Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Bàn về ý nghĩa địa danh: Trường hợp thị xã Quảng Yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512.28 KB, 5 trang )

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(87).2015

5

BÀN VỀ Ý NGHĨA ĐỊA DANH: TRƯỜNG HỢP THỊ XÃ QUẢNG YÊN
SOME ISSUES OF THE MEANING OF TOPONYM (PLACE NAMES):
THE CASE OF QUANGYEN TOWN
Trịnh Tam Anh, Nguyễn Ngọc Chinh
Đại học Đà Nẵng; ;
Tóm tắt - Địa danh học là môn học rất thú vị, giúp mọi người trả lời
những câu hỏi về nguồn gốc, lý do của những tên làng xóm, cầu
cống, chợ búa, tỉnh thành... Địa danh là một bộ phận của ngôn ngữ
và địa danh cũng là tấm bia khắc ghi lại những nét văn hóa, lịch sử
mà con người đã đi qua. Địa danh thường được nghiên cứu dưới
hai góc độ: cấu tạo và ý nghĩa địa danh. Ý nghĩa địa danh là vấn đề
mà những nhà nghiên cứu luôn quan tâm sâu sắc, nội dung vô cùng
quan trọng của việc nghiên cứu địa danh học. Đồng thời nghiên cứu
địa danh luôn là vấn đề đa dạng, phức tạp và ý kiến của các nhà
khoa học chưa thống nhất. Vì vậy, khi nghiên cứu ý nghĩa địa danh
thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh, tác giả phân chia thành từng
nhóm nhỏ nhằm chứng minh một cách cụ thể những giá trị mặt ý
nghĩa của địa danh thị xã Quảng Yên.

Abstract - Toponymy is a very interesting subject which helps
people answer questions about the origin of the name of villages,
bridges, markets, cities... Toponymy is part of the language and the
inscription of the culture,the history people have gone through.
Place names are often studied under two perspectives: structure
and meaning. Meaning is the issue that the researchers are deeply
interested in; it is an extremely important content of the research of
place names. Furthermore, the study of sites is a diverse and


complex issue on which scientists have not totally agreed. So,
while doing research on meaning of place names in Quangyen,
Quangninh, the authors divided them into small groups to
demonstrate a specific value of the surface meaning of places in
Quangyen.

Từ khóa - địa danh; ý nghĩa địa danh; thị xã Quảng Yên; khắc ghi;
tỉnh Quảng Ninh

Key words - toponymy; meaning of place names; Quangyen town;
inscription; Quangninh province

1. Mở đầu
Địa danh là một bộ phận của từ vựng, mang đặc tính
của ngơn ngữ. Về mặt cấu tạo từ, địa danh được coi là một
từ hoặc cụm từ. Địa danh xuất phát từ vốn từ chung và có
chức năng định danh, thế nên nó có chức năng biểu vật
(chức năng biểu hiện ý nghĩa của tên gọi sự vật). Tuy nhiên,
bản chất của ngơn ngữ mang tính võ đốn. Và địa danh là
bộ phận của ngôn ngữ, do vậy địa danh cũng mang trong
mình tính võ đốn. Tác giả Đỗ Hữu Châu cho rằng: “Biểu
vật theo lối miêu tả luôn biểu thị bản chất của sự vật hiện
tượng, nó chỉ bị chi phối bởi ngun tắc có tính lý do” [2,
tr.31]. Như vậy, mỗi địa danh ra đời đều có một lý do riêng
biệt. Lý do đó có thể phản ánh tâm tư tình cảm của con
người với đối tượng đó. Hoặc phản ánh bản chất, đặc điểm
của đối tượng liên quan đến địa danh. Tất cả mọi yếu tố đó
đều góp phần tạo nên ý nghĩa địa danh.
Tuy nhiên, vấn đề ý nghĩa của địa danh cũng chỉ mang
tính tương đối. Khơng nên tuyệt đối hóa vì: Thứ nhất, địa

danh ra đời gắn với sắc thái biểu cảm, tâm tư nguyện vọng
của con người qua cách nhìn nhận của chủ thể địa danh chứ
không phải sự phản ánh đặc điểm hiện thực của đối tượng;
Thứ hai, địa danh là sản phẩm của ngôn ngữ của một cộng
đồng người nhất định, cùng một địa danh nhưng mỗi cộng
đồng người có cách nhìn nhận khác nhau, cách định danh
khác nhau. Địa danh khơng tự hình thành và bất biến mà ln
phát triển trong không gian và theo thời gian. Địa danh luôn
gắn với q trình phát triển của văn hóa. Mà văn hóa có sự
đan xen nhiều đặc trưng của nhiều giai đoạn lịch sử khác
nhau và điều đó được thể hiện một phần thơng qua địa danh.
Vì vậy, ý nghĩa của địa danh khơng có giá trị tuyệt đối, và
đúng cho tất cả mọi thứ: đối tượng, khu vực, thời kỳ lịch sử,
mà chúng chỉ mang tính tương đối. Bài báo này tìm hiểu ý
nghĩa địa danh của thị xã Quảng Yên, Quảng Ninh – một
vùng đất địa đầu Tổ quốc Việt Nam, mang nhiều dấu ấn văn
hóa, lịch sử, tơn giáo, tín ngưỡng, … của người dân Bắc Bộ.

2. Phương pháp xác định ý nghĩa địa danh
Theo chúng tôi thống kê, cho đến nay ít cơng trình
nghiên cứu nào đưa ra được một phương pháp cụ thể mang
tính tồn diện về ý nghĩa địa danh.
Để xác định ý nghĩa địa danh, người nghiên cứu cần
nắm chắc địa bàn, đối tượng, có kiến thức sâu rộng về ngơn
ngữ của địa bàn, sử dụng thao tác của phương pháp so sánh
lịch sử để tìm hiểu về sự biến đổi ngữ âm, từ vựng, ngữ
pháp của địa danh. Ngoài ra, khi xác định ý nghĩa phải vận
dụng linh hoạt hợp lý các phương pháp, thận trọng khi đưa
ra kết luận.
Điều này đã được Nguyễn Kiên Trường đề cập khi

nghiên cứu về đặc điểm địa danh Hải Phòng: - Căn cứ vào
ngữ nghĩa của từ nhưng có chú ý đến sự biến đổi của chúng
theo thời gian; - Dùng phương pháp so sánh lịch sử để xác
lập mối quan hệ ngữ âm của các đơn vị có liên quan (giữa
địa danh và từ chung), từ đó phục nguyên lại dạng cổ của tên
gọi trong những trường hợp có thể và cần thiết; - Bám chắc
vào địa bàn khảo sát, vận dụng các tri thức có trong các bộ
mơn khác (địa lý, lịch sử, dân tộc, khảo cổ, văn hóa dân
gian…) [3, tr. 33]. Ngồi ra, chúng tơi cịn tham khảo những
nghiên cứu địa danh đã sử dụng hiệu quả phương pháp này
như: “Nghiên cứu địa danh Quảng Trị” của Từ Thu Mai,
“Địa danh Nam Định” của Phan Thị Huyền Trang. Chúng
tôi đã vận dụng phương pháp này và có sự điều chỉnh để phù
hợp với địa bàn nghiên cứu là hướng đi của chúng tơi khi tìm
hiểu ý nghĩa địa danh thị xã Quảng Yên.
3. Phân loại ý nghĩa địa danh
Khi tìm hiểu đặc điểm ngữ nghĩa của địa danh trên địa
bàn thị xã Quảng Yên, chúng tôi dựa trên những quan điểm,
ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu, như: A. V. Superanskaja,
Lê Trung Hoa, Nguyễn Kiên Trường...
Tuy nhiên, để tìm hiểu hệ thống ý nghĩa địa danh một


6

cách có hệ thống, tồn diện và phù hợp với địa bàn nghiên
cứu thì cần có sự phân chia hợp lý các nhóm và tiểu nhóm.
Chúng tơi phân chia ý nghĩa địa danh thị xã Quảng Yên
thành 3 nhóm lớn, cụ thể như sau:
Nhóm ý nghĩa phản ánh hiện thực khách quan;

Nhóm ý nghĩa phản ánh tư tưởng nguyện vọng của con
người;
Nhóm địa danh chưa xác định được ý nghĩa;
Từ những nhóm lớn chúng tơi tiếp tục chia thành các
nhóm nhỏ về trường nghĩa. Và điều đó được chứng minh
cụ thể ở phần sau.
3.1. Nhóm địa danh phản ánh hiện thực khách quan
Nhóm ý nghĩa phản ánh hiện thực khách quan là nhóm địa
danh theo phương thức tự tạo. Đặc tính chung của phương
thức này là quan sát trực tiếp đối tượng để tìm ra những đặc
điểm, tính chất của đối tượng và từ đó tìm ra những nét riêng
nhất, có tính nổi cộm nhất để đặt tên cho đối tượng. Tuy nhiên,
nhóm địa danh phản ánh hiện thực khách quan khác với nhóm
địa danh có ý nghĩa phản ánh tâm lý nguyện vọng của con
người. Đó là sự quy chiếu của đối tượng được định danh với
đối tượng khác có mối quan hệ gần gũi với đối tượng để đặt
tên. Và trường hợp này là người đặt tên đã dựa vào sự tồn tại
khách quan để đặt tên cho đối tượng.
Ví dụ: núi Đá Xanh, đượng Sim... “đượng Sim”: thực
vật sống trên đượng tất cả là cây sim. Khi đó, người định
danh phải tơn trọng hiện thực khách quan, dựa vào thảm
thực vật đặt tên. Người đặt tên không thể gọi là đượng Dừa
hay đượng Khoai vì như vậy là không phản ánh đúng hiện
thực khách quan.
Để phân chia một cách cụ thể hơn về nhóm ý nghĩa
phản ánh hiện thực khách quan, chúng tơi đã chia nhóm
này thành hai tiểu nhóm và các trường nghĩa.
3.1.1. Nhóm địa danh có ý nghĩa phản ánh đặc điểm, tính
chất của bản thân đối tượng được định danh
Đây là nhóm địa danh có số lượng lớn, gồm 56 địa

danh, với sáu trường nghĩa, phản ánh đối tượng với các đặc
điểm khác nhau.
A1. Trường nghĩa chỉ tính chất, đặc điểm của đối tượng
Trường nghĩa này có 11 địa danh, thuộc các loại hình
đối tượng khác nhau. Trường nghĩa này có cách định danh
là dựa vào bản chất bên trong đối tượng của đối tượng được
định danh. Và cách định danh này cũng tương đối phổ biến,
nhất là các đối tượng địa lý tự nhiên. Vì đối tượng địa lý tự
nhiên đều mang trong mình một tính chất, một đặc tính
riêng biệt so với các đối tượng khác.
Ví dụ: Làng La Khê theo các văn bản chữ Hán thì chữ
“la” có nghĩa là lụa, là một loại vải mềm mỏng, khê tức là
khe. Cách định danh như vậy là dựa vào tính chất dịng
chảy của khe nước.
Lựng Thuồng Luồng là khu vực nước sâu và nguy hiểm.
Như vậy, qua một số ví dụ trong trường nghĩa vừa nêu
cho thấy, cách định danh dựa vào tính chất đặc điểm của
đối tượng là cách định danh hồn tồn có lý do chính đáng.
Từ tên gọi những địa danh theo trường nghĩa trên cho ta
thấy tính chất đa dạng và phong phú của con người và thiên
nhiên nơi đây.

Trịnh Tam Anh, Nguyễn Ngọc Chinh

A2. Trường nghĩa phản ánh hình dáng của đối tượng
Trường nghĩa này có số lượng địa danh lớn, với 21 địa
danh. Những địa danh này chủ yếu thuộc các đối tượng địa
lý tự nhiên. Và đây là cách thức định danh phổ biến rộng rãi
khắp mọi nơi. Cách thức định danh này là do chủ thể định
danh quan sát trực tiếp đối tượng để đặt tên cho đối tượng.

Và tên gọi trường nghĩa này là dùng sự vật này gọi tên cho
sự vật kia dựa vào sự tương đồng nào đó giữa các sự vật.
Ví dụ: núi Con Lợn, núi Nấm Chiêng, núi Tiên Sơn...
A3. Trường nghĩa phản ánh vật liệu làm nên đối tượng
Trường nghĩa này dùng chính chất liệu làm nên đối
tượng để định danh cho đối tượng. Nếu cây cầu được làm
bằng sắt thì cầu đó sẽ được gọi là cầu Sắt. Hay cầu làm
bằng gỗ hoặc đá sẽ được định danh là cầu Gỗ, cầu Đá.
Trường nghĩa này có số lượng là 6 địa danh.
Ví dụ: cầu Đá, cống Bia Đá, quán Đá...
A4. Trường nghĩa phản ánh đối tượng của địa danh
Trường nghĩa này có 13 địa danh, phản ánh sự phức
hợp nhiều yếu tố trong một đối tượng.
Ví dụ: Hà An 1, Hà An 2, Hà An 3..... Tiền An 1, Tiền
An 2...
Những địa danh này chỉ xuất hiện ở địa danh hành chính.
A5. Trường nghĩa phản ánh màu sắc của đối tượng
Trường nghĩa phản ánh màu sắc là căn cứ vào màu sắc
bên ngoài của đối tượng để gọi tên. Tuy nhiên trường nghĩa
này có số lượng khơng nhiều, có 1 địa danh.
Ví dụ: tại sao lại có tên Núi Đá Xanh, định danh như
vậy bởi vì núi đá vơi do có màu xanh nên căn cứ vào màu
sắc bên ngoài của núi đá. Nên gọi là núi Đá Xanh. Cách
định danh dựa vào đặc điểm bên trong bản thân đối tượng
để định danh.
A6. Trường nghĩa phản ánh thời gian tồn tại của đối tượng
Khơng chỉ có khơng gian ảnh hưởng đến địa danh, thời
gian cũng là yếu tố vơ cùng quan trọng trong q trình tạo
hóa địa danh. Các đối tượng địa lý, đơn vị dân cư không phải
tạo ra và bất biến theo thời gian, mà một số địa danh có thể

mất đi hoặc thay đổi, từ đó tên gọi cũng thay đổi theo.
Trường nghĩa này có số lượng khá ít với 4 địa danh. Địa
danh trong trường nghĩa này xuất hiện khi cái cũ mất đi
hoặc cái mới ra đời.
Ví dụ: xã Tiền An là khu dân cư đầu tiên thành lập tại
khu đất của làng La Khê và khu bãi cát vàng của làng Bùi
Xá. Xã Hoàng Tân, Tân An thành lập sau xã Tiền An nên
mang yếu tố Tân (mới). Hay các công trình xây dựng như
cống Mới, cầu Mới, chợ Mới.
Như vậy địa danh xét theo đặc điểm, tính chất của bản
thân đối tượng được định danh có 6 loại được phân bổ
không đồng đều nhau về số lượng tại huyện Quảng Yên,
tỉnh Quảng Ninh được biểu thị trong bảng sau:
Bảng 1. Địa danh phản ánh đặc điểm, tính chất của bản thân
đối tượng được định danh tại Quảng Yên

Tt
Trường nghĩa chỉ
1 Tính chất, đặc điểm của đối tượng
2 Hình dáng của đối tượng

Số lượng
11
21


ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(87).2015

3 Vật liệu làm nên đối tượng


6

4 Đối tượng của địa danh

13

5 Màu sắc của đối tượng

1

6 Thời gian tồn tại của đối tượng

4

Cộng

56

3.1.2. Nhóm địa danh có ý nghĩa phản ánh mối liên hệ giữa
đối tượng được định danh và các đối tượng liên quan
Như chúng ta đã biết, tất cả sự vật hiện tượng trong xã
hội không tồn tại riêng lẻ mà chúng có mối quan hệ với nhất
định và tác động qua lại lẫn nhau. Địa danh là một phần của
hệ thống địa lý, hệ thống địa lý cũng khơng ngồi quy luật
này. Vì vậy, khi nghiên cứu ý nghĩa địa danh ta có thể nghiên
cứu mối liên hệ giữa địa danh và các đối tượng địa lý.
B1. Trường nghĩa phản ánh tên người
Có thể nói đây là trường nghĩa có số lượng rất lớn trong
các trường nghĩa thuộc nhóm này, với 35 trường hợp.
Những địa danh mang tên người rất đa dạng, chúng có cả

địa danh chỉ địa hình tự nhiên, đơn vị dân cư, các cơng trình
xây dựng và địa danh nhân văn.
Những tên người được dùng làm địa danh cư trú, địa
danh hành chính hay địa danh nhân văn là những nhân vật
lịch sử, những người có cơng to lớn với người dân, làng
xóm. Trong những nhân vật được đặt tên như: Ngơ Quyền,
Trần Hưng Đạo có cơng lớn trong chiến thắng Bạch Đằng
đẩy lùi quân xâm lược phương bắc. Địa danh “đầm Nhà
Mạc” là nơi mà nhà Mạc có cơng khai hoang vùng đất này
nên người dân tưởng nhớ công lao mà gọi tên là đầm Nhà
Mạc. Hay sơng đào Hồ Chí Minh là con sơng do Bác kêu
gọi người dân đào sông phục vụ cho nông nghiêp nên đặt
tên là sơng đào Hồ Chí Minh.
B2. Trường nghĩa thực vật liên quan đến đối tượng
Trường nghĩa này có 51 địa danh, chủ yếu là các địa danh
có liên quan đến đối tượng địa lý tự nhiên. Và cách định danh
theo tên gọi thực vật ở Quảng Yên góp phần làm rõ hơn
những thông tin về thực vật ở vùng đất nơi đây. Một số địa
danh được gọi tên theo cỏ cây hoa lá như: đượng Sim là thảm
thực vật mọc trên đượng chủ yếu là cây Sim nên được gọi là
đượng Cây Sim. Đượng Cây Lim là trên đượng có một cây
Lim rất to, các loại cây khác hầu như khơng có, chỉ có cây
Lim là điển hình nhất. Nên được gọi là đượng Cây Lim.
Cũng dựa vào các đặc điểm như vậy mà rất nhiều địa danh
được đặt tên theo thực vật mọc trên vùng đất đó hoặc có liên
quan tới vùng đất như: bãi Cây Thị, khe Gía, khe Dứa...

nghĩa gốc, sau đó nghĩa gốc này được vay mượn gọi cho
nhiều đối tượng khác.
B4. Trường nghĩa phản ánh phương hướng vị trí của đối

tượng
Trường nghĩa này phản ánh vị trí của đối tượng trong
khơng gian có 39 địa danh. Và mỗi đối tượng tồn tại trong
một không gian nhất định. Khi định danh sự vật người ta
lấy một vật nào đó làm trung tâm, thì việc xác lập định danh
cũng chỉ mang tính tương đối, và nó chỉ đúng trong hệ
thống của nó. Khi ra khỏi hệ thống thì phương hướng của
đối tượng khơng cịn giá trị.
Ví dụ: bến Qn Thượng, bến Dưới, bến Đơng, bến Nam.
Ở đây có Thượng (trên), Dưới, Đơng, Nam, tất cả lấy tổng Hà
Nam là chuẩn để quy chiếu ra hướng cho từng đối tượng.
Nhưng chúng chỉ đúng với vị trí ở trong tổng Hà Nam. Nếu
không lấy tổng Hà Nam làm chuẩn nữa, mà lấy một số vị trí
khác như Hải Phịng thì vị trí khơng cịn chính xác nữa.
Những địa danh gọi theo trường nghĩa thường là chỉ địa
danh khu dân cư và đi cùng các từ như: đông, tây, nam bắc,
tả, hữu và trên, dưới, trong, ngoài, trái, phải.
Như vậy, cách định danh dựa vào vị trí địa lý của đối tượng
rất phổ biến, không chỉ ở Quảng Yên, mà nhiều địa danh ở
những địa phương khác cũng dùng cách định danh này để định
danh sự và hiện tượng và cho nhiều đối tượng địa lý khác
nhau. Và cái quan trọng nhất là muốn đặt tên địa danh theo
phương hướng thì cần phải xác định vị trí và lấy một vật làm
trung tâm để xác định vị tri cho các vật khác.
B5. Trường nghĩa phản ánh những sự kiện lịch sử
Muốn nghiên cứu địa danh thì khơng thể tách rời lịch
sử. Mà lịch sử là một phần bằng chứng để nghiên cứu địa
danh. Mỗi thời ký lịch sử, sự kiện lịch sử đã tạo ra những
đối tượng địa lý, những địa danh mới. Và khi đó địa danh
là tấm bia ghi lại những sự kiện lịch sử.

Trường nghĩa phản ánh các sự kiện, biến cố lịch sử ở
Quảng n khơng nhiều, chỉ có một số địa danh như: núi
Thành, xóm Thành Dền, chợ Đồn, sơng Bạch Đằng... 10
địa danh. Núi Thành, Thành Dền là ghi lại những trận đánh
ác liệt giữa quan thứ Hải Yến và quân lính tuần phủ Quảng
Yên với bọn giặc biển Tạ Kim Phụng. Và nơi đây được xây
thành để bảo vệ dân và cũng là trận địa nên sau này được
đặt tên là núi Thành.

B3. Trường nghĩa phản ánh sự bao hàm hoặc có sự gần
gũi nào đó về vị trí địa lý giữa các đối tượng
Trường nghĩa này có nhiều loại hình đối tượng địa lý
khác nhau, có số lượng là 104 địa danh.
Những địa danh trong trường nghĩa này phản ánh sự
gần gũi về vị trí địa lý giữa các đối tượng như: khe Gía- hồ
Khe Gía, đồi Cây Rộc- chợ Rộc, đồi Cửa Tràng- xóm Cửa
Tràng, đượng Bỏ Bụt- sơng Bỏ Bụt- xứ đồng Bỏ Bụt.
Do sự gần gũi về địa lý, một số địa danh có sự bao hàm
lẫn nhau như: đồi Rộc-xóm Chợ Rộc - rốc Chợ Rộc. Những
địa danh trong trường nghĩa này dùng phương thức định
danh vay mượn. Tuy nhiên, có một địa danh có vai trị

7

Hình 1. Bãi Cọc Bạch Đằng đang được khai quật
(Nguồn: Báo điện tử Quảng Ninh)


8


Trịnh Tam Anh, Nguyễn Ngọc Chinh

Theo trình bày trên, địa danh phản ánh mối liên hệ giữa
đối tượng được định danh và các đối tượng liên quan bao
gồm 5 loại, được biểu thị bằng Bảng 2 dưới đây:
Bảng 2. Địa danh dựa trên liên hệ giữa đối tượng được
định danh và các đối tượng liên quan

Tt
Trường nghĩa chỉ
1
Tên người

Số lượng
35

2

Thực vật liên quan đến đối tượng

51

3

Bao hàm hoặc có sự gần gũi nào đó về
vị trí địa lý giữa các đối tượng

104

4


Phương hướng vị trí của đối tượng

39

5

Sự kiện lịch sử

10

3.2. Nhóm địa danh có ý nghĩa phản ánh tâm lý, nguyện
vọng của chủ thể định danh
Nhóm ý nghĩa này có hai tiểu nhóm chính là: nhóm
phản ánh tâm lý, tình cảm, nguyện vọng của chủ thể địa
danh và nhóm phản ánh đời sống tín ngưỡng tơn giáo.
Nhóm nghĩa đầu tiên chủ yếu thuộc địa danh cư trú hành
chính và yếu tố cấu tạo chủ yếu là Hán - Việt. Các nhóm
về tín ngưỡng tơn giáo thuộc địa danh nhân văn có liên
quan đến đời sống tâm linh. Ngồi ra các loại hình địa danh
khác cũng có, nhưng với số lượng rất ít.
3.2.1. Nhóm địa danh có ý nghĩa phản ánh tâm lý, tình cảm,
nguyện vọng của chủ thể địa danh

thấy được một phần nào đó về đời sống tín ngưỡng, tôn
giáo của người dân thị xã Quảng Yên.
D1. Trường nghĩa phản ánh tín ngưỡng về nhân thần
Trường nghĩa này có 8 địa danh. Khi trình độ con người
phát triển đến một mức độ khá cao thì khi đó tín ngưỡng về
nhân thần xuất hiện. Và việc hình thành tín ngưỡng nhân

thần xuất phát từ quan điểm: “Người ta chỉ chết thể xác,
còn lại tinh anh, tinh thần. Nếu là người bình thường thì
tinh thần tan biến vào khoảng khơng, nếu là người khi sống
có nhiều tài năng, cơng đức thì tinh thần ấy là thần, mãi
mãi có tác động cho người sống nên người sống thờ thần,
tế thần” [4,tr. 441].
Thị xã Quảng Yên cũng như ở tất cả các vùng khác
trong cả nước, các nhân thần ở Quảng Yên có nhiều nguồn
gốc khác nhau gồm:
Những người khi cịn sống có cơng lao, tài đức, địa vị
cao, quyền lực lớn, và những người có ít nhưng làm người
khác phải khiếp sợ.
Những người có địa vị thấp nhưng có cống hiến với dân
làng, có lịng giúp việc chung như khai hoang, chữa bệnh,
dạy học, bắc cầu dựng quán...
Ví dụ: Miếu Vua Bà, đền Trần Hưng Đạo, đền Quan
Đại, đền Thánh Mẫu, đền Ngọc Quang...

Nhóm này gồm 2 trường nghĩa với 43 địa danh.
C1. Trường nghĩa thể hiện niềm mong ước về sự đổi
mới
Các địa danh thuộc nhóm này có 15 trường hợp và chủ
yếu được thể hiện qua yếu tố “tân”.
Ví dụ: Tân An, Tiền An, Hoàng Tân... ngoài ý nghĩa là
niềm mong ước đổi mới thì cịn có ý nghĩa là đơn vị dân cư
mới được thành lập.
C2. Trường nghĩa thể hiện niềm mong ước về cuộc
sống bình yên
Những địa danh này ln mang theo mình yếu tố n,
bình, an, lành, hịa hợp...

Ví dụ: thị xã Quảng n là hiện thực khách quan, vùng
đất nơi đây rất nhiều chiến tranh, cuộc sống người dân vất
vả, cực khổ. Cho nên mới định danh là Quảng Yên: mong
ước vùng đất rộng lớn có cuộc sống n bình.
Ngồi ra, cịn một số địa danh mang tính ước vọng cuộc
sống bình n như: Hiệp Hịa, Liên Hịa, n Giang...
3.2.2. Nhóm địa danh có ý nghĩa phản ánh đời sống tín
ngưỡng, tơn giáo
Thị xã Quảng n là nơi có lịch sử hình thành và phát
triển rất lâu đời. Từ thời Lê, các làng cổ đã lập Văn Từ,
Văn Miếu thờ cúng, tế lễ Khổng Tử và các tiên hiền, phát
triển các Hội Tư văn chăm lo việc học hành, chăm lo đời
sống tín ngưỡng, tơn giáo phong phú và đa dạng. Nhóm địa
danh này gồm 32 địa danh với các trường nghĩa như:
trường nghĩa về tín ngưỡng nhân Thần (những người có
cơng trạng với q hương đất nước khi chết được tôn thờ).
Các trường nghĩa về đời sống tôn giáo (Phật giáo, Thiên
Chúa giáo...). Từ đó, thơng qua địa danh chúng ta có thể

Hình 2. Miếu Vua Bà (Nguồn: Báo điện tử Quảng Ninh)

D2. Trường nghĩa liên quan đến đời sống phật giáo
Phật giáo là một trong những tơn giáo lớn trên thế giới, có
phạm vi ảnh hưởng rất lớn đên đời sống tâm linh của người
dân, khơng chỉ Quảng n mà cịn nhiều nơi khác. Phật giáo
ở Quảng Yên chủ yếu theo trường phái Thiền tông và chịu ảnh
hưởng của Tịnh độ tông và Mật tơng. Vì vậy, rất nhiều địa
danh liên quan đến đời sống Phật giáo ra đời. Trường nghĩa
này có 21 địa danh. Và các địa danh này chủ yếu là các chùa
chiền như: Bằng, Cốc, Giữa Đồng, La Khê, Vạn Triều...

D3. Trường nghĩa phản ánh về đời sống Thiên Chúa Giáo
Thiên Chúa giáo ở Quảng Yên có sự khác biệt lớn so
với các vùng miền khác trong cả nước. Thời gian du nhập
thì khơng khác, nhưng sự khác biệt là người dân theo đạo
chỉ có một làng duy nhất đó là làng Yên Trì (xứ đạo Yên
Trì). Người dân theo đạo, nhưng vẫn duy trì phong tục tập
quán thờ cúng Tổ tiên và Tiên cơng. Tình trạng con chiên
sùng đạo cũng có sự khác biệt rất lớn. Họ khơng có niềm
tin vào Chúa như những con chiên ở vùng miền khác. Và
từ đó địa danh về thiên chúa giáo chiếm số lượng rất nhỏ
và phạm vi cũng hạn chế. Địa danh thuộc trường nghĩa
phản ánh đời sống Thiên Chúa giáo có số lượng rất nhỏ


ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 2(87).2015

như: nhà thờ Yên Trì, xứ đạo n Trì, đượng Thánh.
3.3. Nhóm chưa xác định được ý nghĩa
Như chúng ta đã biết, nghiên cứu ý nghĩa địa danh là
một vấn đề rất khó. Chúng ta khơng thể xác định chính xác
hồn tồn nghĩa của tất cả địa danh. Vì vậy, khi nghiên cứu
có những địa danh có nhiều cách giải thích khác nhau mà
chưa đi đến kết quả chính xác. Khi đó, những địa danh này
chúng tơi đưa vào nhóm chưa xác định được nghĩa hay còn
gọi là hồ nghi về nghĩa.
Như địa danh “núi Ịch, Qu Quao” thì rất nhiều giải
thích khác nhau, tuy nhiên chưa có cách nào đi đến kết luận
thỏa mãn. Những địa danh chưa rõ nghĩa chủ yếu là địa
danh chỉ địa hình tự nhiên và số lượng rất ít.
4. Kết luận

Từ những trình bày trên, chúng tơi cho rằng, ý nghĩa địa
danh chỉ mang tính tương đối nhưng những đặc điểm chúng
khắc họa nên có giá tri rất lớn khơng chỉ với những người
nghiên cứu địa danh mà cịn có ý nghĩa với các ngành khoa
học khác như văn hóa, lịch sử, khảo cổ học... Thơng qua

9

cách phân chia hệ thống địa danh đã được khảo sát trên địa
bàn thị xã Quảng Yên, các trường nghĩa và ý nghĩa địa danh
thị xã Quảng Yên đã được chúng tôi giới thiệu một cách
khái quát nhất. Từ đó, phần nào cho thấy những đặc điểm
về đời sống, văn hóa, tư duy và đặc điểm tự nhiên của
người dân nơi đây.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Văn học, 2006.
[2] Đỗ Hữu Châu, Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
1998.
[3] Nguyễn Thiện Giáp, Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
1998.
[4] Nguyễn Kiên Trường, Những đặc điểm chính của địa danh Hải
Phòng (trong vài nét đối sánh với địa danh Việt Nam), Luận án Phó
tiến sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 1996.
[5] Nguyễn Kiên Trường, “Mơ hình kẻ... trong tên làng xã cổ truyền”,
Tạp chí Văn hóa Dân gian, 1996.
[6] Lê Trung Hoa, Nguyên tắc và phương pháp nghiên cứu địa danh
(địa danh thành phố Hồ Chí Minh), Nxb Khoa học Xã hội, chi nhánh
tại thành phố Hồ Chí Minh, 2003.


(BBT nhận bài: 08/12/2014, phản biện xong: 13/01/2015)



×