc lột hãy cam chịu cuộc sống hiện tại. Người viết: “Đối với những ai
suốt đời vẫn lao động và sống trong cảnh thiếu thốn, tôn giáo dạy họ phải sống
theo tinh thần cam chịu và nhẫn nhục trong cuộc sống dưới trần gian, bằng cách
làm cho họ hy vọng sẽ được đền đáp khi lên thiên đường. Còn đối với những kẻ
sống bằng lao động của người khác, tôn giáo dạy họ hãy làm điều thiện ở thế
gian, biện hộ một cách rẻ tiền cho tồn bộ cuộc đời bóc lột của chúng, và bán rẻ
cho chúng những tấm thẻ để lên thiên đường của những người hạnh phúc”4.
Lênin đã chỉ ra rằng, khi tôn giáo bị giai cấp tư sản lợi dụng làm cơng cụ
chính trị thì nó trở thành “thứ rượu tinh thần, làm cho những người nô lệ của tư
bản mất phẩm cách con người và quên mất hết những điều họ địi hỏi để được
sống một cuộc đời đơi chút xứng đáng với con người”5.
Tôn giáo được Lênin xem xét gắn liền với thực tiễn đấu tranh cách mạng
của giai cấp vô sản, trong điều kiện lịch sử cụ thể của nước Nga và châu Âu cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Chính vì vậy, Lênin nói đến vai trị tiêu cực của tơn
giáo và giáo hội cũng trong một tình huống rất cụ thể: tơn giáo và giáo hội tôn
giáo bị giai cấp tư sản lợi dụng làm cơng cụ để bảo vệ chế độ bóc lột, đầu độc
quần chúng bị áp bức. Lúc này, mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư
sản đã trở nên gay gắt và trong xã hội đó, “Tơn giáo là một trong những hình
thức áp bức về tinh thần, luôn luôn và bất cứ ở đâu cũng đè nặng lên quần chúng
2
C.Mác - Ph.Ăngghen Toàn tập, t.22, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995, tr.663.
V.I.Lênin: Tồn tập, t.6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.331.
4
V.I.Lênin: Tồn tập, t.6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.170.
5
V.I.Lênin: Tồn tập, t.6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.170.
3
5
nhân dân khốn khổ vì phải lao động suốt đời cho người khác hưởng, vì phải chịu
cảnh bần cùng cơ độc”6. Do điều kiện và yêu cầu của cách mạng đương thời, các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu
các khía cạnh khác như văn hóa, tâm lý, tình cảm, đạo đức... của tơn giáo. Do
đó, các ơng rất ít đề cập đến vai trị tích cực của tơn giáo trong đời sống xã hội.
Đây là một trong những vấn đề địi hỏi các đảng cộng sản và giai cấp cơng nhân
cần phải tiếp tục vận dụng phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin
đi sâu tìm hiểu tơn giáo từ nhiều góc độ khác nhau để có cách nhìn khách quan,
khoa học về hiện tượng xã hội này.
1.1.2. Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm chỉ đạo của
Đảng ta về công tác tôn giáo
1.1.2.1. Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về cơng tác tôn giáo
Quán triệt và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin vào
điều kiện cụ thể ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng nên hệ thống
quan điểm về tơn giáo, tín ngưỡng rất phong phú, đa dạng, độc đáo, sáng tạo,
góp phần to lớn vào thắng lợi của cơng tác tơn giáo nói riêng và sự nghiệp cách
mạng nói chung. Quan điểm đó được thể hiện trên một số nội dung cơ bản sau:
Một là, xem xét vấn đề tơn giáo, tín ngưỡng một cách tồn diện, trên quan
điểm lịch sử cụ thể.
Tơn giáo và tín ngưỡng được Chủ tịch Hồ Chí Minh xem xét dưới góc độ
văn hóa, triết học và đạo đức. Đối với tôn giáo, ngay từ năm 1943, trong mục
đọc sách của tập Nhật ký trong tù, Người đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục
đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngơn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Tồn bộ những
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hố” 7. Tuy khẳng định “tơn giáo là duy tâm,
cộng sản là duy vật”8, nhưng theo Người, trong văn hóa và đạo đức tơn giáo
“Cái gì tốt thì ta nên khơi phục và phát triển, cịn cái gì xấu, thì ta phải bỏ đi” 9,
điều này đã thể hiện sâu sắc quan điểm lịch sử cụ thể trong xem xét, đánh giá về
tơn giáo của Người.
Đối với tín ngưỡng truyền thống của dân tộc ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhận định: “Người dân An Nam khơng có linh mục, khơng có tơn giáo theo cách
nghĩ của châu Âu. Việc cúng bái tổ tiên hoàn toàn là một hiện tượng xã hội…
6
V.I.Lênin: Tồn tập, t.6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.169.
Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 3, Nxb CTQG, H.2011, tr.458.
8
Hồ Chí Minh, Sđd, tập 8, tr.200, tr.374.
9
Hồ Chí Minh, Sđd, tập 11, tr.557, tr.405.
7
6
Những người già trong gia đình hay các già bản là người thực hiện những nghi
lễ tưởng niệm”10. Tuy một số chức sắc, tín đồ tơn giáo có những hành động làm
phương hại đến khối đại đoàn kết dân tộc, nhưng “phần lớn đồng bào tôn giáo…
đều yêu nước kháng chiến” và dù là lương hay giáo thì nhân dân ta đều tốt cả.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý
của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề tôn giáo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã tập trung nghiên cứu về Kitô
giáo trong bối cảnh cuộc đấu tranh tư tưởng đang diễn ra gay gắt ở phương Tây,
trong khi Hồ Chí Minh là người đã rất tường tận và chịu ảnh hưởng sâu đậm từ
văn hóa, tín ngưỡng của phương Đơng. Từ nhận thức đó, Người đã tiếp cận và
giải quyết thỏa đáng các vấn đề liên quan đến tôn giáo ở Việt Nam để phục vụ
sự nghiệp cách mạng.
Hai là, luôn thể hiện sự tôn trọng đối với những người sáng lập ra các
tơn giáo, đánh giá cao vai trị và sự hy sinh, đóng góp của các bậc “chí tơn”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất tơn trọng, khâm phục tinh thần hy sinh cao cả
của những người sáng lập ra Phật giáo, Kitơ giáo. Người nói: “Tín đồ Phật giáo
tin ở Phật; tín đồ Giatơ tin ở đức Chúa Trời;... Đó là những vị chí tơn nên chúng
ta tin tưởng”.
Người ln ca ngợi tấm lòng bác ái cao cả của Chúa, tinh thần từ bi, hỷ
xả, cứu độ chúng sinh của Phật và cho rằng mục đích cao cả của các vị ấy giống
nhau ở chỗ họ đều muốn “mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã
hội”11. Người nhận thức rõ những điểm khác biệt của từng tôn giáo và chấp nhận
nó như một phần tất yếu của sự nghiệp cách mạng; đồng thời đã khai thác và
phát huy triệt để những điểm tương đồng trong quan điểm tư tưởng của các bậc
“chí tơn” để thu hút, động viên, tập hợp quần chúng theo đạo cùng đoàn kết để
tiến hành sự nghiệp cách mạng. Người đã gắn nhiệm vụ cách mạng với lý tưởng
của những người sáng lập ra các tơn giáo một cách hài hịa, tự nhiên, thể hiện
một phương pháp cách mạng độc đáo mang đậm phong cách Hồ Chí Minh.
Ba là, khẳng định sự tồn tại của tôn giáo là một tất yếu lịch sử, luôn đồng
hành cùng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Từ sự phân tích, đánh giá chính xác các hiện tượng tín ngưỡng, tơn giáo ở
Việt Nam, trong điều kiện tình hình thế giới và trong nước đang có những diễn
biến hết sức phức tạp, Người vẫn khẳng định tôn giáo đã và đang tồn tại tất yếu
dưới chủ nghĩa xã hội. Trả lời câu hỏi của cử tri Hà Nội: “Tiến lên chủ nghĩa xã
10
Hồ Chí Minh, Sđd, tập 1, tr.463.
Dẫn theo Hồ Chí Minh truyện, bản dịch Trung văn của Trương Niệm Thức, Bát Nguyệt xuất bản xã, Thượng
Hải, 6/1949.
11
7
hội thì tơn giáo có bị hạn chế khơng?”, Người khẳng định rõ: “Không. Ở các
nước xã hội chủ nghĩa, tín ngưỡng hồn tồn tự do. Ở Việt Nam ta cũng vậy” 12.
Điều đó lý giải quan điểm của Hồ Chí Minh rằng: trên con đường cách mạng
của dân tộc ta ln có sự tham gia, đồng hành của đồng bào các tơn giáo, từ
cách mạng giải phóng dân tộc đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, giải quyết hài hịa mối quan hệ giữa vấn đề tơn giáo - dân tộc.
Trên cơ sở nhận thức rõ Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc và đa tôn
giáo, mỗi tơn giáo tuy có lịch sử hình thành, du nhập, số lượng tín đồ, chức sắc,
cơ sở thờ tự, vị trí vai trị xã hội và đặc điểm khác nhau, nhưng mọi tơn giáo đều
tồn tại trong lịng dân tộc và do đó lợi ích của từng tơn giáo cũng gắn liền với lợi
ích của quốc gia, dân tộc… nên Hồ Chí Minh rất quan tâm đến mối quan hệ đặc
biệt này. Người cho rằng: đối với người Công giáo, khơng có gì vui mừng hơn
khi họ vừa là con chiên ngoan đạo, vừa là người yêu nước theo tinh thần “kính
Chúa – yêu nước”, “phụng sự Thiên Chúa – phụng sự Tổ quốc”, “nước có vinh
thì đạo mới sáng”, “nước có độc lập thì đạo mới được tự do”, “Thượng đế và Tổ
quốc muôn năm!”13 … Theo Người, đối với đồng bào theo đạo thì đức tin tơn
giáo và lịng u nước ln thống nhất với nhau. Một người dân Việt Nam yêu
nước đồng thời cũng chính là một tín đồ chân chính và ngoan đạo, ngược lại,
một kẻ chống lại dân tộc, Tổ quốc mình thì cũng chính là một kẻ phản Chúa.
Trong bài báo Tuyên truyền cộng sản đăng trên Báo Cứu Quốc số 2046 ra ngày
01/4/1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Những người Cơng giáo Việt Nam
theo Pháp và bù nhìn, làm hại đồng bào, chẳng những là Việt gian, mà cũng là
giáo gian. Cịn những đồng bào Cơng giáo kháng chiến mới là tín đồ chân chính
của Đức Chúa, vì những đồng bào ấy thật thà phụng sự Đức Chúa, phụng sự Tổ
quốc”; đồng thời yêu cầu người Công giáo tốt phải là người cơng dân tốt, kính
Chúa và u nước vừa là trách nhiệm công dân, vừa là bổn phận con Chúa.
Năm là, xác định rõ mục đích, nhiệm vụ của cơng tác tơn giáo là để đồn
kết đồng bào có đạo, đồn kết giữa các tơn giáo, đồn kết tồn dân tộc.
Một trong những tư tưởng đặc sắc và đóng góp to lớn của Hồ Chí Minh
vào sự phát triển lý luận Mác-Lênin về tôn giáo là đã xác định: mục đích cao
nhất, nội dung xun suốt của cơng tác tơn giáo là để tăng cường khối đại đồn
kết tồn dân, đoàn kết lương giáo, đoàn kết giữa đồng bào các dân tộc tôn giáo
khác nhau, làm cho “nước vinh, đạo sáng”, “tốt đời, đẹp đạo”, góp phần ngày
càng to lớn vào công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Cho nên, ngay cả những lúc
vận mệnh của cách mạng như “ngàn cân treo sợi tóc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh
12
13
Hồ Chí Minh, Sđd, tập 11, tr.557, tr.405.
Hồ Chí Minh, Sđd, tập 4, tr.169, tr.544, tr.8.
8
vẫn xác định một trong sáu nhiệm vụ cấp bách đầu tiên mà Chính phủ Việt Nam
dân chủ cộng hịa phải thực hiện là: “Tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết”.
Để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết lương giáo, Người đã chỉ ra sự
đồng thuận giữa mục tiêu của cách mạng với mục đích của những người sáng
lập tôn giáo. “Nay đồng bào ta đại đoàn kết, hy sinh của cải xương máu, kháng
chiến đến cùng, để đánh tan thực dân phản động, để cứu quốc dân ra khỏi khổ
nạn, để giữ quyền thống nhất và độc lập của Tổ quốc. Thế là chúng ta làm theo
lòng đại từ đại bi của Đức Phật Thích Ca, kháng chiến để đưa giống nịi ra khỏi
cái khổ ải nô lệ”14 và với trách nhiệm của người đứng đầu Nhà nước, Người
khẳng định rõ: “…những việc chính phủ và nhân dân ta làm, đều hợp với tinh
thần Phúc âm”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Đảng ta lãnh đạo, chỉ đạo tồn
dân làm hết sức mình, kể cả hy sinh xương máu để giữ gìn sự đồn kết đó, đồng
thời phê phán sâu sắc cách nhìn thiển cận trong xây dựng khối đoàn kết lương
giáo. Người cho rằng: “Tư tưởng hẹp hịi thì hành động cũng hẹp hịi. Tư tưởng
hẹp hịi thì nhiều thù mà ít bạn (như vấn đề tơn giáo). Người mà hẹp hịi thì ít kẻ
giúp. Đồn thể mà hẹp hịi thì khơng phát triển”.
1.1.2.2. Quan điểm của Đảng và nhà nước về công tác tôn giáo
Công tác tôn giáo luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, chỉ đạo
xuyên suốt trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan điểm chỉ đạo của
Đảng và nhà nước ta gồm những nội dung sau:
Một là, công tác tôn giáo phải vừa quan tâm giải quyết hợp lý những nhu
cầu tín ngưỡng của quần chúng, vừa kịp thời đấu tranh chống kẻ địch lợi dụng
tôn giáo để phá hoại sự nghiệp cách mạng.
Quan điểm này xuất phát từ hai vấn đề sau:
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội và còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tơn
giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tơn giáo có nhiều điểm phù
hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới. Việc giải quyết những nhu cầu hợp lý
về tín ngưỡng, tôn giáo của quần cúng là một nhiệm vụ của các tổ chức Đảng và
cơ quan nhà nước các cấp. Mọi hành vi vi phạm tự do tín ngưỡng, tơn giáo phải
bị ngăn chặn và xử lý.
Do tính chất chính trị của tơn giáo và sự lợi dụng tơn giáo của các thế lực
thù địch chống phá sự nghiệp cách mạng, mọi hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tơn
giáo để chống lại nhà nước ta, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân đều bị xử lý
theo pháp luật.
Hai là, Đảng và Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đồn kết
14
Hồ Chí Minh, Sđd, tập 5, tr.228, tr.228, tr.93.
9
tồn dân tộc.
Đồn kết đồng bào theo các tơn giáo khác nhau; đồn kết đồng bào theo
tơn giáo và đồng bào khơng theo tơn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích
cực của truyền thống nhờ cúng tổ tiên, tơn vinh những người có cơng với Tổ
quốc và nhân dân. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để hoạt
động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích
động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
Trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về các
văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, trong hệ thống các nhiệm vụ trung tâm và
giải pháp chủ yếu thứ năm, Đảng ta nhấn mạnh: “Tập trung hoàn thiện và triển
khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tơn giáo; có những chính sách đặc thù
giải quyết khó khăn cho đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt đồn kết tơn
giáo, đại đồn kết tồn dân tộc. Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá
hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cản trở sự phát triển của đất nước”15
Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng nhân dân.
Sở dĩ xác định như vậy vì đại đa số tín đồ các tơn giáo là quần chúng lao
động, có tinh thần yêu nước và gắn bó với dân tộc trong cuộc đấu tranh giành
độc lập tự do và xây dựng cuộc sống hạnh phúc. Từ việc chăm lo những lợi ích
thiết thân trong đó có nhu cầu tín ngưỡng, tơn giáo chính đáng, các chính sách
và việc làm cụ thể của Đảng và Nhà nước ta sẽ thuyết phục, lơi cuốn, tập hợp bà
con có đạo tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mọi thái độ đối xử
thô bạo, mệnh lệnh, áp đặt một chiều hồn tồn xa lạ với cơng tác vận động
quần chúng.
Đảng ta khẳng định: “Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tơn giáo,
chức sắc, tín đồ sống “tốt đời, đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho cơng cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy
định của pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận. Phát huy
những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự
phát triển đất nước”16.
Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của tồn hệ thống chính trị do
Đảng lãnh đạo.
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phức tạp, có liên quan đến nhiều lĩnh
15
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.50-51
16
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.171
10
vực của đời sống xã hội. Do đó cơng tác tôn giáo bao gồm nhiều mặt: nghiên
cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để khơng ngừng hồn thiện chính sách tôn giáo,
thực hiện công tác vận động quần chúng, chức sắc, tổ chức quản lý nhà nước đói
với các hoạt động tôn giáo và các tổ chức của tôn giáo. Vì vậy cơng tác tơn giáo
là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đảng ta nhấn mạnh: “Tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt
đúng quy định của pháp luật; chủ động giúp đỡ, giải quyết các nhu cầu hoạt
động tơn giáo, tín ngưỡng, tâm linh của quần chúng, đồng thời chủ động phòng
ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để
chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nâng cao năng lực, hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước về công tác tôn giáo”17
Năm là, theo đạo, truyền đạo và hoạt động tôn giáo phải tuân thủ đúng
Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước.
Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở tự hợp pháp
theo quy định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước nhận được
hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo,
môi trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách và giữ gìn, sửa
chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tơn giáo của mình theo đúng quy định của pháp
luật. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức
truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, Đảng ta
xác định: “Thực hiện tốt mục tiêu đồn kết tơn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc.
Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của mọi người theo quy định của
pháp luật. Phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tơn giáo vào giữ gìn và
nâng cao đạo đức truyền thống xã hội, xây dựng đời sống văn hóa ở các khu dân
cư, góp phần ngăn chặn các tệ nạn xã hội”18
1.2. Thực trạng phát huy vai trò của Hải quân Nhân dân Việt Nam
trong thực hiện chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước ta
Ở nước ta có 16 tơn giáo như: Phật giáo, Cơng giáo, Tin lành, Cao Đài,
Phật giáo Hòa Hảo, Hồi giáo, Tôn giáo Baha’I, Tịnh độ Cư sỹ Phật hội, Cơ đốc
Phục lâm, Phật giáo Tứ Ân Hiếu nghĩa, Minh Sư đạo, Minh lý đạo - Tam Tông
Miếu, Bà-la-môn giáo, Mặc môn, Phật giáo Hiếu Nghĩa Tà Lơn, Bửu Sơn Kỳ
Hương đang cùng chung sống hịa bình, đồn kết và đồng hành cùng dân tộc,
góp phần làm phong phú thêm bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, chung sức xây
17
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 2, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.141
18
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.272
11
dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Quan điểm của Đảng về “các nguồn
lực của các tôn giáo” xác định là những nguồn lực của các tôn giáo, tổ chức tôn
giáo được Nhà nước công nhận nêu trên. Các nguồn lực của các tôn giáo rất đa
dạng: nguồn lực con người có tơn giáo; nguồn lực từ cơ sở vật chất, nguồn vốn,
khả năng vận động, huy động tài chính; những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp
của tôn giáo....
Những năm qua, các đơn vị hải quân đã tích cực quán triệt và tổ chức thực
hiện tốt quan điểm, chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước, nhất là các nghị
quyết, chỉ thị, hướng dẫn của cấp trên về cơng tác tơn giáo trong tình hình mới.
Đặc biệt là thường xuyên tổ chức các đợt hành quân dã ngoại, kết hợp làm công
tác dân vận, tuyên truyền, vận động đồng bào các tôn giáo chấp hành nghiêm
đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia xây dựng cơ sở
địa phương vững mạnh, đấu tranh chống lại những âm mưu, thủ đoạn lợi dụng
vấn đề tôn giáo, dân tộc của các thế lực thù địch.
Tuy vậy, việc phát huy vai trò của các đơn vị trong hải quân trong việc
thực hiện chính sách tơn giáo cịn bộc lộ hạn chế: hoạt động tun truyền,vận
động đồng bào các tôn giáo chưa thường xuyên, liên tục; nội dung, hình thức và
phương pháp chưa sát với đặc điểm từng đối tượng và địa bàn cụ thể; chưa kết
hợp chặt chẽ giữa tham gia phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng với
tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân. Do đó, hiệu quả chưa tương xứng
với công sức và tiền của đã đầu tư. Một số đơn vị chưa linh hoạt trong thực hiện
vai trò làm tham mưu cho các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng cơ sở
chính trị vùng đồng bào tôn giáo. Công tác tuyển chọn, đào tạo, bố trí và sử
dụng những quân nhân cùng tộc người, cùng tín ngưỡng, tơn giáo trong các đơn
vị có nơi chưa được quan tâm đúng mức.
Trên bình diện xã hội, hoạt động tôn giáo ở Việt Nam đang đặt ra một số
vấn đề đáng quan tâm như: Một số chức sắc tôn giáo chưa thực sự nêu cao trách
nhiệm cơng dân trong thực hiện khối đại đồn kết dân tộc, đồn kết các tơn giáo,
có nơi cịn biểu hiện lợi dụng tín ngưỡng tơn giáo để tăng cường hoạt động mê
tín dị đoan và thực hiện những điều bất chính, thiếu văn hóa, làm vẩn đục đời
sống tinh thần của nhân dân, thậm chí có nơi diễn ra các hoạt động kích động tín
đồ tham gia chống phá Đảng, Nhà nước và quân đội. Trong văn kiện Đại hội
XIII của Đảng đã chỉ ra “Quản lý Nhà nước về văn hóa, nghệ thuật, tơn giáo, tín
ngưỡng có mặt cịn hạn chế. Có hiện tượng thương mại hóa các hoạt động tín
ngưỡng, tơn giáo ở một số nơi”19.
Đặc biệt những năm gần đây, Đạo Tin lành tăng nhanh về số lượng tín đồ,
gây nhiều phức tạp về chính trị - xã hội với các điểm nhóm ở khu vực Tây Bắc,
Tây Nguyên, Tây Nam Bộ. Một số đạo lạ, tà đạo xuất hiện và tổ chức truyền đạo
trái pháp luật, tập trung vào vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa,
khu vực huyện đảo... Vấn đề lợi dụng tơn giáo gắn với sắc tộc để kích động tư
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 2, Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.73
19
12
tưởng ly khai tự trị trong cộng đồng người H’Mông, Chăm, Khmer, v.v. đang có
chiều hướng phức tạp. Sự xuất hiện những “điểm nóng” của Cơng giáo liên quan
đến vấn đề đất đai, cơ sở thờ tự, v.v. đã gây khơng ít khó khăn đến cơng tác vận
động quần chúng của các cấp, các ngành trong lực lượng vũ trang, tiềm ẩn
những nhân tố có thể gây mất ổn định. Một số đơn vị trong Hải quân còn lúng
túng, bị động khi tham gia giải quyết các "điểm nóng" này.
Thực trạng trên có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân chủ quan
là trình độ dân trí ở một số vùng đồng bào tơn giáo cịn thấp. Mặt khác, cán bộ
cơ sở một số địa phương chưa nắm vững các chính sách, pháp luật về tơn giáo;
vai trị chức năng đội công tác của một số đơn vị hải quân trong thực hiện chính
sách tơn giáo chưa hiệu quả. Thực hiện chính sách tơn giáo là vấn đề có ý nghĩa
chiến lược của cách mạng Việt Nam, đó vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước; đồng thời là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống
chính trị, các tổ chức đồn thể xã hội và của tồn dân. Trong đó, tổ chức qn
đội nói chung và hải qn nói riêng giữ vai trị rất quan trọng, nhất là ở các vùng
sâu, vùng xa, nơi biên giới, hải đảo. Để phát huy vai trò của tổ chức hải qn
trong thực hiện chính sách tơn giáo thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, các đơn vị hải quân cần tập trung thực hiện tốt một số vấn đề cơ
bản sau:
Thứ nhất, Hải quân là một trong những lực lượng trực tiếp tuyên truyền
vận động đồng bào có tín ngưỡng, tơn giáo chấp hành nghiêm đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo của các
thế lực thù địch. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật của cán bộ,
chiến sĩ, phải nhằm giúp đồng bào nhận thức đúng và chấp hành nghiêm những
quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng: “Việc theo đạo, truyền đạo cũng
như mọi hoạt động tôn giáo đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Không
được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan hoặc
truyền đạo trái phép”. Động viên chức sắc, tín đồ, các tổ chức tôn giáo sống tốt
đời, đẹp đạo. Làm cho đồng bào các tôn giáo thực sự tin tưởng sự lãnh đạo của
Đảng và tham gia đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thường xuyên tuyên truyền, phổ biến các văn bản luật, pháp lệnh, chỉ thị,
thông tư, hướng dẫn thực hiện các hoạt động tự do tín ngưỡng, tơn giáo, giúp
đồng bào hiểu đúng và làm trịn nghĩa vụ cơng dân. Hình thức tiến hành phải đa
dạng, phong phú, linh hoạt thông qua các phương tiện thơng tin đại chúng, các
cuộc mít tinh, hội họp và hoạt động phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội ở
địa phương để tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân. Qua đó,
động viên, hướng dẫn, giúp đỡ họ thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, thực
hiện bình đẳng trước pháp luật, vừa tự do tham gia các hoạt động theo lễ nghi
tôn giáo, vừa chấp hành nghiêm chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực hiện
“sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”.
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN của đất
nước, cần mở rộng và nâng cao hiệu quả các hoạt động hướng dẫn, giúp đỡ nhân
13
dân trong sản xuất, phát triển kinh tế, cải thiện đời sống của đồng bào vùng sâu,
vùng xa, các dân tộc ít người, các thành phần tơn giáo đặc biệt khó khăn nhằm
khơng ngừng củng cố, tăng cường mối quan hệ quân - dân. Đẩy mạnh công tác
dân vận của các đơn vị trong các đợt hành quân dã ngoại với hoạt động của các
tổ, đội cơng tác, đồn kinh tế - quốc phòng, bảo đảm cho cán bộ, chiến sĩ có điều
kiện tiếp xúc với đồng bào, củng cố, tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết
toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Thứ hai, Hải quân là một trong những lực lượng quan trọng tham gia phát
triển KT-XH, góp phần cải thiện và từng bước nâng cao đời sống của đồng bào
có tín ngưỡng, tơn giáo hiện nay.
Đây vừa là chức năng, nhiệm vụ, vừa là yêu cầu đặt ra cho tổ chức quân
đội trong giai đoạn mới.Theo đó, cần đẩy mạnh việc triển khai thực hiện các chủ
trương, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội góp phần cải thiện và từng bước
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân vùng đồng bào các dân tộc,
tôn giáo. Thông qua thực hiện các mơ hình kết hợp kinh tế với quốc phịng, xây
dựng các khu dân cư - xã hội, chung sức xây dựng nông thôn mới, đẩy mạnh
hoạt động của các tổ, đội cơng tác, đồn kinh tế - quốc phịng của quân đội, các
đợt lao động của các đơn vị để giúp đồng bào định canh, định cư, phát triển sản
xuất, xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở ở nông thơn, miền núi, tham gia các cuộc
vận động xố đói, giảm nghèo, phịng chống dịch bệnh, chăm sóc sức khoẻ, bảo
vệ tài nguyên môi trường theo chức trách và nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị.
Thực tế, với lực lượng hùng hậu và khả năng cơ động cao, bảo đảm tốt
hậu cần, kỹ thuật tại chỗ, Hải quân là lực lượng rất quan trọng trong phòng chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân, đặc
biệt trên hướng biển trong vận chuyển hàng hóa... Mặt khác, lực lượng hải qn
cịn góp phần quan trọng định hướng tư tưởng, nâng cao nhận thức cho nhân
dân, qua đó góp phần xây dựng cuộc sống mới, làm cho các hoạt động sinh hoạt
tôn giáo ngày càng lành mạnh, phong phú, phù hợp với các chuẩn mực, đạo đức
xã hội, pháp luật. Bên cạnh đó cần phát huy vai trị của các đơn vị đóng quân ở
biên giới, hải đảo, khu vực miền cao, tây nguyên... trong tổ chức các hoạt động
giao lưu văn hoá, thể thao ở các địa phương, hoạt động đền ơn đáp nghĩa, phòng
chống tệ nạn xã hội, bài trừ mê tín dị đoan, hủ tục lạc hậu, qua đó góp phần nâng
cao đời sống văn hóa cho nhân dân.
Thứ ba, Góp phần xây dựng và giúp đỡ các tổ chức chính trị - xã hội ở địa
phương trong cơng tác vận động đồng bào có tín ngưỡng, tơn giáo.
Coi trọng việc giáo dục, bồi dưỡng quân nhân gốc đạo trở thành những
người con ưu tú, nhằm phát triển lực lượng quan trọng thực hiện công tác tuyên
truyền, vận động đồng bào các dân tộc, tơn giáo, qua đó tác động trực tiếp đến
tâm tư, tình cảm và thái độ của toàn thể người dân theo đạo sinh sống trên địa
bàn. Cần tập trung tuyên truyền, quán triệt sâu sắc đến mọi cán bộ, chiến sĩ
trong quân đội các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước, của Quân ủy Trung
ương về Cơng tác tơn giáo trong tình hình mới, đặc biệt là Pháp lệnh tín ngưỡng
14
tơn giáo, Nghị quyết Trung ương 7 (Khóa IX), Chỉ thị số 01 của Thủ tướng
Chính phủ, Chỉ thị 36 của Quân ủy Trung ương, Hướng dẫn số 456/HD-CT của
Tổng cục Chính trị, Văn kiện đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII của Đảng;
đồng thời vạch rõ những âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tự
do tín ngưỡng, tơn giáo để chống phá Nhà nước. Chú trọng giáo dục cho quân
nhân bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng, phong cách, tác phong
chính quy, lối sống mẫu mực, làm nịng cốt trong công tác tuyên truyền vận
động đồng bào tôn giáo
Thứ tư, Hải quân là lực lượng quan trọng trong đấu tranh chống âm mưu, thủ
đoạn lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo của các thế lực thù địch, góp phần bảo vệ cuộc
sống và sinh hoạt tín ngưỡng, tơn giáo lành mạnh của nhân dân.
Đồn kết dân tộc và tơn giáo là sức mạnh vĩ đại góp phần quyết định
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đó chính là tư tưởng trong chiến lược đại
đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Các thế lực thù địch đang tìm mọi cách lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo.
Với cái gọi là Đạo “Vàng Chứ” của “Vương quốc HMông tự trị”; Đạo Tin lành
Đề-ga độc lập của “Nhà nước “Đề-ga độc lập”, hay “Nhà nước Khmer Krôm”,
các thế lực thù địch đã và đang sử dụng những thủ đoạn tinh vi để lơi kéo, kích
động, tổ chức quần chúng biểu tình và bạo loạn hịng phá hoại an ninh quốc gia,
đe dọa độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Vì vậy
các đơn vị hải quân cần phối hợp chặt chẽ với cấp uỷ đảng, chính quyền địa
phương tiến hành điều tra, khảo sát, nắm vững tình hình dân tộc, tín ngưỡng, tơn
giáo, nắm diễn biến hoạt động và những thủ đoạn chống phá của các lực lượng
thù địch trên từng địa bàn, từ đó đề xuất chủ trương, biện pháp đấu tranh phịng,
chống có hiệu quả nhất, sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống xảy ra.
Khi có vụ việc phức tạp liên quan đến vấn đề dân tộc, tôn giáo, hải quân
là lực lượng tham mưu cho cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương, chủ động hiệp
đồng chặt chẽ nhằm tạo sự thống nhất, đồng bộ trong quá trình giải quyết vụ
việc. Cần phát huy tốt vai trị của các tổ, đội cơng tác tăng cường ở từng địa
phương, lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên trong tuyên truyền giáo dục,
thuyết phục đối với đồng bào, cô lập những phần tử quá khích, làm thất bại mọi
âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch, giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an tồn xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN
trong tình hình mới.
Phần 2: Yêu cầu và giải pháp phát huy vai trò của Hải quân Nhân
dân Việt Nam trong thực hiện chính sách tơn giáo của Đảng, Nhà nước ta
hiện nay
15
2.1. Yêu cầu phát huy vai trò của Hải quân Nhân dân Việt Nam trong
thực hiện chính sách tơn giáo của Đảng, Nhà nước ta hiện nay
Là một bộ phận trong hệ thống chính trị đất nước, có chức năng, nhiệm vụ
của một đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất,
làm nòng cốt của nền quốc phịng tồn dân bảo vệ Tổ quốc XHCN, lực lượng vũ
trang (LLVT) nhân dân có vai trị, trách nhiệm rất lớn trong việc tham gia thực
hiện đường lối, chính sách tơn giáo của Đảng, Nhà nước. Với truyền thống đoàn
kết quân - dân, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, trên cơ sở quán triệt
sâu sắc các chỉ thị, nghị quyết, nghị định của Đảng, Chính phủ về CTTG trong
tình hình mới, ngày 23-2-1999, Thường vụ Đảng uỷ Quân sự Trung ương đã ra
Chỉ thị số 36/ĐUQSTW “Về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo Quân đội thực hiện
CTTG trong tình hình mới”. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân chủng
Hải quân lần thứ XII, XIII đều đề cập đến nội dung thực hiện CTTG, u cầu
tham gia cơng tác dân vận, góp phần xây dựng cơ sở chính trị, xóa đói, giảm
nghèo trên các địa bàn chiến lược, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, khu vực
huyện đảo và vùng có đạo. Theo đó, CTTG của HQND Việt Nam bao gồm
những nhiệm vụ chủ yếu sau:
Một là, thường xuyên tổ chức quán triệt, nâng cao nhận thức cho đảng
viên, cán bộ, chiến sĩ, quân nhân chun nghiệp, cơng nhân viên chức quốc
phịng về vấn đề tự do tín ngưỡng, tơn giáo và vai trị của CTTG theo quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta. Trên cơ sở đó, đề cao ý
thức trách nhiệm của từng tổ chức, từng con người trong việc thực hiện CTTG ở
từng cơ quan, đơn vị; xây dựng ý thức cảnh giác của mỗi cán bộ, chiến sĩ trước
âm mưu, thủ đoạn "Diễn biến hịa bình", "phi chính trị hóa" qn đội, lợi dụng
vấn đề tự do tín ngưỡng, tơn giáo của các thế lực thù địch để hòng chia rẽ nội bộ
quân đội và mối quan hệ máu thịt truyền thống giữa quân đội với nhân dân.
Hai là, nghiên cứu, cụ thể hóa quan điểm, chủ trương, chính sách tơn
giáo của Đảng và Nhà nước phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ của Quân chủng
trong tình hình mới. Theo đó, cơng tác tuyển qn, tuyển sinh, bồi dưỡng đảng
viên mới, tạo nguồn cán bộ phục vụ lâu dài trong Quân chủng và tạo nguồn cán
bộ cho địa phương phải thực hiện đúng Quy định của Bộ Quốc phịng, Hướng
dẫn của Tổng cục Chính trị và các cơ quan chức năng. Trong xây dựng đơn vị,
các cấp phải duy trì nghiêm Điều lệnh Quản lý bộ đội, Quy chế dân chủ ở cơ sở,
bảo đảm đoàn kết nội bộ; nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử; chú trọng
giáo dục, bồi dưỡng, tạo điều kiện để quân nhân có đạo phấn đấu tu dưỡng, rèn
luyện trở thành những quân nhân ưu tú, có nhận thức, quan điểm, tư tưởng đúng
đắn, bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
16
Trong quá trình tại ngũ, yêu cầu mọi quân nhân có đạo hay khơng có đạo đều
phải chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội; nếu đủ tiêu chuẩn
theo quy định của Điều lệ Đảng, được xem xét, bồi dưỡng, kết nạp Đảng; được
tuyển chọn đào tạo cán bộ, sĩ quan, nhân viên chuyên môn kỹ thuật để phục vụ
lâu dài trong quân đội. Việc kết nạp đảng viên, cử quân nhân có đạo, gốc đạo đi
học và việc tham gia sinh hoạt tôn giáo của đảng viên có đạo, gốc đạo được thực
hiện chặt chẽ, tuân thủ các quy định của Trung ương và cơ quan có thẩm quyền.
Ba là, chủ động phối hợp với các cấp, các ngành, các địa phương, huyện
đảo, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân, nhất là các chức sắc,
nhà tu hành và tín đồ các tơn giáo nâng cao lòng yêu nước, tinh thần độc lập, tự
chủ, ý thức gắn bó với dân tộc, với chế độ XHCN, thực hiện tốt chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chăm lo xây dựng cuộc sống "tốt
đời, đẹp đạo". Tổ chức tuyên truyền cho bà con ra khơi bám biển, mỗi con tàu ra
khơi là một cột mốc chủ quyền. Tổ chức thực hiện tốt công tác bồi dưỡng kiến
thức quốc phòng - an ninh (QP-AN) cho các đối tượng, trong đó hết sức chú
trọng đối tượng là chức sắc, chức việc các tôn giáo; thông qua giáo dục, tuyên
truyền, làm cho đồng bào có đạo nhận thức sâu sắc đường lối, chính sách tơn
trọng tự do tín ngưỡng, tơn giáo của Đảng, Nhà nước ta; khẳng định quan điểm
của Đảng, Nhà nước ta luôn coi đồng bào các tôn giáo là một bộ phận quan
trọng trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng phấn đấu thực hiện mục tiêu
"dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"; chú trọng phát
huy những giá trị tốt đẹp của các tôn giáo vào xây dựng xã hội mới; khuyến
khích các tơn giáo hoạt động tn thủ pháp luật, đóng góp tích cực vào sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và củng cố QP - AN; đồng thời, đề cao cảnh
giác, đấu tranh với âm mưu, thủ đoạn của chiến lược "Diễn biến hịa bình", lợi
dụng tự do tín ngưỡng, tơn giáo để chống phá sự nghiệp cách mạng của các thế
lực thù địch.
Bốn là, các đơn vị đứng chân trên các địa bàn có đơng đồng bào tơn giáo
cần đẩy mạnh cơng tác dân vận, tích cực tham mưu giúp cấp uỷ, chính quyền địa
phương xây dựng, kiện tồn, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính
trị ở cơ sở, nhất là năng lực quản lý nhà nước về hoạt động tơn giáo, góp phần
lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm vụ QP-AN ở cơ sở, xây dựng cơ sở vững
mạnh toàn diện. Trong bối cảnh hiện nay, cần tham mưu giúp các địa phương
nâng cao năng lực tuyên truyền, vận động, thuyết phục, cảm hóa của đội ngũ cán
bộ ở cơ sở đối với đồng bào có đạo, nhằm thu hút, tập hợp, tạo sự đồng thuận xã
hội rộng rãi của tín đồ các tơn giáo với các chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước cũng như năng lực lãnh đạo, chỉ đạo của đội ngũ cán bộ trong đấu
tranh, vơ hiệu hóa hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Cùng với đó,
17
các đơn vị cần tham mưu giúp các địa phương thực hiện tốt công tác tạo nguồn,
bồi dưỡng cán bộ, đảng viên, xây dựng lực lượng cốt cán cho địa phương từ
quần chúng tốt tại cơ sở và số quân nhân đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự,...
Năm là, tham gia phát triển kinh tế - xã hội, tích cực giúp đồng bào có đạo
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xố đói, giảm nghèo, nâng cao dân trí, thực
hiện chính sách xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng, phòng chống thiên tai, dịch
bệnh,... bằng những việc làm cụ thể, thiết thực. Thường xuyên đổi mới nội dung,
hình thức, phương pháp công tác dân vận, bảo đảm phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ của từng loại hình đơn vị và tình hình thực tiễn của địa phương; chú
trọng phát huy vai trị của các tổ (đội) cơng tác và cán bộ tăng cường cho cơ sở
ở vùng có đơng đồng bào có đạo; giữ mối liên hệ chặt chẽ giữa chỉ huy, lãnh đạo
đơn vị với cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành địa phương nhằm xử lý những
tình huống nảy sinh ở cơ sở một cách chủ động, kịp thời. Đối với những vấn đề
về đất đai, cơ sở thờ tự tôn giáo liên quan đến QP-AN, lãnh đạo, chỉ huy các cấp
cần nắm vững nguyên tắc giải quyết theo đúng quy định của pháp luật, vừa phải
bảo đảm yêu cầu nhiệm vụ quân sự, QP-AN, vừa phù hợp với chính sách tơn
giáo của Đảng và Nhà nước. Trong từng trường hợp cụ thể phải báo cáo, xin chỉ
thị của trên; kiên quyết đấu tranh với các hiện tượng lợi dụng vấn đề tôn giáo để
chống phá, gây mất ổn định chính trị - xã hội địa bàn.
2.2. Một số giải pháp phát huy vai trò của Hải quân Nhân dân Việt
Nam trong thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta hiện nay
Phát huy kết quả đạt được trong thực hiện công tác tôn giáo những năm
qua, để nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác này trong thời gian tới, các đơn vị
trong Quân chủng cần tập trung thực hiện tốt một số biện pháp chủ yếu sau:
Một là, tiếp tục quán triệt sâu sắc các quan điểm, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước về công tác tôn giáo; triển khai thực hiện có hiệu quả
Nghị quyết 25/NQ-TW, ngày 12/03/2003 của Ban chấp hành Trung ương Đảng
(khóa IX), Chỉ thị 01/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ; Nghị định số
162/2017/NĐ-CP, ngày 30/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều
và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tơn giáo; Chỉ thị 36/CT- ĐUQSTƯ của
ĐUQSTƯ, Hướng dẫn 456/HD-CT của Tổng cục Chính trị về qn đội thực
hiện cơng tác tơn giáo trong tình hình mới; nhất là, Kết luận của Bộ Chính trị
ngày 03-11-2009 về "Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về phát huy sức mạnh đại đồn kết dân
tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh; về công tác
dân tộc; về công tác tôn giáo"; Hướng dẫn số 20/HD-BTCTW, ngày 26/9/2019
của Ban Tổ chức Trung ương về thực hiện quy định số 06-Qđi/TW, ngày
18
28/8/2018 về “Quy định một số điểm về kết nạp đảng viên đối với người theo
tôn giáo và đảng viên là người theo tôn giáo tham gia sinh hoạt tôn giáo”.
Hai là, trong quá trình tổ chức thực hiện, các đơn vị cần nắm vững
nguyên tắc: mọi hoạt động về công tác tôn giáo phải đặt dưới sự lãnh đạo, quản
lý, điều hành của cấp ủy, chỉ huy đơn vị và sự lãnh đạo, quản lý, điều hành của
cấp ủy, chính quyền địa phương; đồng thời, phát huy tốt vai trị, chức năng tham
mưu của cơ quan chính trị, cán bộ chính trị các cấp trong việc quán triệt, tổ chức
thực hiện, bảo đảm phù hợp với từng đối tượng, trên từng địa bàn cụ thể.
Ba là, phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương, nhất là vùng
đồng bào tôn giáo trong công tác tuyển quân theo Luật Nghĩa vụ quân sự. Phát
huy dân chủ, xây dựng mối quan hệ đồn kết, bình đẳng về mọi mặt giữa qn
nhân có đạo và khơng có đạo; quan tâm hơn nữa tới công tác giáo dục, bồi
dưỡng, phát triển đảng viên, đào tạo, cử tuyển, dạy nghề… tạo mọi điều kiện để
quân nhân có đạo, gốc đạo tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu hoàn thành tốt mọi
nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh,
đơn vị vững mạnh tồn diện.
Bốn là, tích cực đổi mới nội dung, hình thức cơng tác dân vận ở các địa
phương vùng đồng bào tôn giáo, đặc biện những nơi vùng biển và huyện đảo.
Thực hiện có hiệu quả chương trình bồi dưỡng kiến thức QP-AN gắn với phát
huy vai trị các chức sắc, chức việc, người có uy tín trong các tơn giáo, tạo sự
đồng thuận trong thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà
nước, nhiệm vụ của địa phương. Tích cực giúp đỡ đồng bào các tôn giáo phát
triển kinh tế-xã hội, phát triển ngành, nghề sản xuất, xóa đói, giảm nghèo, nâng
cao dân trí, phịng chống thiên tai, dịch bệnh; xây dựng đời sống văn hóa ở khu
dân cư. Thực hiện chương trình: “Hải quân Việt Nam làm điểm tựa cho ngư dân
vươn khơi, bám biển” theo chỉ thị của Thủ tướng chính phủ.
Năm là, tăng cường cơng tác tun truyền, phổ biến đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc đối với tín đồ, chức sắc các tơn giáo; chủ động tham mưu giúp các địa
phương vùng đồng bào tơn giáo xây dựng cơ sở chính trị, nâng cao chất lượng
hoạt động của tổ chức đảng, chính quyền, các đồn thể chính trị-xã hội; xây
dựng lực lượng dân qn, tự vệ và dự bị động viên vững mạnh. Các đơn vị quản
lý đất có liên quan đến tơn giáo, khi sử dụng vào mục đích quốc phịng phải phối
hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng, cấp ủy, chính quyền địa phương để giải
quyết theo đúng quy định của pháp luật.
Sáu là, các lực lượng khi tham gia cùng với địa phương giải quyết các sự
việc phát sinh ở vùng đồng bào tôn giáo, phải luôn tuân thủ sự lãnh đạo của cấp
19
ủy, sự quản lý của chính quyền địa phương; thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ
được giao, nắm vững phương châm: dựa vào quần chúng tín đồ để giải quyết
vấn đề tơn giáo; đồng thời, tích cực tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của chức sắc,
chức việc các tơn giáo để giải quyết dứt điểm, không để sự việc lây lan, kéo dài,
tạo sơ hở để các thế lực thù địch, những phần tử xấu lơi kéo, kích động. Đấu
tranh kiên quyết với mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tôn
giáo để thực hiện "Diễn biến hịa bình", bạo loạn lật đổ dưới các chiêu bài "dân
chủ", "nhân quyền",… nhằm phá hoại khối đại đồn kết tồn dân tộc, gây mất
ổn định chính trị-xã hội, "phi chính trị hóa" qn đội, chống phá Đảng, Nhà
nước và chế độ XHCN.
Bảy là, các cơ quan, đơn vị tiếp tục củng cố, kiện tồn và tích cực bồi
dưỡng nâng cao trình độ năng lực, kiến thức nghiệp vụ công tác tôn giáo cho đội
ngũ cán bộ làm công tác dân vận, nhất là những hiểu biết cần thiết về giáo lý,
giáo luật, lễ nghi, cơ cấu tổ chức những ngày lễ của tôn giáo, phong tục, tập
quán của các dân tộc thiểu số. Xây dựng cơ quan và cán bộ dân vận các cấp
vững mạnh, phát huy tốt khả năng tham mưu cho cấp ủy, chỉ huy trong tổ chức
thực hiện công tác tôn giáo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đồn kết tồn dân tộc. Thực
hiện tốt cơng tác tơn giáo là một nhiệm vụ chính trị của tồn qn, nhằm góp
phần thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, giữ vững ổn định chính trị, tạo sự đồng thuận trong xã hội, tăng
cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh sự nghiệp CNH,
HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phấn đấu vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh,
xã hội, công bằng, dân chủ, văn minh".
Tám là, Thực hiện cơng tác tơn giáo, chính sách tơn giáo là một nhiệm vụ
chính trị của quân đội, quân chủng nhằm tăng cường và củng cố khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề
tôn giáo để chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch, bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện tốt cơng tác tơn giáo,
chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước trong đơn vị thì trên cương vị là
người chính ủy, chính trị viên cần phải thực hiện tốt một số vấn đề sau:
Bản thân là người trực tiếp tiến hành công tác tư tưởng trong đơn vị càng
phải nhận thức vị trí vai trị tầm quan trọng của vấn đề tơn giáo trong tình hình
hiện nay. Vấn đề tơn giáo hiện nay ln diễn biến phức tạp, dễ bị kẻ thù lợi dụng
để chống phá chúng ta. Tác động rất lớn đến tư tưởng của bộ đội ảnh hưởng
không nhỏ đến hoạt động của đơn vị, chất lượng thực hiện nhiệm vụ cũng như
tinh thần chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ trong toàn đơn vị.
20
Tích cực nghiên cứu, học tập nắm vững những quan điểm, chính sách của
Đảng, Nhà nước về cơng tác tơn giáo qua các thời kỳ, giai đoạn. Đảng và Nhà
nước ta rất quan tâm vấn đề tôn giáo, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Thường
xuyên chỉ đạo, tạo điều kiện cho tôn giáo phát triển nhưng trong quy định của
pháp luật. Qua các kỳ Đại hội Đại biểu toàn quốc luôn được đề cập đến vấn đề
này. Bản thân phải chủ động tìm hiểu, nghiên cứu sâu sắc để triển khai thực hiện
trong đơn vị đạt hiệu quả, vừa phù hợp với điều kiện tình hình đơn vị vừa đúng
với quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước.
Tìm hiểu, nghiên cứu tơn giáo, tín ngưỡng của những qn nhân trong
đơn vị có tín ngưỡng tơn giáo cũng như nhân dân trên địa bàng đóng quân.
Thường xuyên theo dõi và tìm hiểu đặc điểm và tơn trọng tơn giáo, tín ngưỡng
của những quân nhân trong đơn vị là người có tơn giáo, tín ngưỡng tơn giáo.
Nghiên cứu đặc điểm của từng, tơn giáo, tín ngưỡng của nhân dân địa bàn đóng
qn. Phải tơn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân, không được kỳ thị, mặc
cảm, xa lánh, đụng chạm đến đức tin nhân dân trên địa bàn. Không xâm phạm,
làm hư hỏng đồ thờ cúng, nơi thờ tự của nhân dân.
Làm tốt công tác tuyên truyền, định hướng cho cán bộ chiến sỹ trong đơn
vị, nắm chắc về các quan điểm chính sách tơn giáo của đảng, giải quyết tốt các
vấn đề tôn giáo, đặc biệt là nắm chắc lý lịch tôn giáo của quân nhân thuộc quyền
để có những biện pháp định hướng tuyên truyền.Tổ chức quán triệt phổ biến đến
mọi cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị về Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI; Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ XII; Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII; Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khố
IX “Về đại đồn kết dân tộc”, “cơng tác dân tộc”, “công tác tôn giáo”; các nghị
quyết, chỉ thị, hướng dẫn của Trung ương, địa phương về thực hiện công tác tơn
giáo trong tình hình mới, qua đó, làm cho cán bộ, chiến sĩ thống nhất nhận thức,
nâng cao trách nhiệm, gương mẫu thực hiện tốt chính sách tơn giáo của Đảng và
Nhà nước. Đặc biệt trong giai đoạn Đảng và Nhà nước ta đang chủ trương xây
dựng quân đội tinh, gọn, mạnh tiến thẳng lên hiện đại sẵn sàng bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Nội dung tuyên truyền vận động ngắn gọn, dễ nhớ, dễ hiểu, thường xuyên,
trong các hoạt động hằng ngày của đơn vị; tuyên truyền tập trung phải gắn với
trực tiếp tiếp xúc, đối thoại đến từng con người cụ thể. Phát huy vai trò của
người lãnh đạo chỉ huy đơn vị, đội ngũ cán bộ đảng viên trong đơn vị, nhất là
những quân nhân có tín ngưỡng tơn giáo để làm tốt cơng tác tun truyền, vận
động nhân dân.
21
Kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo,
truyền đạo trái pháp luật gây mất ổn định về an ninh trật tự ở địa phương, chia
rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đấu tranh với nhận thức sai trái,
cảnh giác trước âm mưu của các thế lực thù địch đang lợi dụng vấn đề tôn giáo
chống phá Đảng chống phá Nhà nước, đang tác động trực tiếp hay gián tiếp đến
đơn vị thuộc quyền.
Xây dựng tinh thần đồn kết, tơn trọng, giúp đỡ lẫn nhau, giữa người có
đạo và khơng có đạo trong nội bộ đơn vị và giữa đơn vị với nhân dân trên địa
bàn đóng qn. Khơng để xảy ra những va chạm giữa quân nhân trong đơn vị
với nhân dân địa phương vì lý do tơn giáo.
Bồi dưỡng qn nhân theo đạo định hướng phát triển, tránh sự phân biệt
tạo điều kiện cho chính các quân nhân ấy là cầu nối để tuyên truyền cho gia đình
địa phương nắm và hiểu được các chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
22
KẾT LUẬN
Trong đời sống tinh thần của con người tôn giáo ln đóng một vai trị
nhất định. Cùng với tiến trình phát triển của lịch sử lồi người, tơn giáo ra đời và
trở thành một hiện tượng xã hội. Có nhiều tơn giáo khác nhau trên thế giới
nhưng nhìn chung mọi tôn giáo đều hướng tới con người với những giá trị tốt
đẹp. Chủ nghĩa cộng sản không phủ nhận tuyệt đối tơn giáo mà dung hịa tơn
giáo trong đời sống, chính trị, xã hội để phát triển.
Ở nước ta cũng vậy, tơn giáo đóng vai trị nhất định trong đời sống tinh
thần. Nhìn chung mọi giáo lý của các tơn giáo đều chứa đựng tính nhân văn sâu
sắc. Tuy nhiên một số tôn giáo ở vùng dân tộc đang bị các thế lực phản động sử
dụng , đây là địa bàn khó kiểm sốt vì dân trí khơng cao và các thế lực thù địch
có thể tuyên truyền sai lệch các quan điểm của Đảng gây kích thích sự chia rẽ
đồn kết dân tộc. Chính vì vậy, việc tun truyền chính sách về tín ngưỡng và
tơn giáo của Đảng và nhà nước hiện nay rất quan trọng. Có thể nói, các nước Xã
hội chủ nghĩa chưa bao giờ chống lại tơn giáo mà chỉ thực hiện các chính sách
để chống lại những kẻ lợi dụng tôn giáo nhằm mục đích chính trị phản động. Chỉ
có qn triệt sâu sắc và toàn diện nội dung quan điểm trên đồng thời vận dụng
linh hoạt, khoa học vào thực tiễn thì ta mới có thể đấu tranh có hiệu quả với hoạt
động lợi dụng tôn giáo xâm phạm đến an ninh Quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam XHCN. Với không gian nhỏ hẹp của một bài tiểu luận, tôi cũng
đã cố gắng chỉ ra những nét chung nhất về tình hình tơn giáo đang diễn ra ở Việt
Nam, quan điểm chính sách của Đảng và Nhà nước, vai trị của Quân đội Nhân
dân Việt Nam trong thực hiện chính sách tôn giáo, đồng thời đưa ra các phương
hướng và giải pháp nâng cao vai trò của quân chủng trong thực hiện quan điểm,
chính sách tơn giáo của Đảng, Nhà nước ta trong tình hình mới. Góp phần hồn
thành nhiệm vụ được giao xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước,
Nhân dân, sẵn sàng bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, biển đảo thềm lục địa
thiêng liêng của Tổ quốc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
23
1. Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học (Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân
Việt Nam, xuất bản năm 2004)
2. Nghị quyết Trung ương 7 (Khóa IX), Chỉ thị số 01 của Thủ tướng
Chính phủ, Chỉ thị 36 của Quân ủy Trung ương, Hướng dẫn số 456/HD-CT của
Tổng cục Chính trị.
3. Nghị quyết 25/NQ-TW của BCH Trung ương Đảng (khóa IX).
4. Tài liệu văn kiện Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ 12, 13.
5. C.Mác - Ph.Ăngghen Toàn tập, t.22, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội,1995.
6. Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, H.2011, tr.458.