Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Mùa thu trong thơ việt nam từ trung đại đến hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (758.69 KB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

HUỲNH LÝ BĂNG

MÙA THU TRONG THƠ VIỆT NAM
TỪ TRUNG ĐẠI ĐẾN HIỆN ĐẠI

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM

Bình Định – Năm 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

HUỲNH LÝ BĂNG

MÙA THU TRONG THƠ VIỆT NAM
TỪ TRUNG ĐẠI ĐẾN HIỆN ĐẠI

Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số
: 8220121

Người hướng dẫn: TS. NGUYỄN VĂN ĐẤU


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết
quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa được ai cơng bố trong


bất cứ cơng trình nào khác. Nếu sai tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm.

Bình Định, tháng 08 năm 2022
Tác giả

Huỳnh Lý Băng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................... 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................ 5
5. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 5
6. Đóng góp của luận văn ............................................................................. 6
7. Cấu trúc của luận văn................................................................................ 6
Chương 1. MÙA THU – NGUỒN CẢM HỨNG BẤT TẬN TRONG THƠ
CA PHƯƠNG ĐÔNG VÀ VIỆT NAM ............................................................. 7
1.1.

Mùa thu trong thơ – sự hội ngộ của vẻ đẹp đất trời và lòng người ...... 7

1.1.1. Thơ ca và cái đẹp .................................................................................. 7
1.1.2. Thơ ca với mùa thu ............................................................................... 9
1.2. Vẻ đẹp của mùa thu trong thơ ca phương Đông và Việt Nam ............... 15
1.2.1. Mùa thu trong thơ ca phương Đông ..................................................... 15
1.2.2. Mùa thu trong thơ ca Việt Nam ............................................................ 25
Chương 2. MÙA THU TRONG THƠ VIỆT NAM TỪ TRUNG ĐẠI ĐẾN
HIỆN ĐẠI, NHÌN TỪ HÌNH TƯỢNG THƠ ..................................................... 33

2.1. Hình tượng mùa thu trong thơ Việt Nam từ trung đại đến hiện đại ...... 33
2.1.1. Hình tượng mùa thu trong thơ trung đại Việt Nam ........................... 33
2.1.2. Hình tượng mùa thu trong thơ hiện đại Việt Nam ............................. 41
2.2. Hình tượng chủ thể trữ tình trong thơ Việt Nam từ trung đại đến hiện
đại .................................................................................................................... 52
2.2.1. Chủ thể trữ tình siêu cá thể trong thơ trung đại Việt Nam .............. 52


2.2.1.1. Vài nét về chủ thể trữ tình siêu cá thể trong thơ trung đại Việt
Nam ............................................................................................................. 52
2.2.1.2. Chủ thể trữ tình siêu cá thể trong thơ trung đại Việt Nam viết
về mùa thu ............................................................................................... 53
2.2.2. Chủ thể trữ tình với những biểu hiện đa dạng trong thơ hiện đại
Việt Nam viết về mùa thu ........................................................................ 58
2.2.2.1. Nhân vật trữ tình phiếm chỉ ..................................................... 58
2.2.2.2. Cái “tơi” trữ tình ...................................................................... 60
2.2.2.3. Chủ thể trữ tình nhập vai ........................................................... 66
Chương 3. MÙA THU TRONG THƠ VIỆT NAM TỪ TRUNG ĐẠI ĐẾN
HIỆN ĐẠI, NHÌN TỪ NGƠN NGỮ, THỂ THƠ VÀ GIỌNG ĐIỆU ............... 69
3.1. Ngôn ngữ ................................................................................................. 69
3.1.1. Sự kết hợp Hán – Nôm trong ngôn ngữ thơ trung đại Việt Nam ........ 69
3.1.2. Sự tương hợp Đông – Tây trong ngôn ngữ thơ hiện đại Việt Nam.... 72
3.2. Thể thơ ................................................................................................... 74
3.2.1. Từ các thể thơ truyền thống… ........................................................... 74
3.2.2….Đến các thể thơ hiện đại ................................................................... 76
3.3. Giọng điệu ............................................................................................. 77
3.3.1. Tính quy phạm trong giọng điệu thơ trung đại Việt Nam ................. 78
3.3.2. Tính đa dạng trong giọng điệu thơ hiện đại Việt Nam ..................... 80
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 91



1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Một năm có bốn mùa: Xn, hạ, thu, đơng với những đặc điểm khí hậu
riêng biệt. Mùa xuân là thời điểm giao thoa, hội tụ tinh hoa, đem đến sự sinh
sôi, mới mẻ đầy niềm tin và hi vọng cho cuộc sống. Khi những con đường
râm ran tiếng ve và những chùm hoa phượng vĩ đỏ thắm, thời tiết oi bức, tức
mùa hè đã đến - mùa của sự chia li đối với những bạn học sinh cuối cấp. Đó
cịn là kì nghỉ hè lí thú và đầy hấp dẫn của những bạn nhỏ. Trái ngược hồn
tồn với sự sơi động, nóng bức của mùa hè, mùa đơng đem đến những cơn
mưa phùn, gió bấc thật lạnh lẽo…
Trong khi đó, mùa thu được xem là giai đoạn chuyển tiếp giữa mùa hạ
và mùa đông. Mùa hạ đi qua, mùa thu đến đã làm cho mọi điều thay đổi từ
cảnh vật, thiên nhiên, đến cả nhịp sống của con người. Mỗi người có cảm
nhận riêng về vẻ đẹp của mỗi mùa trong năm, nhưng thường thì mùa thu được
xem là đẹp nhất, lãng mạn và được người ta chờ đợi nhất trong năm. Mùa thu
đem đến cho con người những buổi tối se se lạnh, hay những cơn gió nhè nhẹ,
làm cho tâm trạng con người cũng trở nên lãng mạn và vô cùng bay bổng. Cái
se lạnh, hanh hao đầu mùa, những chuyển động tinh tế của thiên nhiên qua
từng ngọn cây, kẽ lá; màu vàng óng của nắng, của lá vàng mùa thay lá…, đã
mang lại nguồn cảm hứng vô tận để các văn nghệ sĩ thốt lên tiếng lòng trước
vẻ đẹp diễm kiều của thiên nhiên.
Biết bao bài thơ, nốt nhạc của những tác giả đã thêu dệt nên những bức
tranh thu đẹp, sống động cho đời. Tuy nhiên, qua mỗi chặng đường lịch sử,
bức tranh mùa thu của đất nước lại được tô vẽ thêm những sắc màu mới lạ với
những cung bậc cảm xúc phong phú, nói lên nỗi niềm của thi nhân trước thiên
nhiên, vạn vật. Qua đó, ta hiểu vì sao, tự cổ chí kim, mùa thu ln là mùa của

cảm xúc, của thương nhớ. Song tiếng thu ở mỗi người, trong mỗi thời đại lại


2
mang những màu sắc khác nhau, tạo nên vô vàn những bức tranh thu mà
trong đó cảnh thu, tình thu đều thật đẹp, thật độc đáo. Trong thơ trung đại
Việt Nam, mùa thu luôn là nơi gửi gắm tâm tư, tình cảm của thi nhân, mùa
thu là đề tài quen thuộc mà ta dễ bắt gặp trong sáng tác của Nguyễn Trãi,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến,... Sự ra đời của phong
trào Thơ mới (1932-1945) đã làm thay đổi cả bộ mặt của thơ ca Việt Nam lúc
bấy giờ. Các nhà Thơ mới có cái nhìn và cảm nhận thiên nhiên khác hoàn
toàn với các nhà thơ trung đại. Đó khơng cịn là lối cảm nhận theo kiểu ước lệ
tượng trưng theo kiểu khuôn mẫu của thi pháp văn học trung đại, mà ở đây,
nhờ vào trái tim đa cảm, đa sầu vốn có, các nhà Thơ mới có thể tự do thể hiện
tâm tư, tình cảm của cá nhân theo cách riêng của mình.
Tìm hiểu về mùa thu trong văn học Việt Nam từ trung đại đến hiện đại,
sẽ giúp chúng ta có cái nhìn vừa tồn diện vừa cụ thể về bức tranh thu trong
hai nền văn học gắn liền với quy luật chung cho sáng tạo văn chương nghệ
thuật từ truyền thống đến hiện đại. Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi
chọn đề tài nghiên cứu Mùa thu trong thơ Việt Nam từ trung đại đến hiện
đại cho luận văn.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Có thể nói, mùa thu là đề tài vơ cùng quen thuộc trong sáng tác của các
thi nhân xưa nay. Thiên nhiên mùa thu vừa là nguồn cảm hứng, vừa là nơi gửi
gắm tâm tư, tình cảm của thi nhân theo lẽ “tức cảnh sinh tình”, “tả cảnh ngụ
tình”. Cảnh thu trong thơ trung đại được miêu tả qua một số câu thơ trong bài
tứ tuyệt, bát cú, Đường luật,..Nhưng cũng có khi cả bài thơ hướng về một chủ
đề “vịnh thu” hồn chỉnh. Nói về đề tài “vịnh thu” trong thơ trung đại Việt
Nam cũng có nghĩa là tìm hiểu q trình phát triển của nó qua nhiều thời kì,
nhất là từ sáng tác của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, đến Nguyễn Du và

đặc biệt là Nguyễn Khuyến,..


3
Trong mối quan hệ ảnh hưởng của văn học trung đại Trung Quốc đối
với văn học trung đại nước ta, thì thơ “vịnh thu” của Việt Nam có sự ảnh
hưởng nhất định từ thơ Đường. Cảnh thu trong thơ Trung Quốc được thể hiện
qua hình ảnh: lá đỏ, rừng phong, cây ngơ đồng,..Những hình ảnh này ta dễ
nhận thấy trong thơ thu trung đại Việt Nam. Ta có thể bắt gặp hình ảnh lá đỏ
trong một số bài thơ của Nguyễn Trãi: Thu dạ dữ Hoàng giang Nguyễn
Nhược thủy đồng phú (Đêm thu cùng ngâm với Hồng giang Nguyễn
Nhược), Thơn xá thu châm (Tiếng châm mùa thu ở thơn xóm) và các nhà thơ
khác: Mùa thu của Ngô Chi Lan (nữ sĩ dưới thời Lê Thánh Tông), Thu tứ của
Nguyễn Bỉnh Khiêm,… Làm nên tên tuổi của nhà thơ làng cảnh Việt Nam Nguyễn Khuyến, chúng ta không thể không nhắc tới chùm thơ thu nổi tiếng
của ơng, đó là: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh.
Đến nền văn học hiện đại, ta có thể điểm qua một số bài thơ viết về đề
tài mùa thu như: Tiếng thu - Lưu Trọng Lư, Cuối thu, Tình thu - Hàn Mặc
Tử, Đây mùa thu tới, Thu - Xuân Diệu, Sang thu - Hữu Thỉnh,..
Nhìn chung, hiện nay có rất ít cơng trình nghiên cứu chuyên sâu và cụ
thể về đề tài mùa thu, qua khảo sát có cơng trình nghiên cứu của Nguyễn Thị
Huyền (2014), Mùa thu trong thơ Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư và Qch
Tấn. Cơng trình này đã đưa ra một cái nhìn về chủ đề mùa thu trong Thơ mới
nói chung và ba tác giả Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư và Qch Tấn nói riêng.
Cơng trình nghiên cứu của Trương Thị Mỹ Xuyên (2010), Mùa thu Việt Nam
trong Thơ Mới (1932-1945), qua cơng trình ta thấy được những nét mới trong
việc thể hiện cảnh thu cũng như tình thu của các nhà Thơ mới so với các nhà
thơ trước đó. Trong cuốn Thơ mới lãng mạn và những lời bình, Vũ Thanh
Việt cũng đã viết: “Mùa thu là một đề tài quen thuộc của thơ ca Việt Nam, khi
trời đất chuyển mùa từ hạ sang thu, con người dễ có cảm xúc. Mặt khác mùa
thu trong thơ Đường và thơ cổ Trung Quốc cũng có ảnh hưởng khơng nhỏ,



4
tạo nên một sức gợi đối với thi nhân Việt Nam. Từ Nguyễn Du, Nguyễn
Khuyến đến Tản Đà…thơ Việt Nam đã có hẳn một truyền thống thơ về mùa
thu thấm đuộm một nỗi buồn man mác, có vẻ đẹp nên thơ riêng của nó” [49,
tr.207]. Trong cuốn Một thời đại trong thi ca, GS Hà Minh Đức đã viết:
“Mùa thu đã đến trong thơ ca Việt Nam từ rất lâu qua thơ Nguyễn Trãi, Bà
Huyện Thanh Quan, nhất là chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến, rồi Tản
Đà…Trong thơ xưa đã có ngọn gió vàng (Nguyễn Gia Thiều), chiếc lá vàng
(Nguyễn Khuyến) và đến thời hiện đại thì cả một vùng không gian bị màu
vàng chiếm lĩnh…Vẻ đẹp của mùa thu thu hút các nhà thơ Mới, và nhiều
người đã cho ra đời hàng loạt những bài thơ hay như: Đây mùa thu tới của
Xuân Diệu, Thu của Chế Lan Viên, Thu rừng của Huy Cận” [11, tr.125]
Khi nghiên cứu về các tác giả tiêu biểu viết về mùa thu, có nhiều bài
viết đã đề cập đến. Trong tuyển tập Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và
Hoài Chân đã nhận xét về mùa thu trong sáng tác của Xuân Diệu: “Trong
cảnh mùa thu rất quen với thi nhân Việt Nam, chỉ Xuân Diệu mới để ý đến
“Những luồng run rẩy rung rinh lá..” cùng cái “Cành biếc run run chân ý nhi”,
nghe đàn dưới trăng thu chỉ Xuân Diệu mới thấy “Lung linh bóng sáng bỗng
rung mình..” [38, tr.106]. Bên cạnh đó, cịn một số bài viết mang tính cảm
nhận, giới thiệu hay phê bình về đề tài mùa thu. Chẳng hạn: Bài Thu của Lê
Bảo và bài Đây mùa thu tới của Mã Giang Lân được in trong cuốn Thơ Xuân
Diệu và những lời bình (2003), bài Đây mùa thu tới của Hà Minh Đức,
Nguyễn Đăng Mạnh, Đỗ Lai Thúy được in trong cuốn Xuân Diệu- một cái tôi
khao khát nồng nàn (2006)
Tình hình nghiên cứu trên cho thấy các bài viết về mùa thu đều nghiên
cứu dưới góc độ khác nhau, đều có cách cảm thụ khác nhau. Luận văn sẽ tiếp
tục tìm hiểu nhiều khía cạnh mới và có cái nhìn tổng qt về đề tài mùa thu
trong thơ trung đại và hiện đại.



5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài để khái quát những nét đặc sắc, cái hay, cái đẹp trong
đề tài mùa thu giữa hai nền văn học trung đại và hiện đại Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu đề tài mùa thu trong thơ Việt Nam để thấy được
những cái hay, cái đặc sắc trong phong cách sáng tác của mỗi nhà thơ nói
riêng và sự vận động và phát triển ở mảng đề tài này từ thơ ca trung đại đến
hiện đại.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu đề tài thơ Việt Nam viết về mùa thu từ
trung đại đến hiện đại. Chúng tôi sẽ cố gắng khái quát được những đặc sắc về
đề tài mùa thu trong sự vận động mang tính lịch sử từ văn học trung đại đến
hiện đại.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát và phân tích những bài thơ viết về đề tài
mùa thu gắn liền với những giai đoạn phát triển của lịch sử dân tộc. Trong đó,
tập trung khảo sát những bài thơ viết về đề tài mùa thu trong tập Tinh tuyển
văn học Việt Nam (2005), NXB KHXH.
5. Phương pháp nghiên cứu
Căn cứ vào nội dung và yêu cầu của đề tài, trong quá trình nghiên cứu,
chúng tôi sử dụng phương pháp liên ngành với các phương pháp chủ yếu sau:
5.1. Phương pháp cấu trúc - hệ thống: Nhằm hệ thống hố các đặc điểm của
hình tượng mùa thu, cũng như các yếu tố ngôn ngữ, giọng điệu, thể loại…
trong thơ viết về mùa thu từ trung đại đến hiện đại.
5.2.Phương pháp phân tích - tổng hợp: Bằng việc phối hợp các phương

pháp mơ tả, phân tích, tổng hợp, chúng tơi sẽ đi sâu vào việc lí giải và tổng
quát đặc trưng thi pháp về đề tài mùa thu ở mỗi giai đoạn.


6
5.3. Phương pháp so sánh - đối chiếu: Từ những tác phẩm thơ của các tác
giả thuộc nền văn học trung đại, chúng tôi sẽ thực hiện các bước so sánh, đối
chiếu những sáng tác của các tác giả thuộc nền văn học hiện đại trên các
phương diện nội dung và giá trị thẩm mỹ để thấy được sự vận động phát triển
cùng quy luật chung trong sáng tạo văn chương.
6. Đóng góp của luận văn
Qua dự kiến tìm hiểu đề tài luận văn Thơ Việt Nam viết về mùa thu từ
trung đại đến hiện đại, chúng tôi cho rằng, đề tài sẽ mang lại những đóng
góp ý nghĩa: làm tài liệu cho các sinh viên, học viên trong khoa Ngữ văn
trường Đại học Quy Nhơn, đồng thời đóng góp quan trọng trong việc dạy học
các tác phẩm thơ trong chương trình Ngữ văn ở nhà trường.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phần Nội dung luận
văn bao gồm các chương:
Chương 1. Mùa thu – nguồn cảm hứng bất tận trong thơ ca phương
Đông và Việt Nam
Chương 2. Mùa thu trong thơ Việt Nam từ trung đại đến hiện đại, nhìn
từ hình tượng thơ
Chương 3. Mùa thu trong thơ Việt Nam từ trung đại đến hiện đại, nhìn
từ ngơn ngữ, thể thơ và giọng điệu


7

Chương 1

MÙA THU – NGUỒN CẢM HỨNG BẤT TẬN
TRONG THƠ CA PHƯƠNG ĐÔNG VÀ VIỆT NAM
1.1. Mùa thu trong thơ - sự hội ngộ của vẻ đẹp đất trời và lòng người
1.1.1. Thơ ca và cái đẹp
Thơ hay thơ ca hoặc thi ca, là một loại sản phẩm của sáng tạo nghệ
thuật ngôn từ theo những cách thức nhất định dựa trên quy luật hài hòa về vần
điệu, âm điệu. Thơ có đặc điểm ngắn gọn, súc tích, cơ đọng và hàm súc, có
thể tạo nên cảm xúc thẩm mỹ cho người đọc, người nghe. Cho đến nay, đã có
hàng trăm định nghĩa, quan niệm khác nhau về thơ, nhưng rất hiếm có định
nghĩa nào đủ sức bao quát được tất cả mọi đặc trưng của thể loại này. Quan
niệm của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong Từ
điển thuật ngữ văn học có thể xem là đầy đủ nhất: “Thơ là hình thức sáng
tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện những tâm trạng, những cảm xúc
mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là nhịp điệu” [14,
tr.44]
Theo thần thoại Hy Lạp, Calliope được xem là nữ thần của thi ca. Bà là
người đứng đầu trong 9 nữ thần nghệ thuật và khoa học. Calliope còn được
xem là nữ thần của trí tệ, tri thức, hùng biện và giai điệu. Nghĩa là, người Hy
Lạp cổ đại cho rằng thơ ca đứng đầu trong các ngành nghệ thuật và năng lực
của rất nhiều nguồn sức mạnh. Thơ ca tự nó khởi phát chứ khơng phải do một
năng lực được kí thác. Con người tự biết rung động trước thiên nhiên và tìm
cách biểu đạt nó ra bằng ngơn từ. Và từ mn đời nay, dù xã hội có thế nào,
thì thơ ca vẫn cất giữ trong nó ngọn lửa bất diệt sẵn sàng bùng cháy lên trong
mọi hoàn cảnh. Những thi sĩ ln là những người được kính trọng trong xã
hội. Họ xuất thân từ nhiều tầng lớp, nhiều hoàn cảnh nhưng đối với con người


8
họ là những vị thần sáng tạo, mang đến cho cuộc sống những vần thơ êm dịu,
giúp họ vơi bớt nỗi đau và tìm thấy mình ở đâu đó trong câu thơ.

Có thể nói, hầu hết các bộ sử thi vĩ đại của nhân loại đều viết bằng lời
thơ. Hai bộ đại sử thi Ấn Độ Ramayana hay Mahabharata là những bài thơ bất
tận, kết tinh trí tuệ của rất nhiều con người qua nhiều thời đại. Người ta ví hai
bộ sử thi này là túi khôn của người Ấn và hằng ngày mỗi người Ấn đều ca
tụng nó. Những gì có trên đất nước Ấn Độ đều có trong hai bộ sử thi vĩ đại
này. Người ta cũng kinh ngạc là làm sao khi chưa có chữ viết mà người Ấn
Độ có thể lưu lại hai bộ sử thi ấy một cách nguyên vẹn qua mấy ngàn năm.
Đó cũng là một câu hỏi khiến các nhà nghiên cứu phân vân. Một cách trả lời
rất đơn giản đó là nó đã được viết bằng lời thơ chứ không phải là văn xuôi.
Tiếp đến là phải kể đến hai bộ sử thi cũng không kém phần đồ sộ của Hy Lạp:
Odixe và Ilyat. Hai bộ sử thi đồ sộ thâu tóm toàn bộ cuộc chiến đấu của đoàn
quân Hy Lạp chinh phục kẻ thù và cả những cuộc nội chiến. Odixe tiếp sau
nội dung của Ilyat nhưng được viết dài hơn. Điểm chung nhất của các bộ sử
thi là biểu hiện cái đẹp trong trạng thái rực rỡ nhất của con người và tự nhiên.
Đó có thể là một vị anh hùng với sức khỏe và dáng dấp phi thường, trái tim
bao dung, ý chí mãnh liệt, trí tuệ phi phàm. Đó có thể là một trận đánh vơ
cùng khốc liệt, diễn ra trong một thời gian dài ở thế trận giằng co, gây cấn và
khi thắng bại phân tranh thì chiến trường hoang tàn đầy xác chết. Có thể nói
ngơn ngữ sử thi luôn biểu hiện sự vật ở trạng thái tột bậc, phi thường, tráng lệ.
Người đời sau đọc sử thi, họ lại tiếp tục đi tìm cái đẹp được ẩn giấu sau
lớp ngôn từ mềm mại ấy. Đã qua biết bao thời gian, biết bao cái mới được
hình thành nhưng những giá trị cũ xưa luôn gây cho ta niềm hứng thú, say mê
đến bất tận. Ta càng đọc càng thấy cha ơng vĩ đại, thấy mình có trách nhiệm
nhiều hơn trong nhiệm vụ giữ gìn, phát huy tiếp biến những giá trị vĩnh hằng
ấy.


9
Con người đồng hóa thế giới theo nhiều quy luật khác nhau, trong đó
có quy luật cái đẹp. Trong cuộc sống của con người, cái đẹp luôn là người bạn

đồng hành, có mặt khắp mọi nơi. Ở đâu có cuộc sống của con người là ở đó
có cái đẹp. Cái đẹp đem lại niềm vui, niềm hạnh phúc, nâng đỡ con người
vượt qua thử thách. Nhờ có cái đẹp mà con người không mất niềm tin vào
cuộc sống, vào chân lí, vào ngày mai. Cái đẹp ln là khát khao vươn tới của
con người. Thơ ca đã phản ánh chân thực những cái đẹp của cuộc sống, cái
đẹp trong thơ ca có mối quan hệ mật thiết với cái đẹp trong cuộc sống, đó là
mối quan hệ thống nhất.
Bất cứ một cái đẹp nào đều được thơ ca mô tả và tái hiện, nó đều gắn liền với
thái độ, cảm xúc, tình cảm của người nghệ sĩ gửi gắm trong đó. Đọc Truyện
Kiều của Nguyễn Du, chúng ta cảm nhận được rất rõ rằng mỗi cảnh sắc thiên
nhiên đều chứa đựng trong đó những nỗi niềm riêng tư, thầm kín của con
người. Mở đầu Truyện Kiều, khi tả mùa xuân Nguyễn Du đã viết:
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Câu thơ không chỉ phác thảo ra cảnh tuyệt đẹp của trời đất ngày xuân, mà còn
diễn tả cả vẻ tinh khiết của tiết thanh xuân.
Qua đây, ta có thể khẳng định rằng thơ ca và cái đẹp có mối quan hệ
thống nhất, gần gũi với nhau. Là sản phẩm độc đáo của một hoạt động sáng
tạo có mục đích, in đậm dấu ấn tài năng, cá tính sáng tạo và thế giới tinh thần
của người sáng tạo ra nó. Giúp con người hướng đến cái cao cả, cái tốt đẹp
chân – thiện – mĩ, góp phần tơ điểm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn.
1.1.2. Thơ ca với mùa thu
Mùa thu là mùa của thi ca, là nguồn cảm hứng của bao thi sĩ, màu sắc,
âm thanh mùa thu là động lực để đánh thức tâm hồn của con người. Tiết thu
se lạnh khiến lòng người se lại. Lá bắt đầu lác đác trên đường phố và những
ánh nắng cũng nhạt dần theo từng ngày qua. Mùa thu tới lặng lẽ, bình thường


10
như chu kỳ tuần hoàn của đất trời, Chế Lan Viên ngạc nhiên, buột miệng thốt

lên:
Chao ơi! Thu đã tới rồi sao?
Thu trước vừa qua mới độ nào!
Mới độ nào đây, hoa rạn vỡ,
Nắng hồng chồng ấp dãy bàng cao
(Thu)
Có lẽ đã từng có nhiều nghệ sĩ mượn cảm hứng sáng tác từ mùa thu
nhưng thi ca vẫn ẩn chứa nhiều bí ẩn. Thi ca về mùa xuân, mùa hè, mùa đông
rất nhiều nhưng mùa thu là nhiều hơn cả, và chất chứa nhiều tâm trạng. Thu
có gì cuốn hút đến vậy mà nhiều nhà thơ nổi tiếng phải ngả bút để sáng tác
thành các thi phẩm? Trong không gian thu, cái gì cũng đẹp, đến lung linh
huyền ảo, thu bắt đầu từ khi chiếc lá bàng đang xanh rì giật mình uốn cong
chuyển vàng rồi sang sắc đỏ. Ai bảo chỉ có lá phong ở phương trời Tây mới
có sắc thu vàng đỏ mà sắc đỏ vàng cũng đã rơi vào các tác phẩm nghệ thuật
của các nghệ sĩ Đông phương như một nét độc đáo báo hiệu đất trời con
người đang thu.
Nhắc đến nền văn học Trung Hoa từ hàng ngàn năm trước, chúng ta
không thể không kể đến những tác giả đã tạo nên những tuyệt tác ca ngợi mùa
thu như: Lý Bạch, Vương Duy, Thôi Hiệu, Đỗ Phủ,…
Một đêm thu với những cảnh vật: Trăng xế, quạ kêu, sương đầy trời,
cây phong bên sông, ánh lửa chài được Trương Kế tạo nên kiệt tác Phong
Kiều dạ bạc: “Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên/ Giang phong ngư hỏa đối
sầu miên/ Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự/ Dạ bán chung thanh đáo khách
thuyền” (Trăng tà chiếc quạ kêu sương/ Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ/
Thuyền ai đậu bến Cô Tô/ Nửa đêm nghe liếng chng chùa Hàn Sơn)
Cảnh vừa có màu sắc vừa có âm thanh. Màu vàng của vầng trăng xế,
vầng trăng tà. Màu trắng bao la của sương đêm phủ đầy trời, ngọn lửa chài le


11

lói trong các khoang thuyền. Lùm cây phong đen sẫm ẩn hiện bên bờ sơng.
Và có tiếng quạ; quạ giật mình thấy sương trắng phủ đầy trời, ngỡ là trời đã
sáng, cất tiếng kêu... Một cảnh buồn trên bến Phong Kiều. Và đó cũng là tâm
trạng buồn của li khách đang nằm mơ ngủ trong thuyền. Tiếng chuông chùa
Hàn Sơn đã làm rõ thêm cảnh vắng lặng, êm đềm bến Phong Kiều một đêm
thu. Tiếng chuông chùa vẳng lên giữa đêm khuya còn mang một ý nghĩa thẩm
mĩ rất tinh tế. Đó là nỗi buồn nhớ cố hương của người lữ khách. Hơn một
nghìn năm đã trơi qua, ai đã từng đọc thơ Đường, ai đã yêu thơ Đường, nhất
là những khách li hương đó dây, vẫn cảm thấy tiếng chng chùa Hàn Sơn
được Trương Kế nói đến vẫn cịn làm rung động hồn mình, làm nao nao, làm
thổn thức lịng mình.
Bức tranh thu đã được tơ đẹp bằng một vầng trăng thu huyền ảo. Trăng
soi lồng lộng trên sóng nước bập bềnh biến dịng sơng thành một giải lụa vàng
óng ả. Trong một đêm trăng vắng vẻ nhà thơ Lý Bạch nằm trong thư phịng,
bóng trăng khe khẽ len qua khung cửa sổ rọi sáng đầu giường, trong một
không gian tịch mịch giữa đêm, hồn thơ đã nhập vào hồn trăng bay lâng lâng
vào một cõi mộng ảo vô cùng. Những tia sáng của trăng chập chờn mờ ảo đã
làm nhà thơ ngỡ ngàng như sương khói bao phủ đầu giường, nhìn trăng mà
lịng buồn vời vợi, ngổn ngang trăm mối tơ lịng. Có nỗi buồn nào ray rứt da
diết ngấm tận hồn bằng nỗi sầu nhớ cố hương, quê cha đất tổ: “Giường khuya
trăng chiếu bời bời/ Sương rơi phủ đất ngỡ đời chiêm bao/ Ngẩng đầu trăng
sáng trên cao/ Cúi đầu ngấn lệ nghẹn ngào cố hương (Tĩnh dạ tứ – Lý Bạch)
Bài thơ thu này đã vẽ lên một bức tranh sống động, có một âm hưởng
tuyệt vời, trở thành một bài nhạc phủ (khúc hát mùa thu) trác tuyệt của Đường
thi Ngưỡng đầu khán minh nguyệt, Ký tình thiên lý quang (Ngẩng nhìn trăng
sáng lung linh, Xót thương nghìn dặm gửi tình q xa). Trăng là người tình
chung thủy của Lý Bạch, để cuối cùng trong một đêm say khướt nhà thơ đã


12

trầm mình xuống sơng Trường Giang để được ơm vầng trăng huyền ảo để
cùng với trăng vĩnh viễn an giấc ngàn thu …
Khơng có trăng nào đẹp bằng trăng thu, chẳng có trăng nào nào sáng
hơn trăng quê như Đỗ Phủ đã âm thầm hoài vọng thiết tha: Tha phương đêm
phủ màu sương trắng/ Cố quận trăng soi ánh tỏ ngời (Nguyệt dạ ức xá đệ –
Đỗ Phủ).
Phong cảnh mùa thu đa tình đa cảm ru ngủ lịng người đã được diễn tả qua
ngịi bút trác tuyệt tài tình của các thi nhân như Đỗ Phủ (“Oanh vàng liễu biếc
song song hót/ Nhạn trắng trời xanh vút vút bay/ Tây lĩnh nghìn thu sương
tuyết phủ/ Đơng Ngơ thuyền đậu lớp lớp đầy” - Tuyệt cú) hay Tô Thức (“Mây
chiều gom hết trời thu giá/ Lẳng lặng sông Ngân đổ nguyệt đầy/ Kiếp ấy đêm
nao tình nở đẹp/ Chốn nào trăng sáng hẹn cùng say? - Trung thu nguyệt)
Mùa thu là mùa của sự gợi nhớ mông lung, nhớ nhà, nhớ quê, nhớ gia
đình của những kẻ phải mang kiếp sống tha phương lênh đênh nơi xứ lạ quê
người, cái nỗi niềm cô độc lầm than của một kiếp sống ly hương:
“Lưa thưa sao sớm vờn chân nhạn/ Réo rắt lầu khuya lộng sáo diều/
Sông quê mùa cá, chưa về xứ/ Đày đọa phương người, phận hẩm hiu” (Tràng
An thu tịch – Triệu Cổ),
“Tùng cúc hai lần rơi lệ uất/ Đò đơn một độ khóc q rịng/ Thấu
xương cơn rét cần may áo/ Bạch Đế chày buông tiếng chập chùng (Thu hứng
– Đỗ Phủ)
Có những bài thơ thu đã được sáng tác để ghi nhớ, hồi tưởng lại một
giai đoạn lịch sử nào đó, nhớ lại một thời vàng son nhung gấm, khi nhà thơ đã
nhập thế, làm quan, lo việc triều cung, nhưng đơi khi gặp hồn cảnh khơng
may, khơng được thăng quan tiến chức, mà thất vọng chán nản, đành thúc thủ
an phận, chấp nhận số mệnh một cách tiêu cực theo đạo lý Trung Dung
(Thượng oán bất thiên, hạ bất vưu nhân, cư dị dĩ sĩ mệnh - Trên khơng ốn
trời, dưới khơng trách người, sống bình dị đợi mệnh):



13
“Nức nở ve kêu thương nguyệt úa/ Não nùng đom đóm khóc chiều
ngây/ Tài văn bao thuở triều cung hiến/ Thở vắn đêm sương lệ ứa đầy (Tân
thu – Đỗ Phủ)
“Ghé bến thu sầu đau dạ khách/ Lên non tuổi hạc xót thương mình/
Phơ phơ tóc trắng đời chao đảo/ Lắm nỗi chua cay, rượu chẳng đành (Đăng
cao – Đỗ Phủ)
“Lê gót phong trần, thư bặt tín/ Dặm trường quan tái, bước gian nan/
Mười năm lủi thủi đời hiu quạnh/ Thúc thủ giờ đây sống tịnh an (Túc phủ –
Đỗ Phủ)
Những hạt mưa thu rơi thánh thót bên song gợi nỗi sầu hiu hắt, cảnh
lịng quạnh hiu cơ đơn, sau tháng ngày đăng đẵng việc triều cung, nay ngồi
ngẫm nghĩ về thân phận con người và cuộc đời:
“Nắng tàn dạo mát hồ trong/ Lăn tăn sóng nước gợi lịng cơ liêu/ Sự
đời trôi nổi đã nhiều/ Hỏi con nước chảy còn điều thở than? (Thu nhật hồ
thượng - Tịch Huỳnh)
Đọc thơ Đường để cảm nhận tiếng lòng xao xuyến của người xưa vọng
lại của hồn xưa trăn trở còn phảng phất đâu đây. Những bài thơ thu với những
từ ngữ điêu luyện, ý tưởng phong phú, cảnh tình thắm thiết đậm đà tình cảm
sâu sắc, nồng nàn, với những ngơn ngữ thâm thúy, tự nhiên hàm súc, ý tưởng
chân thật, đầy cảm xúc.
Mùa thu của dân tộc ta bước ra từ những trang sách, khi lần đầu tiên
cắp cặp tới trường trong tiết trời thu mát mẻ mà nhà thơ Quang Huy đã tinh tế
khi đưa mùa thu tới cho tâm hồn học trị với đa dạng màu sắc, hình ảnh độc
đáo của thu Hà Nội vàng hoa cúc, xanh cốm mới hương sen quẩn quanh, với
trời xanh thẳm trong đêm rằm trung thu có chị Hằng xinh đẹp đến từ cung
trăng (Mùa thu của em), dường như tạo cảm hứng cho một năm học mới. Rồi
nhiều bài thơ mang cảm hứng mùa thu của các nhà thơ khác cũng lần lượt
được giới thiệu trong chương trình học phổ thơng mà không khỏi khiến những



14
cơ cậu học trị thả hồn mơ mộng, như ba bài thơ về mùa thu của Nguyễn
Khuyến: Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm; Đây mùa thu tới của Xuân Diệu,
Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, Hai sắc hoa ti gôn của T.T.KH…
Có lẽ trong bốn mùa, thu là mùa gần với tâm hồn người nghệ sĩ hơn cả,
nó tác động mạnh tới xúc cảm thẩm mỹ của người nghệ sĩ. Mỗi cơn gió lành
lạnh của mùa thu hoang hoải thổi khiến con người ta gần nhau hơn, dễ cảm
nhau hơn, quyến luyến nhau hơn…Thu cũng là mùa khiến tình yêu mong
manh hơn, bởi cảnh sinh tình, người buồn cảnh có vui đâu bao giờ nên thơ thu
thường mang một nỗi buồn mênh mang: “Thu héo nấc thành những tiếng khô/
Một vì sao lạ mọc phương mơ?/ Người thơ chưa thấy ra đời nhỉ?/ Trinh bạch
ai chôn tận đáy mồ?(Cuối thu - Hàn Mặc Tử).
Mùa thu lang thang phố phường Hà Nội, chợt nhận ra lá vàng rải đầy
gót chân, để bất chợt nhớ một người ra đi đầu không ngoảnh lại/ sau lưng
thềm nắng lá rơi đầy (Đất nước - Nguyễn Đình Thi). Say đất trời thu để rồi
ca từ trong các ca khúc nổi tiếng về thu cũng đầy chất thơ. Đó là một Ngơ
Thụy Miên khơng chỉ để mình đắm chìm trong khơng gian thu, ơng cịn mang
cả Mùa thu cho em, muốn người yêu tìm đến khoảng đồng điệu trong tâm
hồn. Rồi một Trịnh Công Sơn trong Nhớ mùa thu Hà Nội đã vẽ nên khung
cảnh thu Hà Nội để khiến hình ảnh ai đó bỗng trở nên thân quen, nhớ đến một
người/ để nhớ mọi người…
Mượn tên bài hát do Phú Quang phổ nhạc từ thơ Giáng Hương để nói
một điều rằng mùa thu chẳng có tội tình gì, chỉ bởi con người ta sầu muộn mà
sinh tình, sinh ý, sinh ra những tuyệt phẩm để đời đấy thôi. Người nghệ sĩ
bỗng thành nhà thơ khi si mê, bị ám ảnh bởi mùa thu. Có lẽ vì thế người ta
cho rằng thu là mùa của các thi nhân. Mùa thu huyền ảo nên các tác giả cứ vơ
tình đưa bút tới những nẻo thu. Khơng thể bỏ qua những bài thơ thu của các
nhà thơ nổi tiếng như Nguyễn Bính với Bắt gặp mùa thu, Thu rơi từng cánh;
Vũ Hoàng Chương với Mùa thu đã về; Quách Tấn với Thương thu; Đoàn



15
Văn Cừ với Thu và Cuối thu: Cuối trời biếc, lúa vàng bông/ Cỏ nhạt màu
xanh, lá úa hồng…; Anh Thơ với Sang thu, Chiều thu, Đêm thu; Huy Cận
với Thu, Thu rừng: Sầu thu lên vút, song song/ Với cây hiu quạnh, với lịng
quạnh hiu…
Nghệ thuật làm được gì cho con người? Có thể thấy rằng, qua các tác
phẩm nghệ thuật con người tới gần nhau hơn, nếu thi ca cịn bị cách trở bởi
ngơn ngữ, thì hội họa, âm nhạc lại “thoát” khỏi rào cản này khi chỉ cần
mở Bản giao hưởng bốn mùa của nhà soạn nhạc Ý A.Vivaldi là ta đã rùng
mình với hơi thu lành lạnh của nước Ý hay đắm chìm trong Mùa thu
vàng của Levital. Thu bảng lảng sương khói, dù ở bất kỳ đâu những nét thu
cũng quen thuộc.
1.2. Vẻ đẹp của mùa thu trong thơ ca phương Đông và Việt Nam
1.2.1. Mùa thu trong thơ ca phương Đông
Mùa thu luôn là niềm gợi hứng cho các thi văn thi sĩ tự cổ chí kim. Nó
chiếm một vị trí độc đáo trong gia tài thơ văn của nhân loại nói chung và thơ
ca phương Đơng nói riêng, mà tiêu biểu nhất là thơ văn Trung Hoa. Trong
kho tàng thơ văn Trung Hoa, mùa thu buồn luôn là một đề tài truyền thống rất
được các thi sĩ ưa chuộng, và thường được lấy làm bối cảnh khi tác giả muốn
phơi bày tâm sự.
Ở đó, mùa thu như được định mệnh gắn liền với sự buồn bã của cảnh
sắc, của lòng người. Nhắc đến mùa thu, người ta thường mường tượng ngay
đến cảnh sắc tiêu điều, lá rơi hoa rụng, gió thổi thê lương, chim chóc kêu thê
thiết, cơn trùng khóc rỉ rả, người nhớ người, người nhớ cảnh, lòng sầu ảm
đạm day dứt khơn ngi. Đó là những điều mà ta dễ dàng bắt gặp qua những
sáng tác của những thi nhân trong nền văn học Trung Hoa. Người đầu tiên
miêu tả mùa thu một cách tỉ mỉ và có hệ thống là Tống Ngọc. Tống Ngọc tên
tự là Tử Uyên, người nước Sở đời Chiến quốc, sống sau Khuất Nguyên. Ông

là người khai sáng ra thể Phú và là người đứng đầu thời đại về Sở từ, ông


16
cũng có tâm sự bất đắc chí như Khuất Ngun nên giọng văn của ông cũng rất
bi thảm. Bài ông tả về thu là một đoạn ngắn ở trong tác phẩm Cửu biện (tả
nỗi u uất của ông). Tuy ngắn nhưng được xem là một trong những đoạn văn tả
về thu hay nhất của Trung hoa, đem lại cho người đọc một cái cảm giác bi ai
tịch mịch:
Bi tai thu chi vi khí dã, tiêu sắt hề thảo mộc dao lạc nhi biến suy. Liệu
lật hề nhược tại viễn hành, đăng sơn lâm thủy hề tống tương quỵ. Quyết liệu
hề thiên cao nhi khí thanh, tịch liêu hề thu lạo nhi thủy thanh. Thảm thê tăng
hy hề bạc hàn chỉ trung nhân. Sảng hồng khống hận hề khứ cố nhi tựu tân.
Khảm lẫm hề bẩn sỉ thất chức nhi chi bất bình. Khuếch lạc hề ki lữ nhi vơ hữu
sinh, chù tướng hề hi tư tự lân. Yến phiên phiên kỳ từ quy hề, thiền tịch mịch
nhi vô thanh. Nhạn ung ung nhi nam du hề, côn kê trù chiết nhi bi minh. Độc
thân đán nhi bất mị hề, ai tất suất nhi tiêu chinh. Thời vỉ vỉ nhi quá trung hề,
kiển yêm lưu nhi vô thành. [21, tr.112]
(Dịch nghĩa: Buồn thay khí tiết mùa thu! Cây cỏ úa hề, rụng lá mà biến
suy. Thê lương thay, như khi đi xa, trèo núi lội sông hề, tiễn kẻ hồi qui. Quang
đãng hề trời cao mà khí trong. Leo lẻo hề, lụt đã rút mà nước trong. Thảm thê
hề trời đã hơi lạnh mà người thêm sụt sù. Xót xa ân hận hề, bỏ qua tiết cũ mà
qua tiết mới. Khốn cùng hề, kẻ bần sĩ mất chức mà bất bình. Không hợp đời
hề, lẻ loi trên đường mà không bạn bè, buồn bã hề, mình lại thương cho mình.
Chim y vùn vụt, từ giã bay đi hề, ve sầu lặng lẽ mà khơng kêu. Chim nhạn hịa
hợp mà bay quanam hề, gà bồ chíp chíp mà bi thảm kêu. Một mình thức tới
sáng mà khơng chợp mắt hề, buồn cho con dế lò mò trong đêm. Đã gắng gỏi
già nửa đời hề, lao đao trôi giạt bao lâu rồi mà không thành.)
Qua đoạn văn trên, ta nhận thấy đủ những đường nét của thu: Lá vàng
rụng, trời quang, nước trong, khí trời lạnh lẽo, tịch mịch, kẻ lữ hành buồn bã

vì li biệt. Lồng trong đoạn tả cảnh này, Tống Ngọc đã thêm vào ít câu nói lên
tình huống chua xót của mình, thân phận một kẻ lẻ loi khơng bạn bè, không


17
quan tước, hồn cảnh và tâm sự khơng khác gì Khuất Ngun. Tiếp theo, ơng
tả nỗi buồn của lồi vật: Yến, ve, nhạn, gà bồ, dế. Rồi lại nhắc đến thân phận
của mình một lần nữa: Già nửa đời người mà chẳng nên việc gì cả.
Đây là lần đầu tiên trong văn học Trung hoa có được một đoạn văn tả
về thu một cách trực tiếp, đầy đủ chi tiết và mang một giọng buồn thảm như
vậy. Rồi từ đó, trải qua mấy ngàn năm, mùa thu đã trở thành bối cảnh để cho
các thi sĩ bày tỏ cảm xúc của mình, từ những nét chấm phá lãng mạn của Lý
Bạch, nét tiêu sái của Vương Duy, đến nỗi buồn ai oán của Bạch Cư Dị, vẻ
nghiêm túc của Thượng Quan Nghi,... Tuy nhiên, phải đợi đến Âu Dương Tu
đời Tống, chúng ta mới có được một bài văn tả mùa thu một cách tỉ mỉ và quy
mô. Bài Thu thanh phú của ông được coi là một trong những bài tả mùa thu
hay nhất của nhân loại. Ông đi vào mùa thu qua âm thanh, cái mà ông gọi là
tiếng thu. Qua tiếng thu, ơng nói đến hình dáng, khí vị, ý của mùa thu rồi
nhân đó đề cập đến kiếp nhân sinh và than thở cho thân phận vất vả của con
người. Bài Thu thanh phú gồm độ 500 chữ và có nội dung như sau: Đêm
khuya Âu Dương Tu nằm đọc sách bỗng nghe một thứ tiếng động lạ từ hướng
tây nam, bèn bảo đồng tử ra xem. Cậu bé xem xong bảo rằng khơng thấy gì
cả, chỉ nghe tiếng phát ra từ lùm cây. Ông bèn bảo rằng đó là tiếng thu đấy.
Rồi ơng dùng một đoạn để nói về cảnh điêu lạc của mùa thu. Đoạn kế tiếp ông
luận về thu dựa trên âm dương ngũ hành, lẽ thịnh suy của trời đất. Sau đó,
ơng lại liên tưởng đến kiếp người phải lao đao khổ ải. Khi ơng than xong và
quay lại thì đồng tử đã ngủ mất, chỉ cịn có tiếng cơn trùng rỉ rả góp thêm lời
than thở với ơng.
Qua bài này, chúng ta được biết một số chi tiết lý thú về mùa thu theo
quan niệm Trung hoa thời xưa. Mùa thu là mùa của hình tội, vì theo luật lệ

nhà Chu, đến mùa thu các quan mới đem tội nhân ra xử, cho rằng như thế thì
hợp với đạo trời viện lẽ là mùa thu là mùa của điêu linh, chứa đầy sát khí.
Mùa thu thuộc âm, cùng với mùa đơng. Còn trong ngũ hành, thu thuộc kim.


18
Kim là sắt, nguyên liệu để làm binh khí, thành ra thu cũng mang thêm ý nghĩa
tàn sát. Thật là khác xa với các ý tưởng lãng mạn về thu của các thi sĩ cận đại.
Trong ngũ âm (cung, thương, giốc, chủy, vũ), tiếng thương thuộc kim như
mùa thu, thành ra tiếng thương là tiếng của mùa thu. Và chữ thương này cũng
đồng âm với chữ thương có nghĩa là bi thương, do đó tiếng thu buồn bã là
chuyện đương nhiên. Chúng ta thử đọc đoạn tả mùa thu:
“Cái phù thu chi vi trạng dã, kỳ sắc thảm đạm, yên phi vân liễm, kỳ
dung thanh minh, thiên cao nhật tinh; kỳ khí lật liệt, biêm nhân cơ cốt; kỳ ý
tiêu điều, sơn xuyên tịch mịch. Cố kỳ vi thanh dã, thê thê thiết thiết, hô hào
phấn phát. Phong thảo lục nhục nhi tranh mậu, giai mộc thông long nhi khả
duyệt, thảo phất chi nhi sắc biến, mộc tao chi nhi diệp thoát. Kỳ sở dĩ tồi bại
linh lạc giả, nãi nhất khí chi dư liệt".[21, tr.334]
(Dịch nghĩa: Ơi tình trạng mùa thu, sắc ảm đạm, khói bay ra, mây thu
lại, vẻ trong sáng, bầu trời cao, mặt trời sáng; khí lạnh lẽo, châm chích thịt
xương, ý tiêu điều, núi sơng tịch mịch. Cho nên tiếng mùa thu thê thiết, ồn ào
nổi dậy. Cỏ đang xanh rậm tranh nhau tươi tốt, cây đang xum xuê vui vẻ mà
bị (khí thu) dính vào thì cỏ úa, cây rụng lá. Do đó cây cỏ tiêu điều hư hao là
vì cái khí khốc hại của mùa thu).
Sau khi gán cho mùa thu cái vẻ hắc ám thê thảm trên, Âu Dương Tu
liên tưởng đến kiếp người:
“…Thảo mộc vơ tình, hữu thời phiêu linh; nhân vi động vật, duy vật chi
linh; bách ưu cảm kỳ tâm, vạn sự lao kỳ hình; hữu động hồ trung, tất dao kỳ
tinh; nhi huống tư kỳ lực chi sở bất cập, ưu kỳ trí chi sở bất năng; nghi kỳ ác
nhiên đan giả vi cảo mộc, y nhiên hắc giả vi tinh tinh."

(Dịch nghĩa: Cây cỏ vơ tình, có lúc phải điêu linh; người là động vật, linh
hơn mọi vật; trăm lo làm động lòng, vạn sự làm khổ thân; hễ có động thì tinh
thần phải lung lay; huống hồ cịn nghĩ chuyện q sức mình, lo chuyện q


19
tài trí của mình, thì mặt đang hồng hào biến thành cây khơ, tóc đang đen biến
thành trắng xóa âu cũng là chuyện đương nhiên.).
Trên đây là hai đoạn văn xuôi (thể Phú) miêu tả mùa thu, tuy hay
nhưng không khỏi có vẻ khơ khan vì hơi có tính cách nghị luận, phân tích.
Trong phần kế tiếp, chúng ta sẽ được nhìn thu dưới một nhãn quan khác, lãng
mạn hơn, nặng về xúc cảm hơn, của các thi sĩ. Chữ lãng mạn đây xin được
hiểu theo nghĩa tương đối, vì chúng ta không thể nào bắt các nhà thơ Đường
cổ điển có được những vần thơ trữ tình ướt át như Lưu trọng Lư, Xuân Diệu,
Lamartine hay Paul Verlaine được. Mùa thu ở đây được dùng như là khung
cảnh để nói lên tâm trạng của tác giả, nghĩa là tả cảnh để tả tình vậy. Những
tình cảm ở đây vẫn có tính cách chừng mực, nhẹ nhàng và khn thước của lễ
giáo.
Chẳng hạn như cảnh đoàn tụ của Ngưu Lang Chúc Nữ trong Thu tịch
của Đỗ Mục: “Ngân chúc thu quang lãnh họa bình/ Khinh la tiểu phiến phác
lưu huỳnh/ Thiên giai dạ sắc lương như thủy/ Tọa khán Khiên Ngưu Chức Nữ
tinh” (Đêm thu ánh nến lạnh bình phong/ Quạt lụa đuổi xua đóm chạy vịng/
Trời tối sậm đen lạnh tợ nước/ Ngưu Lang Chức Nữ gặp trên không.)
Đặc trưng của cảnh thu phương Bắc được hiện lên rõ nét trong Tuyệt
cú của Đỗ Phủ, bài thơ được xem là một bức tranh tứ bình tuyệt mĩ. Cảnh vật
thiên nhiên đang cùng tồn tại. Thiên nhiên vốn đẹp là vậy, có liễu biếc, trời
xanh, có oanh vàng và hàng cò trắng, màu sắc của bức tranh thật tươi sáng và
rực rỡ. Cảnh sắc trời xanh, núi tuyết đã tạo nên sự bao la một màu nghìn thu
tuyết: “Lưỡng cá hoàng ly minh thúy liễu/ Nhất hàng bạch lộ thượng thanh
thiên/ Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết/ Môn bạc Đơng Ngơ vạn lý thuyền”

(Liễu thắm chim vàng đơi sóng hót/ Trời xanh cị trắng một hàng bay/ Nghìn
thu tuyết lạnh núi che phủ/ Vạn chiếc thuyền Ngô sông đậu đầy”.)
Trong Giang thượng của Đỗ Phủ, mùa thu ở Kinh Sở hiện lên thật đìu
hiu: “Giang thượng nhật đa vũ/ Tiêu tiêu Kinh Sở thu/ Cao phong hạ mộc


20
diệp/ Vĩnh dạ lãm điêu cừu/ Huân nghiệp tần khán cảnh/ Hành tạng độc ỷ
lâu/ Thời nguy tứ báo chủ/ Suy tạ bất năng hưu”.
(Dịch nghĩa: “Trên sông ngày nào cũng mưa nhiều/ Mùa thu đất Kinh Sở thật
đìu hiu/ Gió lớn làm lá cây rụng rơi/ Ðêm dài lạnh ôm chặt áo lông chồn/
Nhớ đến sự nghiệp, thường soi kiếng/ Một mình tựa trên lầu ơn lại chuyện cũ/
Thời buổi nguy biến càng nghĩ đến báo ân vua/ Tuy đã già yếu cũng không
ngừng nghĩ đến chuyện này”.)
Cảm xúc, tâm sự thầm kín của Đỗ Phủ được thể hiển qua Thu hứng. Ở
hai câu thơ đầu, chỉ vài nét chấm phá, Đỗ Phủ đã thể hiện được cái thần của
chiều thu ở Quỳ Châu. Sự tiêu điều của cảnh vật được thể hiện rõ qua hai câu
đầu: “Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm/ Vu sơn, vu giáp khí tiêu sâm” (Lác
đác rừng phong hạt móc sa/ Ngàn non hiu hắt, khí thu lịa).
Như ta đã biết, trong thơ cổ của Trung Hoa, hình ảnh rừng phong gắn
liền với mùa thu bởi mỗi độ thu về, rừng phong chuyển sang màu đỏ úa tượng
trưng cho sự li biệt. Sương trắng cũng tượng trưng cho mùa thu, cho sự lạnh
lẽo. Sương móc sa dày đặc làm xơ xác cả rừng phong. Câu thơ đầu cho chúng
ta thấy cảnh thu ở rừng phong thì sang câu thơ thứ hai, ta thấy được cảnh thu
ở núi non. Vu sơn, Vu giáp tức là núi Vu, hẻm Vu nổi tiếng về sự hiểm trở,
hùng vĩ. Quanh năm ở đây vốn ảm đạm, lạnh lẽo. Nhà thơ không chỉ miêu tả
cảnh thu, mà thông qua cảnh thu ấy, Đỗ Phủ đã bày tỏ lòng mình trước cảnh
mùa thu ở nơi đất khách: “Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ/ Cô chu nhất hệ cố
viên tâm”
Dịch thơ:

Khóm cúc tn thêm dịng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Trong Thu hứng, mùa thu khơng chỉ gắn liền với rừng phong mà mùa
thu cịn đi đơi với hình ảnh hoa cúc. Điều đặc biệt ở đây là mỗi lần thấy cúc


×