Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Những bài học kinh nghiệm cho việt nam từ thực tế xây dựng nông thôn mới ở một số nước châu á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (377.73 KB, 3 trang )

NGHIÊN cứư
RESEARCH

Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ thực tế

xây dựng nông thôn mới ở một số nước châu Á
Khổng Văn Kết
Diệp Thị Thanh Hà, Phùng Đắc Kiên
Học viên Cao học ngành Quản lý Kinh tế, Trường Đại học Cơng nghệ Giao thơng Vận tải
Chương trình xây dựng nơng thơn mới (NTM) là một chương trình trọng tâm của Nghị quyết số 26NQ/TW, Nghị quyết toàn diện nhất về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn từ trước tới nay. Sau 10
năm thực hiện, diện mạo nhiều vùng nông thôn được đổi thay, hạ tầng kinh tế - xã hội thiết yếu được nâng
cấp, đời sống một bộ phận nông dân được cải thiện, hộ nghèo giảm, nhiều nét đẹp văn hóa được phát huy,
tình làng nghĩa xóm được vun đắp, đội ngũ cán bộ trưởng thành một bước. Tuy nhiên, so với mục tiêu phát
triển thì còn nhiều vấn đề cần phải giải quyết mới đáp ứng được yêu cầu đặt ra.

1. Tổng quan về xây dựng nông thôn mới ở
Việt Nam

Những thành công Theo tổng kết của Ban chỉ đạo
trung ương về Chương trình MTQG về xây dựng
nơng thơn mới, Chương trình đã trở thành một
phong trào sôi nổi, rộng khắp trên cả nước. Sau 10
năm triển khai, Chương trình đã đạt được những kết
quả quan trọng, theo như đánh giá của Lãnh đạo
Đảng và Nhà nước là "to lớn, tồn diện và mang tính
lịch sử". Đến hết năm 2020, Chương trình đã hồn
thành vượt 12,4% số xã đạt chuẩn NTM so với mục
tiêu; đến tháng 7/2021, cả nước đã có 64,6% số xã
đạt chuẩn NTM; có 194 đơn vị cấp huyện (chiếm
29%) thuộc 51 tỉnh, thành phố đạt chuẩn NTM; có
12 tỉnh, thành phố đã có 100% số xã đạt chuẩn NTM,


trong đó có 04 tỉnh đã được cơng nhận tỉnh hồn
thành nhiệm vụ xây dựng NTM. Nhờ đó, bộ mặt
nơng thơn Việt Nam đã có sự đổi thay, nhất là về hạ
tầng, thu nhập. Xét trên bình diện chung, Chương
trình đã thu về những thành quả, đó là: Chương
trình đã làm thay đổi nhận thức của đa số người
dân, lôi cuốn họ vào xây dựng NTM.
Từ chỗ số đơng cịn tư tưởng trơng chờ, ỷ lại vào
đầu tư của Nhà nước đã chuyển sang chủ động, tự
tin tham gia tích cực vào xây dựng NTM. Xây dựng
NTM đã trở thành phong trào sôi động khắp cả
nước. Hơn nữa, đã hình thành Bộ máy chỉ đạo và
tham mưu giúp việc đồng bộ từ Trung ương tới cơ
sở, hoạt động ngày càng chuyên nghiệp, là nịng cốt
tổ chức thực hiện Chương trình với hiệu quả cao,
chất lượng. Đội ngũ cán bộ vận hành Chương trình,
đặc biệt là đội ngũ cán bộ cơ sở đã có tiến bộ rõ rệt,
nhận thức đầy đủ hơn và chỉ đạo chương trình có
hiệu quả hơn, nhất là trong việc xây dựng dự án, vận

34

Kinh tế Châu Ả - Thái Bình Dương (Tháng 5/ 2022)

động quần chúng và tổ chức, thực hiện dự án, thực
hành dân chủ ở nông thôn.
Đã hình thành được cơ bản Bộ tiêu chí, hệ thống
cơ chế, chính sách để vận hành Chương trình. Nhiều
địa phương đã cụ thể hóa các chính sách của Trung
ương, chủ động ban hành cơ chế, chính sách phù

hợp với điều kiện của địa phương. Cơ chế trao
quyền tự quyết cho cộng đồng (thôn, xã) đã phát
huy sự năng động, sáng tạo của các địa phương, sự
tham gia của người dân tạo nên sức mạnh to lớn của
Chương trình. Sự hỗ trợ của Nhà nước tuy hạn chế
nhưng đã được sử dụng có hiệu quả cao, kết hợp với
sự đóng góp của nhân dân.

Bên cạnh đó, NTM đã trở thành hiện thực. Hệ
thống hạ tầng nông thôn phát triển mạnh mẽ, làm
thay đổi bộ mặt nhiều vùng nông thôn. Điều kiện
sống cả về vật chất và tinh thần của số lượng lớn dân
cư nông thôn được nâng cao rõ rệt. sản xuất nơng
nghiệp hàng hóa được coi trọng và có chuyển biến,
góp phần tích cực nâng cao thu nhập của dân cư
nông thôn.
Về những hạn chế, theo Ban chỉ đạo Trung ương
Chương trình MTQG xây dựng NTM, do:
- Xuất phát điểm của đa số các xã còn thấp, trong
khi nguồn lực của cả Nhà nước, người dân và doanh
nghiệp còn hạn chế, nhất là ở các địa phương miền
núi. Chương trình triển khai vào thời kỳ suy thoái
kinh tế (cả trong lẫn ngoài nước), nên việc huy động
nguồn lực cho xây dựng NTM gặp nhiều khó khăn.
- Nhiều nơi, vai trị của nhân dân địa phương, của
cộng đồng chưa được tính đến đầy đủ, hay mới chỉ
được tính đến một cách hình thức, họ chưa được
tham gia một cách thực sự dân chủ vào quá trình
bàn bạc, lựa chọn các dự án, các đầu việc phải làm,



động được sự tham gia tự nguyện của họ vào việc
thực hiện các nội dung khác nhau quyết định đến
việc thực hiện thành công, đến khả năng triển khai
- Sự lãnh đạo, chỉ đạo của nhiều cấp ủy, chính trên diện rộng của chương trình xây dựng nơng
quyền thiếu sâu sát, quyết liệt, một bộ phận lại quá thôn mới. Ngược lại, để có thể triển khai trên diện
nơn nóng, chạy theo thành tích; sự tham gia của một rộng, cần thực hiện phân cấp và phải giao được
số tổ chức cơ sở Đảng và đồn thể cịn hạn chế. Công quyền làm chủ cho cộng đồng. Thông qua thực hiện
tác điều phối Chương trình cịn nhiều lúng túng, một quyền làm chủ để nâng cao năng lực của cộng đồng.
Cộng đồng chủ động khơng chỉ tham gia đóng góp
số nơi phó mặc cho ngành nơng nghiệp.
nguồn lực cho đầu tư xây dựng mà còn tham gia
- Đồng thời, hệ thống cơ chế chính sách chưa
mạnh mẽ từ khâu xây dựng định hướng thực hiện,
thực sự đồng bộ, chậm sửa đổi, bổ sung (Luật ngân
quy hoạch nông thôn mới và quan trọng nữa là tham
sách, Nghị định 61 về khuyến khích doanh nghiệp
gia giám sát q trình thực hiện tại cơ sở. Vai trò chủ
đầu tư, Nghị định 42 về bảo vệ đất lúa; các văn bản
thể của người dân sẽ chỉ được phát huy mạnh mẽ
hướng dẫn của các bộ, ngành;.... Tiêu chí, cơ chế
khi họ được tham gia bàn bạc, quyết định mọi vấn
chính sách có một số điểm chưa phù hợp, vận dụng
đề liên quan đến lợi ích của cộng đồng một cách
máy móc kém hiệu quả, thậm chí gây lãng phí nguồn
thực chất và dân chủ.
lực; chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư
- Thứ hai, phát huy vai trị của tổ chức hỗ trợ,
vào nơng nghiệp, nơng thơn chậm phát huy hiệu quả
trong

đó, Nhà nước có vai trị quan trọng trong hình
như mong đợi.
thành, tổ chức và hỗ trợ thực hiện các chương trình
- Huy động nguồn lực (nhất là nguồn ngân sách
phát triển nông thôn cấp cơ sở. Do đặc điểm của
trung ương) cho Chương trình chưa tương xứng với
mình, phát triển nơng thơn cấp cơ sở cần đến sự hỗ
mục tiêu; chưa có cơ chế lồng ghép hiệu quả các
trự tối đa từ Nhà nước về cơ chế chính sách, về kinh
nguồn vốn trên cùng địa bàn. Nhiều dự án được lập
phí và kỹ thuật. Tùy theo trình độ phát triển của khu
ra và vốn huy động cho nhiều dự án chưa hẳn đã
vực nơng thơn, hình thức và mức độ hỗ trự sẽ khác
xuat phát từ chính nhu cầu của cơ sở, thậm chí cịn
nhau. Trình độ phát triển thấp, mức độ đói nghèo
xuất phát từ những lý do ngồi Chương trình nơng
cao địi hỏi sự giúp đỡ to lớn hơn của Nhà nước, các
thọn mới.
hỗ trợ dưới hình thức trực tiếp, xây dựng và cung
2. Kinh nghiệm phát triển nông thông mới cấp các điều kiện sống cơ bản cho cộng đồng dân cư
như phát triển sản xuất, xây dựng các cơng trình cơ
cùa một so qiiốc gia
sở hạ tầng thiết yếu, xây dựng nhà ở xóa bỏ tình
Thực tể qua xem xét, phân tích và so sánh các trạng nhà tranh tre dột nát,...
chương trình phát triển nơng thơn mới ở một số
- Thứ ba, cần xác định việc xây dựng nông thôn
nước châu Á như Hàn Quốc với phong trào Làng mới là một quá trình lâu dài chứ khơng phải là một
mới (Seamaul Undong), mơ hình "xí nghiệp hương chiến dịch hay phong trào nhất thời. Kinh nghiệm từ
trấn" tại Trung Quốc, Chương trình phát triển nơng các nước phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc cho
thôn tăng tốc - Tăng thu nhập của nông trại và tăng thấy, các quốc gia này phải mất từ 50 đẽn 70 năm

cưịrng chương trình tái cấu trúc nơng thơn - mới có thể hồn thành xây dựng nơng thơn mới. Vì
Chương trình cải cách ruộng đất giai đoạn 2 tại Đài thế, chúng ta cũng cần thời gian đủ dài để kiến thiết
Loan, Chương trình mỗi làng một nghề của Nhật lại nông thôn mới Việt Nam, phải xác định đó là một
Bản, Chương trình mỗi vùng một sản phẩm, Chương quá trình cần được thiết kế thành các giai đoạn khác
trình một triệu bạt mỗi bản của Thái Lan,... dễ nhận nhau trong đó mỗi giai đoạn sẽ có nội dung được ưu
thấy sự thành cơng của chương trình xây dựng nông tiên quan trọng như ưu tiên về phát triển cơ sở hạ
thôn mới nếu chọn được một hướng đi đúng, trên tầng, hay phát triển kinh tế,...
cơ sở chọn lọc và phát huy các giá trị cốt lõi đặc
- Thứ tư, việc tập trung vào cơ chế mới hơn là
trưrịg riêng. Bên cạnh những mặt được, kinh
mặt kỹ thuật cho phép tạo ra sự thay đổi nhanh, trên
nghiệm quốc tế tại các nước trong khu vực đi trước
diện rộng.
cũng chỉ ra những góc khuất cần khắc phục. Tuy
Thứ năm, việc phát triển nơng thơn bền vững địi
nhien, có thể tóm tắt một số bài học chính từ các
hỏi
vốn đầu tư rất lớn. Hỗ trự từ Nhà nước rất cần
nước đi trước có thể áp dụng vào chương trình xây
thiết
song chưa đủ. Chúng ta cần xã hội hóa, đa dạng
dựng nơng thơn mới ở Việt Nam.
hóa các nguồn lực và việc sử dụng các nguồn lực
- Thứ nhất, phải biết phát huy vai trị và sự tham
phải cơng khai, minh bạch theo phương châm "dân
gia cua người dân, của cộng đồng. Sự tham gia của
biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra, dân thụ
ngươi dân, của cộng đồng có vai trị quan trọng, huy
hưởng”.


ra các quyết định,... thậm chí nhiều khi tiếng nói của
người dân chỉ là "bình phong che chắn hay hợp thức
hóa cho những việc đã rồi” của chính quyền;

Kinh tê Châu Ả - Thái Bỉnh Dương (Tháng 5/ 2022)

35


NGHIÊN CỨU
RESEARCH

Do đó, Chính phủ cần đưa ra các chính sách
khuyến khích, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp,
các tổ chức chính trị-xã hội tham gia vào chương
trình xây dựng nơng thơn mới; đồng thời có chính
sách thúc đẩy sự phát huy nội lực từ chính các cộng
đồng dân cư nơng thơn. Nguồn lực huy động từ cộng
đồng có thể dưới nhiều hình thức như đóng góp
bằng cơng sức, tiền của vào các cơng trình cộng
đồng, cải tạo nơi ở, sử dụng tín dụng để phát triển
sản xuất..., nhưng phải trên nguyên tắc đồng thuận,
tự nguyện, hợp lý, công khai, minh bạch và được sử
dụng có hiệu quả.

Thứ sáu, hiện nay các chương trình phát triển
nơng nghiệp và phát triển nông thôn mới của chúng
ta trên cùng một địa bàn vẫn tách rời nhau và phát
triển nông nghiệp chưa thể là một hợp phần thực sự
và là động cơ chính của phát triển nơng thơn. Ta hãy

nhìn lại mục tiêu của phát triển nơng thơn là gì? Là
thay đổi bộ mặt nông thôn, thay đổi điều kiện sống
ở nông thôn để nơng dân, là phải làm cho người
nơng dân có một cuộc sống khá giả và sung túc hơn,
đặc biệt là nơng dân trẻ có thể sinh cơ lập nghiệp ở
nông thôn mà không phải di cư ra thành thị, phát
triển sản xuất nông nghiệp ở nông thôn, bảo tồn các
bản sắc văn hóa địa phương, nơng thơn, qua đó phát
triển kinh tế nông thôn, giảm bớt khoảng cách giữa
nông thơn và thành thị.

Nhưng liệu có thể có xã huyện Nơng thơn mới mà
ở đó sản phẩm nơng nghiệp cung cấp ra vẫn chưa
đảm bảo an toàn, vẫn sử dụng quá nhiều thuốc trừ
sâu, chất cấm trong chăn nuôi và tất nhiên là điều
kiện sống của người sản xuất vẫn chưa được đảm
bảo trên khía cạnh mơi trường, sức khỏe?
Rõ ràng, phát triển nông thôn không thể tách rời
phát triển nông nghiệp là hoạt động cơ bản ở nông
thôn. Vậy nông nghiệp phục vụ phát triển nông thôn
bền vững là nơng nghiệp gì? Đó chính là Nơng
nghiệp sinh thái (bao gồm các thực hành hữu cơ,
nông lâm kết hợp, nông nghiệp bảo tồn, thâm canh
l.úa cải tiến-SRI, vườn ao chuồng, quản lý dịch hại
tổng hợp 1PM,...). Trên thế giới hiện nay có phong
trào Cách mạng xanh lần thử hai, hay cịn gọi là
Nơng nghiệp sinh thái. Nơng nghiệp sinh thái áp
dụng các nguyên tắc thâm canh sử dụng nguyên lý
sinh thái, canh tác tiết kiệm tối ưu hóa chất, sử dụng
các kiến thức bản địa là một phương thức nông

nghiệp thích ứng thơng minh với biến đổi khí hậu và
đảm bảo an ninh lương thực.

Nông nghiệp sinh thái trước đây được coi là năng
suất thấp, tuy nhiên gần đây người ta đã chứng
minh rằng nơng nghiệp sinh thái có thể cho năng
suất tương đương với nông nghiệp cách mạng xanh
sử dụng hóa chất mà lại bền vững hơn.

36

Kinh tê' Châu Á - Thái Bình Dương (Tháng 5/ 2022)

Thứ bảy, xây dựng nông thôn mới là nhằm nâng
cao chất lượng cuộc sống (vật chất và tinh thần) của
cư dân nông thôn. "Nếu xây dựng nông thôn mới mà
đời sống của người dân khơng tăng lên, người nghèo
vẫn cịn nhiều việc xây dựng nơng thơn cũng khơng
có ý nghĩa gì lớn. Vì vậy, kinh nghiệm của một số
nước châu Á cho thấy, trong thời gian tới Chương
trình cần lấy phát triển sản xuất làm gốc và lấy tiêu
chí tăng thu nhập, giảm tỷ lệ hộ nghèo để vừa làm
động lực vừa làm mục tiêu để xây dựng chương
trình đi vào chiều sâu và có tính bền vững". Nếu làm
được như vậy, dân mới tin, mới có điều kiện bền
vững và mới sẵn sàng tham gia một cách tự nguyện
vào Chương trình xây dựng NTM.

Thứ tám, xây dựng nơng thơn mới khơng có mẫu
số chung cho mọi địa phương, vì vậy, bên cạnh việc

xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh tồn diện
làm nòng cốt hướng dẫn người dân thực hiện, mỗi
địa phương phải chủ động xây dựng cho mình một
hướng đi riêng, có cách làm phù hợp với đặc thù của
địa phương mình. Đồng thời, theo Bà Yuriko Shoji,
Trưởng đại diện Tổ chức Lương thực và Nông
nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO) tại Việt Nam: "Để quá
trình xây dựng NTM của Việt Nam đạt được mục
tiêu, cần phải đo lường những tiêu chí mềm, phân
loại 19 tiêu chí theo cấp độ "tác động", "mục tiêu” và
"đầu ra", từ đó xây dựng khung chương trình tốt
hơn"./.

Tài liệu tham khảo
Phạm Tất Thắng (2015), Xây dựng nông thôn
mới: Một số vấn đề đặt ra, TCCSĐT, ngày
5/11/2015.
Quách Kiến Qn (2007): Bối cảnh phát triển hài
hịa nơng thơn - đô thị của Nhật Bản và bài học kinh
nghiệm, Nghiên cứu Trung Quốc, tháng 1.

Vũ Văn Phúc (2012) (Chủ biên): Xây dựng nông
thôn mới - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb.
CTQG - Sự thật, Hà Nội, 2012;

Nguyễn Hồng Thu, Viện Kinh tế và Chính trị thế
giới, Chính sách tam nơng của Nhật Bản - Bài học
kinh
nghiệm
cho

Việt
Nam,
theo
/>Quyết định số 263/QĐ-TTg về việc Phê duyệt
Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông
thông mới giai đoạn 2021-2025, ngày 22 tháng 2
năm 2022.



×