ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------
VŨ THỊ HƯƠNG TRÀ
TỪ MƯỢN TIẾNG ANH TRONG TIẾNG HÁN
(ĐỐI CHIẾU VỚI HIỆN TƯỢNG TƯƠNG ỨNG
TRONG TIẾNG VIỆT)
Ngành: Ngôn ngữ học so sánh đối chiếu
Mã số: 9222024
TĨM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGƠN NGỮ HỌC SO SÁNH ĐỐI CHIẾU
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2021
Cơng trình được hồn thành tại: Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Trang
PGS.TS. Nguyễn Đình Phức
Người phản biện độc lập:1. GS. TS. Nguyễn Thị Hai
2. PGS. TS. Đặng Thị Hảo Tâm
Luận án được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp Trường
tại: ……………………………………………………………………………...
vào hồi ……… giờ ……… ngày ...…… tháng ………… Năm …………….
Người phản biện:
1. PGS. TS. Lê Kính Thắng
2. PGS. TS. Hoàng Quốc
3. TS. Huỳnh Thị Hồng Hạnh
Bạn đọc có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2021
1
DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
Trong quá trình phát triển, các dân tộc khác nhau trên thế giới ln có sự tiếp xúc, giao lưu
với các dân tộc khác. Ngôn ngữ mà các dân tộc này sử dụng do vậy cũng sẽ có sự tiếp xúc, ảnh
hưởng lẫn nhau. Và ảnh hưởng giữa các ngơn ngữ khi có sự tiếp xúc sẽ đưa đến nhiều hệ quả,
biểu hiện ở nhiều mặt, nhiều mức độ khác nhau. Trong đó, quan trọng và rõ nét nhất là hiện
tượng vay mượn từ vựng.
Mục đích của luận án là nhằm khảo sát, phân tích tồn diện lớp từ mượn tiếng Anh, chỉ ra
những đặc trưng, xu hướng phát triển cũng như ảnh hưởng của chúng lên toàn bộ hệ thống từ
vựng tiếng Hán. Từ đó, tiến hành so sánh, đối chiếu với lớp từ tương ứng trong tiếng Việt, nêu
lên những điểm tương đồng và khác biệt của lớp từ mượn tiếng Anh ở hai ngôn ngữ Hán, Việt.
Bên cạnh đó, dựa trên kết quả khảo sát bộ phận sinh viên chuyên ngành tiếng Trung, luận án
cũng đề xuất một số ý kiến hữu ích liên quan đến vấn đề giảng dạy và sử dụng lớp từ này cho
sinh viên Việt Nam nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Để có cái nhìn khái qt, tồn diện, từ đó đưa ra những kết luận chính xác, hợp lý về lớp từ
mượn tiếng Anh trong tiếng Hán (đối chiếu với lớp từ tương ứng trong tiếng Việt), về nguyên
tắc, tất cả từ vay mượn trong tiếng Hán và tiếng Việt đều được sưu tầm, nghiên cứu. Tuy nhiên,
đối tượng khảo sát chính của luận án là những từ ngữ vay mượn tiếng Anh xuất hiện trong tiếng
Hán từ năm 1840 đến nay và trong tiếng Việt từ 1954 đến nay. Đây được xem là những mốc
thời gian chính đánh dấu sự xuất hiện của từ ngữ tiếng Anh trong tiếng Hán và tiếng Việt.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận án, chúng tôi đã sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như:
phương pháp miêu tả ngôn ngữ học, phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp điều tra xã
hội học. Bên cạnh đó, chúng tơi cũng sử dụng một số thao tác và thủ pháp quen thuộc trong
nghiên cứu như: thống kê, miêu tả, giải thích, phân tích, so sánh, phân loại và hệ thống hóa …
4. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn
Kết quả khảo sát, phân tích, đúc kết được trong q trình nghiên cứu và thực hiện đề tài đã
góp phần bổ sung lí thuyết tiếp xúc ngôn ngữ với hiện tượng vay mượn từ vựng trong tiếng Hán
và tiếng Việt. Luận án cũng góp phần chứng minh những ảnh hưởng của nhân tố ngơn ngữ - xã
hội và nhân tố tâm lí đối với sự biến đổi và xu hướng phát triển của lớp từ mượn tiếng Anh
trong tiếng Hán và tiếng Việt. Việc tiến hành so sánh đối chiếu, chỉ ra những điểm tương đồng
và khác biệt sẽ giúp hiểu rõ hơn quy luật và xu hướng phát triển, biến đổi của lớp từ mượn tiếng
Anh trong hai ngôn ngữ Hán, Việt.
5. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Dẫn nhập, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung chính của luận án
được cấu trúc thành ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết
Chương 2: Từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán
Chương 3: Những tương đồng, khác biệt của từ ngữ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán và tiếng
Việt và vấn đề giảng dạy lớp từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán cho sinh viên Việt Nam
2
CHƯƠNG MỘT
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1 Khái niệm và giới hạn thuật ngữ “tiếp xúc ngôn ngữ”
Nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi ngôn ngữ theo truyền thống được chia thành hai loại là
nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngồi. Ngun nhân bên trong chính là sự đối lập,
mâu thuẫn giữa các yếu tố trong ngơn ngữ, nó thể hiện đặc tính và quy luật phát triển nội tại của
ngơn ngữ. Ngun nhân bên ngồi tác động đến sự biến đổi và phát triển của ngơn ngữ thì rất đa
dạng và phong phú nhưng chủ yếu là do điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa và các điều kiện xã
hội khác quy định. Người ta chỉ có thể hiểu được một ngôn ngữ và quy luật phát triển của nó khi
nghiên cứu nó theo sát lịch sử của xã hội và dân tộc sử dụng ngơn ngữ đó. Trong đó, tiếp xúc
ngơn ngữ được xem là một trong những yếu tố bên ngoài quan trọng tác động đến sự biến đổi
của ngôn ngữ.
Uriel Weinreich vốn được xem là người có những đóng góp to lớn cho lĩnh vực tiếp xúc
ngôn ngữ với tác phẩm tiêu biểu “Languages in contact” (1950) đã định nghĩa một cách đơn
giản: “Tiếp xúc ngôn ngữ là bối cảnh mà hai hay nhiều ngôn ngữ được sử dụng xen kẽ” và
“những người nói hai ngôn ngữ là trọng tâm của những nghiên cứu liên quan đến tiếp xúc ngôn
ngữ”. Cách định nghĩa trên dường như không áp dụng được với một số trường hợp tiếp xúc giữa
các ngơn ngữ, trong đó có sự tiếp xúc Hán - Anh. Bởi lẽ, thời kỳ đầu tiếng Hán chủ yếu tiếp xúc
với tiếng Anh thông qua các tác phẩm dịch thuật, rất ít có sự tiếp xúc trực tiếp, mặt đối mặt qua
giao tiếp khẩu ngữ. Trong trường hợp này, hiểu một cách chính xác thì chính ngơn ngữ chứ
khơng phải người nói có sự tiếp xúc với nhau. Từ đó, Thomason và Kaufman (1988) đã đưa ra
những giải thích phù hợp hơn cho tình huống trên. Nhóm tác giả lưu ý rằng, tiếp xúc ngơn ngữ
khơng nhất thiết phải có sự tương tác trực tiếp mặt đối mặt, nghĩa là những người nói hai hay
nhiều ngơn ngữ khơng cần phải ở cùng một nơi để có thể xảy ra tiếp xúc ngơn ngữ.
Bên cạnh đó, hiện nay tuy giao tiếp song ngữ Hán – Anh diễn ra phổ biến hơn, nhưng ở
Trung Quốc việc sử dụng xen kẽ tiếng Anh trong giao tiếp song ngữ thường chỉ dừng ở mức độ
đơn giản, phản ánh những nội dung giao tiếp cơ bản. Số lượng các cá nhân song ngữ lý tưởng
cũng không nhiều. Điều này cũng diễn ra tương tự với tiếp xúc Việt – Anh và một số ngôn ngữ
khác. Theo Lehiste (1988), “các cá nhân song ngữ lý tưởng cần phải nói được cả hai ngôn ngữ
ở mức độ không thể phân biệt được với những người nói đơn ngữ của một trong hai ngơn ngữ
đó” (tr.1). Tuy nhiên, những trường hợp như vậy là cực kỳ hiếm. Do đó, cần phải có một cách
hiểu rộng hơn về song ngữ để giải thích cho những trường hợp như tiếp xúc Hán – Anh, Việt –
Anh… Theo đó, cá nhân song ngữ là người có khả năng tạo ra các câu nói bằng hai hay nhiều
ngơn ngữ khác nhau.
Hầu hết các nhà ngôn ngữ học truyền thống cũng đều cho rằng, sự tiếp xúc ngôn ngữ bắt
đầu từ việc học một ngôn ngữ khác, tiếp xúc ngôn ngữ về bản chất là học ngôn ngữ. Theo đó,
tiếp xúc ngơn ngữ trước hết xảy ra ở một số cá nhân đơn lẻ với tư cách là thành viên cộng đồng.
Kết quả của sự tiếp xúc này sẽ được các thành viên xã hội song ngữ, đa ngữ mở rộng ra toàn xã
hội.
Một cách đơn giản, tiếp xúc ngơn ngữ có thể hiểu là “việc sử dụng nhiều hơn một ngôn ngữ
tại cùng một thời điểm, cùng một địa điểm.” (Thomason, 2001, tr.1). Tác giả Hồ Triệu Vân
(2001) cũng khái quát: "Tiếp xúc ngôn ngữ đề cập đến sự tương tác giữa hai ngôn ngữ và ảnh
hưởng theo thời gian của sự tương tác đó trong âm vị học, hình thái học cũng như cú pháp và
ngữ nghĩa của mỗi ngơn ngữ" (tr.1).
Nhóm tác giả Đái Xn Ninh, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Quang và Vương Toàn (1986)
cũng xác định, “tiếp xúc ngôn ngữ xảy ra khi con người (cá nhân hay tập thể) sử dụng hai hay
nhiều ngôn ngữ. Nó xuất hiện khi có hiện tượng song ngữ hay đa ngữ, do nguyên nhân địa lí hay
3
kinh tế - chính trị, qn sự hoặc văn hóa – xã hội… Như thế, tiếp xúc ngôn ngữ là hiện tượng
ngôn ngữ phổ biến cho mọi ngôn ngữ trên thế giới” (tr.287).
1.2 Một số hệ quả cơ bản của tiếp xúc ngơn ngữ
Trong q trình tiếp xúc, một ngơn ngữ có thể để lại ảnh hưởng hoặc bị ảnh hưởng bởi các
ngơn ngữ khác. Ở đâu có tiếp xúc ngơn ngữ, tất yếu có ảnh hưởng ngơn ngữ và sự vay mượn
ngôn ngữ. Ảnh hưởng giữa các ngôn ngữ khi có sự tiếp xúc sẽ đưa đến nhiều hệ quả, biểu hiện ở
nhiều mặt và nhiều mức độ khác nhau:
1.2.1 Giao thoa ngôn ngữ (interference)
Giao thoa ngôn ngữ là hiện tượng chệch chuẩn của tiếng mẹ đẻ dưới tác động của ngôn
ngữ thứ hai hoặc hiện tượng chệch chuẩn của ngôn ngữ thứ hai dưới tác động của tiếng mẹ đẻ ở
những người song ngữ/ đa ngữ. Giao thoa chỉ xảy ra trong các ngơn ngữ có quan hệ tiếp xúc
trực tiếp với nhau, tức là khi khơng có mơi trường song ngữ/ đa ngữ thì sẽ khơng có hiện tượng
giao thoa.
1.2.2 Chuyển mã và trộn mã
Chuyển mã (codes switching) là việc sử dụng hai hoặc trên hai biến thể ngôn ngữ trong một
lần đối thoại. Điều kiện cho sự chuyển mã trong giao tiếp là phải có mơi trường song ngữ/ đa
ngữ, trong đó người tham gia giao tiếp phải là người song ngữ/ đa ngữ và có khả năng sử dụng
hai mã ngôn ngữ ngang nhau.
Trộn mã (codes mixing) là hiện tượng khi giao tiếp, thành phần mã ngôn ngữ A ở một mức
độ nhất định nhập vào mã ngôn ngữ B. Mã ngôn ngữ B chiếm vị trí chủ đạo cịn mã ngơn ngữ A
chỉ có vai trị thứ yếu, có tính chất bổ sung và người sử dụng khơng có ý thức dùng nó như mã
ngôn ngữ B.
1.2.3 Pha trộn (lai tạp) ngôn ngữ (pidgins & creoles):
Lai tạp ngôn ngữ thể hiện chủ yếu qua hình thức tiếng bồi (pidgins và creoles). Tiếng bồi
được hiểu là thứ ngơn ngữ được dùng theo thói quen của những người có tiếng mẹ đẻ khác nhau,
nhằm làm cho giao tiếp giữa họ trở nên dễ dàng hơn. Nói cách khác, tiếng bồi ra đời nhằm đáp
ứng nhu cầu giao tiếp mang tính lâm thời trong cộng đồng xã hội có các thành viên nói các ngơn
ngữ khác nhau, khi tiếp xúc, các thành viên đã “tạo ra” một ngôn ngữ phụ trợ trên cơ sở các
ngôn ngữ của họ để có thể giao tiếp với nhau.
1.2.4 Hiện tượng quy tụ, tích hợp hay phân li ngơn ngữ: là kết quả của sự tiếp xúc ngôn
ngữ dẫn đến sự biến đổi ngôn ngữ. Khi các ngôn ngữ tiếp xúc với nhau thì khơng chỉ xảy ra sự
vay mượn mà cịn có thể làm giảm bớt mức độ và sức mạnh của tính khác biệt vốn có trong từng
bộ phận riêng lẻ của ngơn ngữ, tức là một q trình làm đơn giản hệ thống nói chung.
1.2.5 Vay mượn ngơn ngữ (borrowing)
Vay mượn ngôn ngữ được xem là một trong những hệ quả quan trọng nhất của tiếp xúc
ngôn ngữ. Vay mượn ngôn ngữ, hiểu một cách chung nhất, là “sự chuyển di các đặc điểm dưới
bất kì hình thức nào từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác do kết quả của tiếp xúc ngôn ngữ”
(Lim & Ansaldo, 2016, tr.6). Nói cách khác, vay mượn ngơn ngữ là “sự kết hợp các đặc điểm
nước ngồi vào ngơn ngữ mẹ đẻ của một nhóm người bởi những người nói ngơn ngữ đó: ngơn
ngữ mẹ đẻ được duy trì nhưng bị thay đổi do bổ sung các đặc điểm kết hợp” (Thomason &
Kaufman, 1988, tr.37).
Khi nghiên cứu về những biến đổi ngôn ngữ, Bloomfield (1933) tập trung rất nhiều vào
vấn đề “vay mượn”, ông chia các nguồn vay mượn ngôn ngữ thành ba loại chính là: vay mượn
văn hóa (cultural borrowing), vay mượn thân mật (intimate borrowing) và vay mượn phương
ngữ (dialect borrowing). Lí thuyết của Bloomfield khẳng định thực tế là tiếp xúc ngôn ngữ tất sẽ
dẫn đến vay mượn.
Cũng liên quan đến hiện tượng vay mượn trong ngôn ngữ, Weinreich (1953) tuyên bố rằng,
việc vay mượn chủ yếu đi từ ngôn ngữ thống trị (dominant language) sang ngôn ngữ không
4
thống trị (non-dominant language) và quan hệ đi vay chịu ảnh hưởng của bốn tác nhân chính là:
trật tự (order), sự điều tiết (modulation), sự chấp thuận (agreement) và sự phụ thuộc
(dependence). Theo Thomason và Kaufman (1988), nhóm cá nhân song ngữ trong giao tiếp
không phải là điều kiện tiên quyết để vay mượn ngơn ngữ. Nhóm tác giả lưu ý rằng, tiếp xúc
ngôn ngữ không nhất thiết phải liên quan đến hoạt động giao tiếp mặt đối mặt giữa các cá nhân,
có thể thường xun khơng có cộng đồng chung giữa những người nói ngơn ngữ nguồn (sourcelanguage) với những người sử dụng ngơn ngữ đi vay (borrowing-language), ít nhất là theo
nghĩa địa lí. Trong những trường hợp như vậy, nếu chúng ta duy trì các tiêu chuẩn truyền thống
thì “song ngữ” phải được xác định lại theo cách hiểu bao gồm cả năng lực sử dụng ngôn ngữ
viết và ngơn ngữ nói (tr.67).
Một cách khái qt, Từ điển ngơn ngữ học của nhóm tác giả J. Dubois xác định: “vay
mượn là sự chuyển di hoàn toàn, từ việc sử dụng đến nhập nội – khơng thay đổi gì – vào ngôn
ngữ đi vay A một yếu tố, một đơn vị hay nét ngơn ngữ trước đó chỉ có ở ngôn ngữ cho vay B.
Cái biểu đạt và cái được biểu đạt của ký hiệu ngôn ngữ ở B được giữ nguyên ở A lúc đầu, nhưng
về sau có thể biến đổi (cả hình thức âm thanh, hình thức viết lẫn nghĩa); hiện tượng đồng hóa
những yếu tố ngơn ngữ được du nhập này tất yếu xảy ra và cũng có trường hợp yếu tố vay mượn
bị vứt bỏ. Yếu tố ngôn ngữ được vay mượn ở những thời kỳ khác nhau, theo những cách thức
khác nhau (như bác học hay bình dân) có thể mang những hình thức ngôn ngữ khác nhau” (1973,
tr.188-189).
1.3 Tiếp xúc ngôn ngữ với hiện tượng vay mượn từ vựng
Bằng phương thức vay mượn, người ta có thể du nhập vào cách dùng của một ngôn ngữ
những yếu tố ngoại lai. Mức độ xâm nhập sẽ không giống nhau giữa các bộ phận ngôn ngữ,
trong đó, từ vựng là bộ phận thường bị xâm nhập nhiều nhất do chúng là yếu tố linh hoạt, nhạy
cảm và có khả năng di chuyển nhất. Sapir (1921) cũng nhận định: “Hình thức ảnh hưởng đơn
giản nhất mà một ngơn ngữ có thể sử dụng đối với một ngơn ngữ khác là việc vay mượn từ ngữ”
(tr.206).
Nhìn chung, “sự vay mượn” trong ngơn ngữ có thể hiểu đơn giản là “sự sản sinh ra các yếu
tố ở một ngơn ngữ mà trước đó đã được tìm thấy ở một ngôn ngữ khác” (Haugen, 1950, tr.212).
Với tư cách là nội dung quan trọng nhất của hiện tượng vay mượn ngôn ngữ, vay mượn từ vựng
(lexical borrowing) được hiểu là sự tiếp nhận các đơn vị từ vựng từ ngôn ngữ cho vay sang ngôn
ngữ đi vay, nhằm bổ sung, làm giàu cho hệ thống từ vựng của một ngôn ngữ. Các đơn vị từ
vựng này có thể gọi chung là “từ mượn”, “từ vay mượn”, “từ ngoại lai” (loan word/ borrowed
word). Thuật ngữ “từ” trong cách dùng này cũng không được quan niệm chặt chẽ mà bao gồm
cả đơn vị dưới từ, từ và các cụm từ cố định.
1.4 Các bình diện và phương thức vay mượn từ vựng
1.4.1 Các bình diện vay mượn từ vựng
Xét ở các bình diện của từ, việc vay mượn có thể diễn ra trên các bình diện như ngữ âm chữ viết, ngữ pháp và ngữ nghĩa.
1) Ở bình diện ngữ âm - chữ viết
- Giữ nguyên cách viết và phát âm trong nguyên ngữ.
- Phỏng âm: là dựa vào âm đọc của nguyên ngữ để phỏng theo và viết dựa theo cách đọc
phỏng theo đó. Ví dụ: cơng-tơ-mét, cao bồi, sơ (diễn)…
- Dịch nghĩa: đồng hóa theo cách dịch nghĩa là sự thay đổi hồn tồn bằng một từ trong
ngơn ngữ mượn. Ví dụ: generation gap (khoảng cách thế hệ), brigde loan (vay bắc cầu),
artificial satellite (vệ tinh nhân tạo)…
Ngoài ra, ở các ngơn ngữ biến hình, cịn có thể mượn âm vị mới hoặc bối cảnh phân bố âm
vị đó, hoặc có thể cả các quy tắc ngữ âm.
2) Ở bình diện hình thái - cấu trúc
5
Các từ mượn có thể giữ nguyên hoặc thay đổi hình thái (đối với từ), cấu trúc (đối với từ
phức và cụm từ cố định) và ngữ pháp (đối với cụm từ cố định).
- Giữ nguyên hình thái, cấu trúc như trong nguyên ngữ.
- Thay đổi cho phù hợp với hình thái - cấu trúc của ngơn ngữ đi vay.
- Thay đổi trật tự kết cấu trong các từ phức để tạo nên từ mới trong ngôn ngữ mượn.
Đối với các ngơn ngữ biến hình, vay mượn từ ngữ ở bình diện ngữ pháp cịn có thể diễn
ra ở trường hợp mượn các phụ tố để tạo từ.
3) Ở bình diện ngữ nghĩa
Các từ vay mượn có thể mang tồn bộ nghĩa vốn có, có thể chỉ mang một hoặc một vài
nghĩa trong đó hoặc cũng có thể có thêm các nét nghĩa mới.
- Các từ vay mượn có thể mang tồn bộ nghĩa vốn có.
- Các từ vay mượn có thể có thêm các nghĩa mới.
- Mượn và có những thay đổi nhất định nội dung nghĩa vốn có.
1.4.2 Các phương thức vay mượn từ vựng
Có thể tổng hợp các cách vay mượn từ để tạo nên lớp từ mượn như sau:
- Sao phỏng: Là sự “bắt chước” từ của ngôn ngữ khác, gồm: sao phỏng ngữ nghĩa (dịch
nghĩa) và sao phỏng cấu tạo từ (phỏng dịch). Trong đó, sao phỏng ngữ nghĩa là q trình trong
đó chỉ có ý nghĩa của từ là ngoại lai, cịn hình thức của từ là bản ngữ. Sao phỏng cấu tạo từ là
q trình dùng chất liệu của ngơn ngữ đi vay để cấu tạo một đơn vị từ vựng dựa theo kết cấu của
đơn vị từ tương ứng trong nguyên ngữ. Thực chất của hiện tượng này là dịch từng hình vị hoặc
từng đơn vị tương ứng.
- Phỏng âm: Dựa vào âm đọc của nguyên ngữ để chuyển thành từ mượn.
- Chuyển tự: Chuyển chữ cái của từ từ ngôn ngữ cho vay sang ngôn ngữ đi vay. Trường
hợp này thường dùng cho các ngôn ngữ khác nhau về hệ chữ viết.
- Mượn nguyên dạng: Các từ được viết giống nhau ở cả ngôn ngữ cho vay và ngôn ngữ đi
vay.
1.5 Tên gọi và giới hạn thuật ngữ “từ mượn” trong tiếng Hán và tiếng Việt
Về tên gọi “vay mượn” (borrowing), E. Haugen (1950) cho rằng: “Phép ẩn dụ (tức sự vay
mượn) được ngụ ý chắc chắn là vơ lí, bởi lẽ vay mượn diễn ra mà khơng có sự đồng ý hoặc thậm
chí khơng được nhận thức bởi người cho vay, và người đi vay khơng có nghĩa vụ phải trả nợ
vay” (tr.211). Rõ ràng là, dùng “vay mượn” có vẻ khơng phù hợp vì khi ngơn ngữ này mượn
một thành phần nào đó của ngơn ngữ khác thì “khơng được hỏi ý kiến” và cũng “khơng cần có
sự đồng ý” của ngơn ngữ cho vay hay cịn gọi là ngôn ngữ nguồn. Mặc dù vậy, thuật ngữ “vay
mượn” vẫn được sử dụng phổ biến trong các nghiên cứu ngôn ngữ học và cho đến nay, chưa có
cách gọi nào tốt hơn để thay thế.
Hiện còn nhiều tên gọi và ý kiến khác nhau xung quanh việc sử dụng thuật ngữ “từ mượn”.
Trong tiếng Anh – ngôn ngữ vốn được sử dụng rộng rãi trong hoạt động giao tiếp và nghiên cứu
quốc tế, chúng ta thấy có sự xuất hiện của các tên gọi như: loan, loan word, alien word, foreign
word, loanblends, loan translation/ caque, borrowing word, hybrid word… Trong đó, cách gọi
“loan word”/ “loanwords” được sử dụng phổ biến hơn cả. Trong tiếng Hán và tiếng Việt, tên gọi
cũng như giới hạn thuật ngữ “từ mượn” qua các thời kì có sự thay đổi và cũng chưa hồn tồn
thống nhất.
1.5.1 Tên gọi và giới hạn thuật ngữ “từ mượn”/ “từ ngoại lai” trong tiếng Hán
Mặc dù những từ ngữ có nguồn gốc ngoại lai đã xuất hiện trong tiếng Hán từ rất lâu về
trước, nhưng những nghiên cứu khoa học liên quan đến từ mượn lại bắt đầu khá muộn. Dựa trên
kết quả nghiên cứu của các học giả phương Tây, các nhà ngôn ngữ học Trung Quốc vào những
năm 30 của thế kỷ trước mới bắt đầu đề cập đến lớp từ ngữ có nguồn gốc vay mượn.
6
Hiện nay, các nhà Hán ngữ học hầu hết đều thống nhất sử dụng tên gọi “từ ngoại lai” ((外
来词) hay “từ mượn” (借词) với nội hàm tương đương. Lạc Tiểu Sở (1999) cũng tổng kết từ
mượn thành năm nhóm: từ dịch âm, từ dịch nghĩa, từ dịch âm kết hợp dịch nghĩa, từ phỏng dịch
và từ chứa ký tự Latin. Đây cũng là cơ sở để các học giả thu thập và ghi nhận lớp từ có nguồn
gốc vay mượn vào hệ thống từ điển tiếng Hán nói chung và các từ điển từ ngoại lai nói riêng.
1.5.2 Tên gọi và giới hạn thuật ngữ “từ mượn” trong tiếng Việt
Căn cứ vào nguồn gốc của từ, có thể chia vốn từ vựng tiếng Việt thành hai lớp: từ bản ngữ
hay từ thuần Việt và từ mượn còn được gọi là từ ngoại lai. Nội dung của hai khái niệm này chỉ
có thể xác định một cách tương đối chắc chắn nếu xét chúng trong những giai đoạn lịch sử cụ
thể nhất định. Theo đó, những từ ngoại lai trong giai đoạn này có thể trở thành từ bản ngữ ở giai
đoạn tiếp theo. Hiểu một cách chung nhất, từ ngoại lai đồng đại là những từ có những nét không
nhập hệ (non intégrés) vào cấu trúc đương thời của ngơn ngữ. Từ ngoại lai đồng đại có thể là
những từ ngoại lai còn giữ những đặc trưng của ngoại ngữ khiến cho chúng khác với các từ bản
ngữ đồng đại (Nguyễn Thiện Giáp, 1998, tr.131).
Cũng liên quan đến vấn đề phân biệt ranh giới thuật ngữ, tác giả Nguyễn Văn Khang (2006,
tr.58-60) nhận định: “Nhìn từ góc độ vay mượn từ vựng, vốn từ vựng của một ngôn ngữ, về lí
thuyết, sẽ được phân làm hai: những từ bản ngữ và những từ vay mượn. Thuật ngữ từ vay mượn,
cũng vì thế, thường được dùng trong sự đối lập với từ bản ngữ. Với cách nhìn này, về mặt lí
thuyết, có thể hình dung hệ thống từ vựng tiếng Việt sẽ được lưỡng phân một bên là từ thuần
Việt và một bên là từ vay mượn hay từ ngoại lai". Bên cạnh đó, khái niệm “từ ngữ thuần Việt”
được nhắc đến cũng là nhằm để đối lập với khái niệm “khơng thuần Việt”, “phi thuần Việt”, nói
cách khác, đây là những từ khơng phải gốc tiếng Việt.
Sự có mặt của các đơn vị từ vựng gốc ngoại trong tiếng Việt khơng những làm tăng về mặt
số lượng mà cịn có tác động khơng nhỏ đến chất lượng của hệ thống từ vựng tiếng Việt, chúng
bổ sung thêm những khái niệm, thuật ngữ mới mà trước đó tiếng Việt chưa có hay có nhưng
chưa có từ để biểu thị, hoặc thậm chí là đã có rồi nhưng vẫn mượn thêm để làm phong phú hơn
cách diễn đạt.
Tiểu kết
Trong chương một, luận án lần lượt trình bày những nội dung được xem là cơ sở lí thuyết
của luận án như: khái niệm và giới hạn thuật ngữ tiếp xúc ngôn ngữ, một số hệ quả cơ bản của
tiếp xúc ngôn ngữ, tiếp xúc ngôn ngữ với hiện tượng vay mượn từ vựng, các bình diện và
phương thức vay mượn từ vựng và cuối cùng là xác định tên gọi cũng như giới hạn thuật ngữ
“từ mượn” trong tiếng Hán và tiếng Việt – đối tượng chính của luận án.
7
CHƯƠNG HAI
TỪ MƯỢN TIẾNG ANH TRONG TIẾNG HÁN
2.1 Sự xuất hiện từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán
2.1.1 Bối cảnh xuất hiện từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán
Về đại thể, tiếng Hán vay mượn từ ngữ tiếng Anh có thể chia thành hai giai đoạn. Từ ngữ tiếng
Anh xuất hiện trong tiếng Hán lần đầu tiên tính từ sau Cuộc chiến tranh Nha Phiến lần thứ nhất
(1840 – 1842) đến trước khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập. Lần thứ hai các từ ngữ
tiếng Anh xuất hiện ồ ạt trong tiếng Hán bắt đầu từ khi Trung Quốc thực hiện công cuộc cải cách
mở cửa vào năm 1978 đến nay.
Trên thực tế, từ đầu thời Minh Trung Quốc đã có sự tiếp xúc với các quốc gia Âu - Mĩ với sự
xuất hiện của các nhà truyền giáo và thương nhân phương Tây. Tuy nhiên phải đến sau Cuộc chiến
tranh Nha Phiến lần thứ nhất cho đến thời kỳ vận động Ngũ Tứ, Trung Quốc mới có sự tiếp xúc sâu
rộng với nền khoa học, kĩ thuật, kinh tế, chính trị phương Tây, từ đó mở ra một cao trào vay mượn
từ vựng mới trong lịch sử tiếng Hán, mà chủ yếu là vay mượn từ tiếng Anh.
Năm 1978, Trung Quốc bắt đầu thực hiện chính sách cải cách mở cửa, hiện đại hóa đất nước.
Từ đó đến nay, tiếng Hán lại đón nhận một cao trào vay mượn từ ngữ mới mà chủ yếu cũng là từ
tiếng Anh. Người Trung Quốc thời kỳ này hướng ra thế giới với tâm thái cởi mở và sẵn sàng đón
nhận, học hỏi các tri thức mới. Chính sách cải cách mở cửa đã đem đến những biến đổi sâu sắc về
mọi mặt: kinh tế, văn hóa, xã hội, tư tưởng nhận thức …. Chính bối cảnh lịch sử, chính trị này đã
tạo tiền đề quan trọng cho việc hình thành nên cao trào vay mượn từ vựng mới trong tiếng Hán.
Cùng thời gian trên, nền kinh tế thế giới bắt đầu phát triển theo hướng nhất thể hóa, tồn cầu
hóa. Sự giao lưu kinh tế, văn hóa giữa Trung Quốc với nước ngoài ngày càng chặt chẽ và trở nên
phong phú hơn bao giờ hết, đặc biệt là với các quốc gia Âu – Mĩ vốn có nền khoa học kỹ thuật phát
triển. Sự ra đời và phát triển của cơng nghệ thơng tin, khoa học máy tính, phương tiện truyền
thông… cũng là tiền đề quan trọng cho hệ thống từ vựng tiếng Hán không ngừng phát triển với sự
xuất hiện của hàng loạt các từ ngữ mang tính quốc tế như: 因特网 (Internet),伊妹儿 (Email),托
福 (TOEFL),ATM 机 (máy ATM), WTO, APEC… Chính sách cải cách mở cửa đã khiến Trung
Quốc có cơ hội tiếp xúc thường xuyên với nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới và trở thành một thị
trường quan trọng đối với các quốc gia nói tiếng Anh. Sản phẩm của các quốc gia này cũng dần xâm
nhập và trở nên quen thuộc với người dân Trung Quốc.
Một nguyên nhân rất quan trọng khác khiến cho hiện tượng vay mượn từ ngữ tiếng Anh trong
tiếng Hán diễn ra ngày càng phổ biến là do vai trò và vị thế ngày càng cao của tiếng Anh trong hoạt
động giao tiếp quốc tế.
Nhìn chung, các từ ngữ tiếng Anh đã du nhập vào tiếng Hán bằng nhiều con đường, nhiều
phương thức khác nhau và đang tiếp tục tăng lên nhanh chóng.
2.1.2 Đặc điểm từ vay mượn tiếng Anh trong hai cao trào vay mượn vào tiếng Hán
Để có cơ sở đưa ra những nhận định, đánh giá khách quan, hợp lí liên quan đến hiện tượng vay
mượn từ ngữ tiếng Anh trong tiếng Hán, chúng tôi đã tiến hành khảo sát, thống kê sơ bộ số lượng
cũng như phương thức vay mượn từ ngữ tiếng Anh vào tiếng Hán trong hai giai đoạn chính.
Ở giai đoạn thứ nhất, chúng tôi chủ yếu dựa vào Từ điển từ ngoại lai (汉语外来词词典) của
nhóm tác giả Cao Danh Khải, Lưu Chính Đàm (1984). Từ điển này tổng cộng thu thập hơn 10.000
từ vay mượn xuất hiện trong tiếng Hán từ năm 1980 trở về trước. Do thời gian thu thập hầu như
diễn ra trước khi Trung Quốc thực hiện cải cách mở cửa nên những từ ngữ vay mượn tiếng Anh
trong quyển từ điển này được xem là xuất hiện ở giai đoạn đầu tiếng Hán vay mượn từ ngữ tiếng
Anh. Sau khi thống kê, đối chiếu chúng tôi bước đầu thu thập được 5528 từ có nguồn gốc tiếng Anh
được tiếng Hán vay mượn trực tiếp bằng nhiều phương thức khác nhau, cụ thể như sau:
8
Bảng 2.1: Thống kê từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán theo phương thức vay mượn ở giai đoạn 1
Loại từ mượn Từ dịch âm Từ hỗn hợp Từ dịch nghĩa Từ phỏng dịch Tổng cộng
Số lượng
2615
1973
702
238
5528
Tỉ lệ %
47.3%
35.7%
12.7%
4.3%
100%
Các từ ngữ tiếng Anh du nhập vào tiếng Hán ở giai đoạn đầu phần lớn là từ ngữ liên quan đến
những lĩnh vực như: khoa học kĩ thuật, chính trị, văn hóa, tư tưởng, đời sống (chiếm hơn 4000 từ).
Việc tiếp thu nền khoa học kỹ thuật tiên tiến cũng như sự xâm nhập của hệ tư tưởng văn hóa, chế độ
chính trị phương Tây thời kì đầu gắn liền với vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ và liên quan mật thiết với
công tác biên, phiên dịch sách báo, thư tịch nước ngoài. Các từ ngữ vay mượn tiếng Anh giai đoạn
này ở một mức độ nhất định chịu sự ảnh hưởng và chi phối của trình độ nhận thức, sự hiểu biết cũng
như sở thích của các dịch giả do chủ yếu du nhập vào tiếng Hán thông qua các tác phẩm dịch thuật.
Từ ngữ vay mượn tiếng Anh thời kì này khơng được sử dụng phổ biến trong đời sống hàng ngày
của người dân, nguyên nhân là do một số nhân sĩ Trung Quốc thời cận đại vẫn còn tâm lí bài xích,
phản đối cách sử dụng các từ ngữ của thế giới phương Tây, cổ vũ việc sử dụng từ ngữ và cú pháp
thuần Hán. Các từ mượn tiếng Anh dịch âm cũng khá xa lạ với nguyên tắc cấu tạo từ truyền thống
của tiếng Hán, chính vì vậy, tuy có hàng loạt từ ngữ tiếng Anh du nhập vào tiếng Hán ở thời kì cận
đại nhưng phải đến thời hiện đại những từ ngữ này mới được phổ biến và sử dụng rộng rãi, một số
từ dần được thay thế bởi các từ dịch nghĩa, ví dụ:
telephone
德律风
电话 (điện thoại)
parliament
巴力门
议会 (quốc hội)
essay
爱说
散文 (bài viết)
Ở khía cạnh truyền thơng, mặc dù sau thời kì vận động Ngũ Tứ đã có phần cởi mở hơn nhưng
về cơ bản Trung Quốc trong thời kỳ cận đại là xã hội nửa thực dân nửa phong kiến, cịn khá khép
kín, các kênh truyền thơng đại chúng hữu hiệu hầu như chưa có, những người có điều kiện học và
sử dụng tiếng Anh cũng cịn rất ít, chính vì vậy quá trình tiếp nhận và sử dụng các từ ngữ có nguồn
gốc tiếng Anh thời kì này cịn nhiều hạn chế. Đa số người sử dụng là các học giả, dịch giả hoặc giới
trí thức có cơ hội học tập, tiếp cận với hệ thống sách, báo tiếng Anh.
Ở giai đoạn thứ hai, nền kinh tế Trung Quốc có sự phát triển vượt bậc, Trung Quốc có mối
quan hệ mật thiết và có sự giao lưu về mọi mặt với nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc
gia sử dụng tiếng Anh có nền kinh tế phát triển như: Mĩ, Anh, Canada, Australia …
Quá trình thống kê từ ngữ có nguồn gốc tiếng Anh ở giai đoạn hiện nay chúng tôi chủ yếu dựa
vào quyển Đại từ điển từ ngữ mới (新词语大词典) (2006). Từ điển này tổng cộng thu thập và chú
giải hơn 20.000 từ ngữ mới xuất hiện trong tiếng Hán giai đoạn từ 1978 trở lại đây, tất cả những từ
ngoại lai trong từ điển đều có chú thích nguồn gốc vay mượn. Bên cạnh đó, chúng tơi cũng kết hợp
đối chiếu, bổ sung các từ ngữ không trùng lặp trong quyển Từ điển từ ngoại lai Tân Hoa (新华外来
词词典) xuất bản lần đầu tiên vào năm 2019. Đây được xem là quyển từ điển về lớp từ vay mượn
trong tiếng Hán đầy đủ và cập nhật nhất hiện nay. Sau khi khảo sát, đối chiếu chúng tôi thống kê
được tổng cộng 4456 từ có nguồn gốc tiếng Anh bao gồm 2419 từ vay mượn theo các phương thức
cơ bản và 2037 từ có chứa kí tự Latin, cụ thể như sau:
Bảng 2.2: Thống kê từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán theo phương thức vay mượn ở giai đoạn
2
Loại từ
Từ dịch
Từ hỗn
Từ dịch
Từ phỏng Từ có kí
Tổng
mượn
âm
hợp
nghĩa
dịch
tự Latin
cộng
Số lượng
725
929
506
259
2037
4456
Tỉ lệ %
16.3%
20.8%
11.4%
5.8%
45.7%
100%
9
Có thể nói, sự mở cửa đón nhận các yếu tố ngoại lai thời kì cận đại ít nhiều mang tính cưỡng
bức do bối cảnh xã hội bán thực dân bán phong kiến chi phối, trong khi đó sự mở cửa hội nhập của
đất nước Trung Quốc hiện nay diễn ra hoàn toàn chủ động trong bối cảnh bùng nổ cơng nghệ thơng
tin và tồn cầu hóa nền kinh tế. Tư tưởng người Trung Quốc trong giai đoạn đổi mới hết sức cởi mở,
sẵn sàng khám phá, tiếp nhận các yếu tố đến từ phương Tây cùng với sự du nhập của trào lưu tư
tưởng cũng như các thành tựu khoa học kĩ thuật, công nghệ thông tin từ phương Tây. Từ ngữ vay
mượn tiếng Anh trong tiếng Hán giai đoạn hiện nay cũng thể hiện nhiều đặc điểm mới, khác với giai
đoạn đầu.
Rõ ràng, tiếng Hán khi du nhập từ ngữ ngoại lai ở những giai đoạn lịch sử khác nhau sẽ thể
hiện những đặc trưng khác nhau cho dù là tiếp thu từ ngữ của cùng một ngôn ngữ cho vay như
trường hợp du nhập từ ngữ tiếng Anh. Điều này vừa xuất phát từ nhu cầu phát triển tự nhiên của
ngôn ngữ vừa nhằm đáp ứng quy luật tự thân của tiếng Hán.
2.2 Phân loại từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán
2.2.1 Phân loại từ mượn tiếng Anh theo nội dung ngữ nghĩa
Những từ ngữ tiếng Anh xuất hiện trong tiếng Hán ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Dựa vào nội
dung ngữ nghĩa, có thể chia lớp từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán thành một số nhóm sau:
1) Lĩnh vực khoa học kỹ thuật, cơng nghệ thông tin:基因 (gene)、休克 (shock)、X 光 (X quang)、B 超 (siêu âm B)、CPU、UFO…
2) Lĩnh vực kinh tế: 信用卡 (credit card)、增值税 (value-added tax – thuế VAT)、e 经济
(electronic economy – kinh tế điện tử) CEO…
3) Lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, giải trí: 奥林匹克 (Olympic)、奥斯卡 (Oscar)、MTV
(Music Television)、秀 (show)、脱口秀 (talk show)…
4) Lĩnh vực ẩm thực: 比萨饼 (bánh pizza) 、 苏打水 (nước soda) 、快餐 (fastfood – thức ăn
nhanh)、自助餐 (buffet)…
5) Lĩnh vực thời trang, phong cách: 迷你裙 (váy ngắn)、开司米 ( len cashmere)、比基尼
(bikini)、尼龙 (ni lông)…
6) Lĩnh vực đời sống, sinh hoạt hàng ngày: 酷 (cool – ngầu)、沙发 (ghế sofa) 、沙龙 (thẩm
mỹ viện)、雷达 (radar)、的士 (taxi)…
7) Những khái niệm, tư tưởng mới: 丁克家庭 (DINK - Double Income No Kids)、DIY (Do It
Yourself)、白领 (white colar)…
Tất nhiên, việc phân chia từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán theo từng lĩnh vực như trên chỉ
mang tính tương đối và có phần cảm tính, bởi lẽ, một từ ngữ trên thực tế có thể xuất hiện ở nhiều
lĩnh vực khác nhau, hoặc có thể ban đầu chúng chỉ xuất hiện trong một lĩnh vực chuyên ngành,
nhưng dần dần khi đã trở nên quen thuộc thì những từ ngữ ấy sẽ được sử dụng rộng rãi với tần số
xuất hiện cao trong mọi mặt của đời sống xã hội.
2.2.2 Phân loại từ mượn tiếng Anh theo phương thức vay mượn
Dựa theo phương thức vay mượn, từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán nhìn chung có thể
phân thành năm loại chính là: từ dịch âm, từ dịch nghĩa, từ hỗn hợp, từ phỏng dịch và từ có ký tự
Latin.
2.2.2.1 Từ dịch âm (音译词)
10
Dịch âm là dựa theo cách phát âm của tiếng Anh đồng thời sử dụng yếu tố ngữ âm giống hoặc
tương tự trong tiếng Hán để tạo ra từ mới. Ví dụ như: OPEC (Ōu pèi kè - 欧佩克); OSCAR (奥斯卡
– Ào sī kǎ); bikini (比基尼 – bǐ jī ní) …
2.2.2.2 Từ dịch nghĩa (意译词)
Dịch nghĩa là sử dụng những quy tắc và chất liệu cấu tạo từ trong tiếng Hán để tạo ra từ mới
diễn đạt lại ý nghĩa của một từ tiếng Anh. Nói cách khác, ý nghĩa của từ dịch nghĩa đến từ tiếng Anh
nhưng hình thức ngữ âm và phương thức cấu tạo từ đều là tiếng Hán. Chẳng hạn như: 热点 (hot
spot – điểm nóng)、超级市场 (super market)、媒体 (media)、计算机 (computer)…
2.2.2.3 Từ hỗn hợp (混合词 – dịch âm kết hợp với dịch nghĩa)
Về cơ bản, từ hỗn hợp có thể phân thành hai tiểu loại là: dịch cả âm lẫn nghĩa và dịch âm kết
hợp với danh từ chỉ loại.
Từ dịch cả âm và nghĩa thường sử dụng những chữ Hán có âm đọc lẫn ý nghĩa gần giống với
từ tiếng Anh. Ví dụ: 香波 (xiāngbō – shampoo)、黑客 (hēikè – hacker)、幽默 (yōumò –
humour) …
Từ dịch âm kết hợp với danh từ chỉ loại thường chia thành hai phần, phần đầu thuần dịch âm
và phần sau là danh từ chỉ loại để chỉ ý nghĩa. Ví dụ: 汉堡包 (hànbǎo bāo – bánh mì hamburger)、
乒乓球 (pīngpāng qiú – ping-pong – bóng bàn)、迷你裙 (mínǐ qún – mini skirt)、桑拿浴 (sāngná
ý – tắm sauna…
2.2.2.4 Từ phỏng dịch (仿译词)
Là những từ được tạo ra bằng cách dịch ý nghĩa từng ngữ tố, vẫn giữ lại phương thức cấu tạo
từ và trật tự từ như trong tiếng Anh. Ví dụ: 黑板 (blackboard – bảng đen)、超人 (superman – siêu
nhân)、笔名 (penname – bút danh)、马力 (horse power – mã lực)、知识经济 (knowledge
economy – kinh tế tri thức)、
2.2.2.5 Từ có kí tự Latin (字母词)
Từ có kí tự Latin là chỉ những tổ hợp chữ cái Latin được sử dụng chung với chữ Hán trong hệ
thống từ vựng. Nhóm từ này bao gồm: từ mượn nguyên dạng hoặc cụm từ viết tắt trong tiếng Anh:
CPI, GDP, CEO, WTO, DNA, IQ, Intel, OK… và từ có kí tự Latin kết hợp với chữ Hán, số từ hoặc
kí hiệu: AA 制、IC 卡 (thẻ điện thoại IC)、e 时代 (thời đại điện tử)、维生素 A (vitamin A) ; B2B
(business to business)、4D 电影 (phim 4D)...
Nhóm từ chứa kí tự Latin khơng phải là hiện tượng mới xuất hiện gần đây. Từ cuối thế kỷ 19,
trong tiếng Hán đã bắt đầu xuất hiện loại từ vựng này song số lượng còn rất hạn chế và chưa được
sử dụng rộng rãi. Bước vào thời kỳ đổi mới, những từ ngữ chứa kí tự Latin mới xuất hiện nhanh
chóng và không ngừng tăng lên. Sự xuất hiện ồ ạt của nhóm từ này phá vỡ những giới hạn vốn có,
khiến cho kí tự Latin trở thành yếu tố cấu tạo từ mới trong tiếng Hán và đem đến sự tác động cũng
như ảnh hưởng khơng nhỏ đối với tồn bộ hệ thống từ vựng tiếng Hán hiện đại. Từ chứa ký tự Latin
có những ưu điểm riêng, chúng ngắn gọn, rõ ràng và rất có lợi trong giao tiếp quốc tế.
Có thể nói, từ mượn có chứa kí tự Latin là loại từ vựng đặc biệt trong tiếng Hán, là sản phẩm
của thời kỳ đổi mới. Từ sau cải cách mở cửa đến nay, bên cạnh những cách vay mượn thơng thường,
tiếng Hán giai đoạn này có thêm sự xuất hiện của hàng loạt những tổ hợp chữ cái viết tắt nguyên
mẫu tiếng Anh như: OPEC, CPU, CEO, GDP, MBA… hoặc những từ do kí tự Latin và chữ Hán
hợp thành như: BP 机 , IC 卡 , ATM 机... Đối với hệ chữ viết tượng hình biểu ý như chữ Hán mà
nói, loại từ vựng vừa mượn hình vừa mượn ý này được xem là một cuộc cách mạng về văn tự từ
vựng.
11
2.3 Vấn đề Hán hóa lớp từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán
Từ ngữ tiếng Anh khi du nhập vào tiếng Hán thường khơng phải là sự sao chép hồn tồn mà
sẽ có những biến đổi cho phù hợp với hệ thống ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp tiếng Hán.
2.3.1 Sự Hán hóa về mặt ngữ âm
Nhiều từ ngữ tiếng Anh đã được tiếng Hán tiếp nhận theo hình thức dịch âm như: 沙发 (shā fā)
(sofa – ghế sô pha),妈咪 (mā mī) (mummy – mẹ) ,克隆 (kè lóng) (clone – nhân bản vơ tính)…
Trong q trình vay mượn ngữ âm, các từ mượn tiếng Anh sẽ tuân theo quy tắc của hệ thống ngữ
âm tiếng Hán, so với âm đọc ban đầu trong tiếng Anh tất yếu phát sinh một số thay đổi.
2.3.1.1 Thêm thanh điệu (声调的加入)
Thanh điệu vốn là nét đặc sắc của tiếng Hán trong khi tiếng Anh lại là ngơn ngữ khơng có
thanh điệu. Do vậy, từ ngữ tiếng Anh khi du nhập vào tiếng Hán bắt buộc phải tuân theo quy luật
của tiếng Hán tức là đều sẽ được gán thêm thanh điệu. Tuy nhiên, việc lựa chọn thêm bớt thanh điệu
cịn mang tính chủ quan ngẫu hứng, chưa thể hiện rõ quy luật. Ví dụ: 比基尼 bǐ jī ní (bikini - áo
tắm)、克隆 kè lóng (clone) …
2.3.1.2 Hài âm hóa âm tố (音素的谐音化)
Khi một âm tố hay một âm tiết tiếng Anh không có hình thức tương ứng trong tiếng Hán thì
trong q trình vay mượn chúng sẽ được hài âm hóa, tức là sử dụng âm tương tự trong tiếng Hán để
tạo âm mới. Ví dụ, phiên âm của từ jazz là /dʒæz/, sau khi du nhập vào tiếng Hán là jué shì (爵士),
trong đó /dʒỉ/ đã được hài âm thành j; /z/ hài âm thành shì…
Hán hóa từ ngữ tiếng Anh cũng có thể diễn ra theo hình thức thay thế âm tố. Khi từ ngữ nước
ngồi có một âm nào đó mà trong tiếng Hán khơng có thì khi du nhập vào tiếng Hán nó sẽ được
thay thế bởi một âm tương tự. Thay thế ngữ âm thực chất là dùng âm vị trong tiếng Hán để thay thế
cho yếu tố ngữ âm nước ngồi. Ví dụ:
Vitamin
/'vitəmin/
维他命 (wéitāmìng)
radar
/ˈreɪ.dɑːr/
雷达
(léidá)
T – shirt
/ˈti: ʃət/
T恤
(tī xù)
2.3.1.3 Phân tách cấu trúc âm tiết
Trên thực tế, âm tiết tiếng Hán và cấu trúc âm tiết tiếng Anh rất khác nhau. Khi sử dụng chữ
Hán để phiên âm các từ ngữ tiếng Anh, mỗi chữ Hán sẽ tương ứng với một âm tiết. Một trong
những vấn đề quan trọng khi dịch âm là làm thế nào có thể dùng âm tiết tiếng Hán để phân tách cấu
trúc âm tiết của các từ ngữ tiếng Anh. Bên cạnh đó, tiếng Hán khơng có cách dùng tổ hợp phụ âm
trong khi tiếng Anh lại có rất nhiều phụ âm kép gồm hai, ba thậm chí là bốn phụ âm kết hợp với
nhau, ví dụ như từ glimpsed /ɡlɪmpst/. Thực tế, tiếng Hán rất khó dung nạp các tổ hợp phụ âm này
và một số phụ âm đuôi, những âm tiếng Anh này khi du nhập vào tiếng Hán nhìn chung đều phải
tách ra để thêm vào một nguyên âm mới, hình thành nên nhiều âm tiết. Chẳng hạn như, các trường
hợp như bar /ba:r/ tiếng Hán đọc là ba (吧); jeep /dʒi:p/ đọc thành Jí pǔ (吉普)… đều có sự thay
đổi kết cấu âm tiết.
Q trình tiếng Hán phiên âm các từ ngữ tiếng Anh còn có thể xuất hiện một số hình thức Hán
hóa ngữ âm (âm tiết hóa) sau:
(1) Mỗi âm tiết tiếng Hán đều có ngun âm, các phụ âm khơng thể tự mình thành âm tiết,
chính vì vậy, các phụ âm đi trong tiếng Anh thường sẽ được phân tách thành một âm tiết độc lập.
Ví dụ:
Hans /hans/ 汉斯 (hàn sī): phụ âm đi -s sī (斯)
Cram /krỉm/ 克拉姆 (kè lā mǔ): phụ âm đuôi -m mǔ (姆)
12
(2) Các âm tố /dr-/ và /tr-/ rất khó chuyển sang âm tố tiếng Hán tương ứng, do vậy phần lớn
các từ tiếng Anh có âm tố này sẽ được phân tách thành hai âm tiết hoặc âm tố, có thể sẽ gồm một
âm tiết cộng với một thanh mẫu: /dr-/ /de l-/, /tr-/ /te l-/, ví dụ:
Drew /dru:/ 德鲁 (dé lǔ)
Troy /trɔɪ/ 特洛伊 (tè luò yī)
(3) Dùng những âm tiết tiếng Hán khác nhau để dịch cùng một âm tiết cuối tiếng Anh, ví dụ:
George /dʒɔ:d/ 乔治 (qiáo zhì)
Madge /mỉd/ 马奇 (mǎ qí)
Lodge /lɔd/ 洛奇 (l qí)
Jude /dʒ:ud/ 裘德 (qiú dé)
4) Cùng một âm đọc nhưng được Hán hóa thành những âm tiết khác nhau để phù hợp với quy
tắc âm vận, ví dụ:
Dent 登特 (dēng tè)
Denton 丹顿 (dān dùn)
2.3.1.4 Giảm số lượng âm tiết
Những từ ngữ thuần dịch âm có q nhiều âm tiết sẽ khơng phù hợp với hình thức từ vựng
tiếng Hán thơng thường, một tổ hợp dài các âm tiết không thể hiện ý nghĩa vừa khó nhớ, khó hiểu
lại xa lạ với đặc điểm của chữ Hán cũng như thói quen ngơn ngữ của người Trung Quốc. Chính vì
vậy, một từ vay mượn nếu có số lượng âm tiết quá nhiều lại có tần số xuất hiện cao thì thường sẽ
được rút gọn lại thành hai hoặc ba âm tiết, thậm chí có thể giản lược chỉ cịn một âm tiết. Ví dụ như:
Christy /kristi/ 基利斯督 (Jī lì sī dū) 基督 (Jī dū).
Những từ dịch âm có số lượng âm tiết rút gọn về cơ bản phù hợp hơn với hình thức từ vựng
tiếng Hán thông thường, chúng dần mất đi sắc thái ngoại lai, dễ dàng được người Trung Quốc chấp
nhận, sử dụng và thực sự trở thành một bộ phận trong hệ thống từ vựng tiếng Hán.
2.3.1.5 Tăng số lượng âm tiết
Do phần lớn từ ngữ trong tiếng Hán là từ có hai âm tiết, nên các từ đơn âm tiết nước ngoài khi
du nhập vào tiếng Hán thường được biến đổi thành từ hai âm tiết cho phù hợp với đặc điểm cấu tạo
từ tiếng Hán, ví dụ: từ “gene” trong tiếng Anh được tiếng Hán chia thành hai âm tiết “基因” (jī yīn).
Hiện tượng gia tăng số lượng âm tiết khi dịch âm trái ngược với xu hướng rút ngắn âm tiết và cũng
được xem là một biểu hiện Hán hóa về mặt ngữ âm. Một số trường hợp gia tăng số lượng âm tiết
diễn ra một cách tự nhiên do quá trình thay thế các yếu tố ngữ âm khơng có trong tiếng Hán, ví dụ:
blues /blu:z/ 布鲁斯 (bù lǔ sī); formalin /ˈfɔ:məlin/ 福尔马林 (fú ěr mǎ lín)
2.3.2 Sự Hán hóa về ngữ nghĩa
Cũng giống như các yếu tố khác của ngôn ngữ, ngữ nghĩa của từ mang những đặc điểm dân
tộc rất rõ ràng, chính vì vậy, khi từ ngữ của một dân tộc khác du nhập vào hệ thống từ vựng tiếng
Hán, chúng bắt buộc phải chịu sự Hán hóa về mặt ngữ nghĩa để thích ứng với hệ thống ngữ nghĩa
của từ vựng tiếng Hán. Trong quá trình sử dụng lâu dài sau khi du nhập vào xã hội Trung Quốc, ý
nghĩa của một số từ tiếng Anh đã có sự thay đổi thậm chí có khi khác hẳn với ý nghĩa của từ trong
ngun ngữ. Có thể nói, q trình Hán hóa từ ngữ tiếng Anh sau khi du nhập vào Trung Quốc về
mặt ngữ nghĩa diễn ra rất phức tạp và đa dạng, thể hiện rõ nét ở phương diện biến đổi ngữ nghĩa của
từ, biến đổi từ loại và ngữ tố hóa.
2.3.2.1 Biến đổi ngữ nghĩa
Nhiều từ ngữ tiếng Anh khi du nhập vào tiếng Hán đã có sự biến đổi về nghĩa, chủ yếu thể
hiện ở các dạng sau: 1) Thu hẹp ngữ nghĩa; 2) Mở rộng ngữ nghĩa; 3) Thay đổi ngữ nghĩa.
2.3.2.2 Biến đổi từ loại
13
Từ vay mượn cũng có thể có những biến đổi về từ loại so với từ trong nguyên ngữ. Ví dụ: Từ
OK trong tiếng Anh vừa là tính từ vừa là phó từ, gần nghĩa với từ “all right”, nghĩa tương ứng trong
tiếng Hán là: “好”, “可以”, “行”. Tuy nhiên, khi được vay mượn vào tiếng Hán, từ OK đôi khi cịn
được dùng như một động từ: Ví dụ:
“我国人工繁殖大熊猫 ----- 六年 “OK” 二十四胎。”
(Nước ta thụ tinh nhân tạo gấu trúc --- 6 năm đạt được 24 lần thụ thai).
(Guangzhou Daily 1997.07.14)
Ở câu trên, từ “OK” đã được dùng với nghĩa mở rộng là “thành công/ đạt được” và là động từ
chính trong câu.
2.3.2.5 Hiện tượng ngữ tố hóa (语素化)
Hiện tượng ngữ tố hóa là một trong những đặc trưng của tiếng Hán trong quá trình tiếp nhận
các từ ngữ nước ngoài. Sự xuất hiện của các từ mượn dịch âm đã khiến cho tiếng Hán có thêm một
số ngữ tố mới, một số âm tiết ban đầu chỉ được dùng để ghi lại một âm tiết tương tự trong tiếng Anh
và khơng mang bất cứ ý nghĩa gì. Tuy nhiên, do tần số xuất hiện ngày càng nhiều, những âm tiết
này dần có thêm ý nghĩa ngữ tố và khơng cịn đơn thuần chỉ là kí hiệu dùng để biểu thị âm đọc,
chúng bắt đầu mang một ý nghĩa nào đó giống như những âm tiết khác trong tiếng Hán và đơi khi
có thể tham gia cấu tạo từ mới. Ví dụ: chữ “的” được dùng để dịch âm tiết đầu từ “taxi” (的士 - dí
shì) trong tiếng Anh, “的” vốn dĩ chỉ là kí hiệu dùng để phiên âm thuần túy chứ khơng mang bất cứ
ý nghĩa gì. Tuy nhiên, vì là loại phương tiện giao thơng cơng cộng gắn liền với đời sống sinh hoạt
hàng ngày của người Trung Quốc nên từ “的士” dần trở nên phổ biến và có thêm nghĩa mở rộng là
“phương tiện giao thơng”. Và “的” cũng dần mang ý nghĩa là: “xe taxi/ phương tiện giao thông”
giống “的士”. Như vậy, từ một yếu tố dịch âm không thể hiện ý nghĩa, “的” đã có nghĩa sở chỉ mới
là “taxi/ các phương tiện giao thông”. “货的 (xe chở hàng)、警的 (xe cảnh sát)、火的 (xe cứu
hỏa)” là một số từ mới được tạo thành theo nghĩa mở rộng này. Ngồi ra, khơng chỉ giới hạn ở hình
thức cấu tạo từ chính phụ, “的” cịn có thể tham gia cấu tạo từ ngữ theo hình thức “động từ – tân
ngữ” (V - O) như: “打的” (gọi taxi đi), thậm chí cịn có thể cấu tạo nên cụm từ đẳng lập bốn âm tiết
như: “的来的去” (chạy tới chạy lui bằng taxi). Như vậy có thể nói, “的” đã trở thành một ngữ tố tự
do và được sử dụng ổn định trong tiếng Hán...
2.3.3 Sự Hán hóa về ngữ pháp
2.3.3.1 Lược bỏ yếu tố hình thái
Từ tiếng Hán khơng có hình thái để biểu thị phạm trù ngữ pháp giống như các từ ngữ tiếng
Anh. Do vậy, các từ ngữ vay mượn tiếng Anh khi du nhập vào tiếng Hán sẽ bị xóa bỏ yếu tố hình
thái. Chẳng hạn như, danh từ trong tiếng Anh có sự phân chia số ít/ số nhiều, từ foot và feet trong
tiếng Hán đều được dịch nghĩa thành “英尺” , đây là hai hình thức số ít và số nhiều có cùng một sở
chỉ là đơn vị đo độ cao/ chiều dài. Như vậy, hai hình thức khác nhau của cùng một khái niệm trong
tiếng Anh khi vào tiếng Hán đã trở thành một.
2.3.3.2 Thay đổi hình thức kết cấu của từ
Các âm tiết trong từ vay mượn theo hình thức dịch âm thường chỉ là những kí hiệu dùng để ghi
lại âm đọc, giữa chúng không tồn tại bất kỳ mối quan hệ ngữ nghĩa nào. Điều này đã phá vỡ sự kết
nối về mặt ngữ nghĩa giữa các yếu tố tham gia cấu tạo từ tiếng Hán, khiến cho mối quan hệ trong
nội bộ từ ngữ vay mượn theo phương thức dịch âm trở nên rời rạc, thiếu tính liên kết. Chẳng hạn
như, trong các từ dịch âm: 塞恩斯 (science)、德律风 (telephone)、德莫克拉西 (democracy)…
giữa các âm tiết trong nội bộ của từ không hề có mối liên hệ nào về mặt ý nghĩa. Chính vì đặc điểm
14
này, các từ ngữ thuần dịch âm dần được thay thế bởi các từ dịch nghĩa: 塞恩斯 --- 科学 (science –
khoa học)、德律风 --- 电话 (telephone – điện thoại)、德莫克拉西 --- 民主 (democracy – dân
chủ)…
Một vấn đề khác là, hình thức kết cấu của từ ghép trong tiếng Hán có những điểm giống và
khác so với tiếng Anh. Những từ ngữ mượn tiếng Anh như: 足球 (football), 篮球 (basketball), 软件
(software), 硬 件 (hardware), 热 线 (hotline), 热 狗 (hotdog), 代 沟 (generation gap), 马 力
(horsepower), 黑板(blackboard), 蜜月(honeymoon) … có hình thức cấu tạo khá giống với từ tiếng
Anh trong nguyên ngữ, chính vì vậy khi vay mượn, tiếng Hán đã chuyển dịch trực tiếp các từ ngữ
này. Tuy nhiên, có một số từ ngữ khi vay mượn cần có sự biến đổi kết cấu của từ, ví dụ như từ tiếng
Anh headhunting khi du nhập vào tiếng Hán được dịch thành 猎头, như vậy trật tự của các thành
phần cấu tạo từ đã được điều chỉnh cho phù hợp với phương thức cấu tạo từ tiếng Hán.
Bên cạnh đó, các ngữ tố trong tiếng Anh đa phần đều có nhiều âm tiết, trong khi đó, các ngữ tố
trong tiếng Hán hầu hết đều là đơn âm tiết. Trong vốn từ vựng bản ngữ tiếng Hán, trừ các từ láy và
từ tượng thanh, từ đa âm tiết đều là từ ghép. Chính yếu tố này khiến cho tiếng Hán trong quá trình
tiếp nhận các từ ngữ tiếng Anh có khuynh hướng phân tích lại (reanalysis) và chia tách các từ tiếng
Anh đa âm tiết thành những từ ghép tiếng Hán có từ hai ngữ tố trở lên, ví dụ: index 引得 (yǐndé
- chỉ số), media 媒体 (méitǐ - phương tiện truyền thông)…
Cấu trúc từ ngữ vay mượn cịn có thể được Hán hóa bằng một hình thức cấu tạo từ mới chứ
khơng phải bằng những kết cấu vốn có trong tiếng Hán. Chẳng hạn như các cụm từ phỏng dịch tiếng
Anh có kết cấu khác lạ: 后现代主义 (chủ nghĩa hậu hiện đại), 后现代派 (trường phái hậu hiện đại),
文化中国 (văn hóa Trung Quốc), 魅力中国 (Trung Quốc tươi đẹp), 城市中国 (thành thị Trung
Quốc), 乡村中国 (nông thôn Trung Quốc) …
2.4. Vấn đề sử dụng và chuẩn hóa lớp từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán
2.4.1 Xu hướng vay mượn từ tiếng Anh trong tiếng Hán và các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề
này
Trong bối cảnh tồn cầu hóa, Trung Quốc khơng chỉ mở cửa, hội nhập về mặt kinh tế mà còn
hội nhập trên mọi lĩnh vực văn hóa, xã hội. Điều này cũng phản ánh rõ nét ở phương diện vay mượn
từ ngữ. Đặc biệt, sự phát triển của ngành công nghệ thông tin và mạng Internet đã khiến cho hoạt
động giao lưu, hợp tác giữa các quốc gia diễn ra hết sức nhanh chóng, thuận lợi. Sự tiếp xúc giữa
tiếng Hán với các ngôn ngữ khác mà chủ yếu là tiếng Anh cũng ngày càng mật thiết. Công cuộc cải
cách mở cửa đã phá vỡ những rào cản tư tưởng vốn tồn tại trong thời gian dài. Người Trung Quốc
sẵn lịng đón nhận tất cả mọi sự vật, quan niệm mới từ phương Tây. Hơn nữa, thời kỳ này, do sự
xuất hiện quá nhiều khái niệm mới mẻ, phức tạp, người dùng chưa kịp tìm được những chữ Hán
tương ứng để dịch nghĩa hoặc cũng có thể do người dịch (đặc biệt là giới trẻ) u thích cái mới nên
khơng đợi được hoặc không cho rằng cần thiết phải quan sát, thảo luận kỹ nghĩa gốc của các từ ngữ
ngoại lai, họ nhanh chóng tiếp nhận và sử dụng chúng theo hình thức dịch âm để diễn đạt những
khái niệm mang tính thời thượng, chẳng hạn như: 厄尔尼诺 (El Nino),多米诺 (dominoes),奥斯
卡 (Oscar),桑拿 (sauna),布丁 (pudding)…
Một xu hướng mới được xem là sản phẩm của thời kỳ hội nhập là xu hướng mượn nguyên
dạng các từ ngữ tiếng Anh hoặc sử dụng hình thức vay mượn kết hợp giữa chữ cái Latin với chữ
Hán. Kết quả là, nhóm từ mượn chứa kí tự Latin và từ mượn nguyên dạng tiếng Anh không ngừng
gia tăng nhanh chóng.
15
Ngoài ra, để dễ dàng kết nối với quốc tế trong một số lĩnh vực, tiếng Hán cũng có thể viết tắt
nhiều cụm từ tiếng Hán thành những ký tự Latin dựa theo phiên âm Latin hoặc âm đọc tiếng Anh,
chẳng hạn như: RMB (人民币 - đơn vị tiền tệ Trung Quốc), HSK (汉语水平考试 – Kỳ thi năng lực
Hán ngữ), GB (国际标准- tiêu chuẩn quốc tế)…
Xu hướng sử dụng chêm xen tiếng Anh trong khẩu ngữ cũng ngày càng phổ biến và là hiện
tượng ngôn ngữ đáng được quan tâm, khảo sát. Trên bất kỳ trang báo hay chương trình truyền hình
nào ở Trung Quốc cũng đều dễ dàng nhìn thấy những từ như: “e 时代 (thời đại điện tử)、没 face
(chẳng mặt mũi nào)、好 high (thật cao)、我的 boss (ông chủ của tơi)…
Cũng do tính phức tạp của những sự vật, khái niệm mới trong xã hội hiện đại nên từ mượn
trong tiếng Hán cịn có xu hướng đa âm hóa. Trước đây các học giả luôn cho rằng, từ vựng tiếng
Hán từ cổ đại sang hiện đại thể hiện xu hướng song âm tiết hóa các âm tiết đơn. Thực tế, cách nói
này đã khơng cịn hồn tồn đầy đủ trong bối cảnh hiện nay. Khi xã hội phát triển nhanh chóng và
sự giao lưu, hội nhập diễn ra ngày càng sâu rộng thì những từ đơn âm tiết và song âm tiết vốn có
khơng cịn thích ứng kịp với các hiện tượng xã hội cũng như tư duy ngày càng phức tạp của con
người, cũng khơng cịn đáp ứng được đầy đủ nhu cầu giao tiếp của con người. Do vậy, những từ
ngữ ba âm tiết, bốn âm tiết, thậm chí nhiều âm tiết hơn nữa đã xuất hiện ngày càng nhiều và trở
thành xu thế vay mượn mới trong tiếng Hán hiện nay. Ví dụ: 沉默权 (right to silence - quyền im
lặng)、软着陆 (soft landing - hạ cánh an toàn)、知识经济 (knowlegde economy - kinh tế tri
thức)、横向经济联合体 (Horizontal economic union - khu liên hợp kinh tế) …
Tuy nhiên, từ ngữ nếu nhiều âm tiết q thì khi nói vừa khơng thuận miệng lại khó nhớ, bên
cạnh đó, trong đời sống hiện đại với nhịp sống tăng nhanh như hiện nay, việc biểu đạt ngơn ngữ
cũng địi hỏi phải được thực hiện nhanh gọn, đơn giản. Từ ngữ dài tuy có thể biểu đạt một cách
chính xác những ý nghĩa phức tạp nhưng trong giao tiếp thường gây nên nhiều bất tiện. Chính vì
vậy, những từ mượn ổn định, mật độ xuất hiện cao thường sẽ có hình thức rút gọn tương ứng, chẳng
hạn như: 世界贸易组织 世贸 (WTO)、超级市场 超市 (siêu thị)... Đặc điểm này dường như
mâu thuẫn với vấn đề đa âm tiết hóa vừa trình bày ở trên. Song chính mâu thuẫn đó giúp cho lớp từ
mượn nói chung và lớp từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán không ngừng được bổ sung, phát triển.
Cuối cùng là hiện tượng cùng một từ ngữ nhưng tồn tại song song nhiều cách dịch khác nhau.
Xu hướng này có thể xuất phát từ sự du nhập các từ mượn dịch âm từ Hồng Kông và Đài Loan. Từ
sau cải cách mở cửa, mối quan hệ giữa Trung Quốc đại lục với Hồng Kông và Đài Loan cũng dần
trở nên mật thiết, nhiều từ mượn tiếng Anh xuất hiện trước ở Hồng Kông, Đài Loan được du nhập
vào đại lục với số lượng lớn, nhất là nhóm từ mượn dịch âm từ Hồng Kông, chẳng hạn như: 卜成
(摩击--- boxing),波士 (老板 --- boss),开麦拉 (照相机/开拍 --- camera),爹地 (daddy --cha),士多 (store --- cửa tiệm),听尼士 (tennis),士哥 (score --- điểm số)…
2.4.2 Vấn đề chuẩn hóa lớp từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán
Tiếng Hán trong thời kỳ hội nhập chứng kiến sự du nhập của hàng loạt từ ngữ mượn tiếng Anh,
đặc biệt là nhóm từ ngữ chứa kí tự Latin. Sự xuất hiện và lớn mạnh của lớp từ mượn tiếng Anh về
bản chất phù hợp với nhu cầu phát triển của xã hội và thời đại. Nhìn chung, những từ ngữ tiếng Anh
được chấp nhận và sử dụng rộng rãi sẽ được đưa vào từ điển và dần trở thành một bộ phận của hệ
thống từ vựng tiếng Hán, những từ ngữ không phù hợp sẽ dần mất đi theo thời gian. Sự xuất hiện ồ
ạt các từ ngữ tiếng Anh ở Trung Quốc hiện nay đã tạo ra nhiều thách thức trong quá trình tiếp nhận
và sử dụng. Vấn đề chuẩn hóa lớp từ mượn tiếng Anh do vậy cũng ngày càng được giới học giả và
các nhà hoạch định chính sách quan tâm, nghiên cứu.
Tiểu kết
16
Chương hai tiến hành khảo sát, phân tích những nội dung được xem là trọng tâm của luận án.
Chương này tập trung làm rõ những vấn đề như: Bối cảnh xuất hiện của từ mượn tiếng Anh trong
tiếng Hán, so sánh đặc điểm lớp từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán ở thời kì đầu với giai đoạn hiện
nay; tiến hành phân loại lớp từ mượn tiếng Anh theo nội dung ngữ nghĩa và phương thức vay mượn,
phân tích, lí giải đặc trưng của từng tiểu loại; trình bày những biến đổi của lớp từ mượn tiếng Anh
khi du nhập vào tiếng Hán trên các phương diện ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp; nêu lên xu hướng
mới trong vay mượn cũng như vấn đề chuẩn hóa từ ngữ tiếng Anh trong tiếng Hán giai đoạn hiện
nay.
17
CHƯƠNG BA
NHỮNG TƯƠNG ĐỒNG, KHÁC BIỆT CỦA LỚP TỪ MƯỢN TIẾNG ANH TRONG
TIẾNG HÁN VÀ TIẾNG VIỆT VÀ VẤN ĐỀ GIẢNG DẠY LỚP TỪ MƯỢN TIẾNG
ANH TRONG TIẾNG HÁN CHO SINH VIÊN VIỆT NAM
3.1 Những tương đồng và khác biệt của lớp từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán và tiếng
Việt
3.1.1 Những tương đồng và khác biệt về bối cảnh xuất hiện lớp từ mượn tiếng Anh trong tiếng
Hán và tiếng Việt
Về mốc thời gian xuất hiện từ mượn tiếng Anh trong tiếng Việt, tác giả Bùi Khánh Thế (2016,
tr.149) cho rằng, tiếng Anh đã có quan hệ tiếp xúc với tiếng Việt giai đoạn trước và sau Cách mạng
Tháng Tám 1945, tuy nhiên, giai đoạn quân đội Mĩ can thiệp vào cuộc đấu tranh thống nhất Việt
Nam sau Hiệp định Giơnevơ (1954) mới là thời gian tiếng Việt tiếp xúc với tiếng Anh trong nhiều
lĩnh vực như: giao tiếp, quân sự, ngoại giao, kinh tế, giáo dục… Thời gian này, một số yếu tố ngôn
ngữ Anh bắt đầu thâm nhập dần vào tiếng Việt, song giai đoạn 1954 – 1975 vẫn có sự tranh chấp
ảnh hưởng giữa tiếng Anh và tiếng Pháp. Nguyễn Văn Khang (2006) cũng nhận định: “Tiếp xúc
song ngữ Anh – Việt một cách chính thức, rộng rãi bắt đầu từ giai đoạn 1954 – 1975. Điều này
cũng có nghĩa rằng, trước đó rất có thể đã có sự tiếp xúc song ngữ giữa tiếng Anh và tiếng Việt
nhưng lẻ tẻ” (tr.365). Như vậy, có thể xem mốc thời gian năm 1954 là điểm khởi đầu cho cuộc tiếp
xúc song ngữ Anh – Việt với sự xuất hiện của lực lượng cố vấn và quân đội Mĩ tại miền Nam Việt
Nam. Tuy vậy, số lượng từ mượn tiếng Anh ở giai đoạn này không nhiều. Cuối năm 1986, Đại hội
đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần VI đã đề ra chính sách đổi mới tồn diện và mở cửa thị
trường, hội nhập quốc tế.
Cùng thời gian này, thế giới bước vào kỷ nguyên mới với sự ra đời và phát triển vượt bậc của
ngành công nghệ thông tin. Tiếng Việt từ đây chuyển sang một giai đoạn mới về tiếp xúc ngơn ngữ
hình thành do sự giao lưu, hợp tác quốc tế giữa Việt Nam với các nước trên thế giới ngày càng sâu
rộng. Tiếng Việt lúc này có cơ hội tiếp xúc với nhiều ngôn ngữ khác nhau mà đặc biệt và quan trọng
nhất là tiếng Anh. Cuộc tiếp xúc song ngữ Việt - Anh trong bối cảnh mới đã để lại những dấu ấn
không nhỏ lên hệ thống từ vựng tiếng Việt hiện đại.
So với bối cảnh xuất hiện lớp từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán có thể thấy, q trình phát
triển của tiếng Hán và tiếng Việt đều tuân theo quy luật phát triển chung của mọi ngôn ngữ và cùng
chịu sự tác động bởi những biến đổi của bối cảnh ngơn ngữ - xã hội mang tính quốc tế. Về lịch sử
vay mượn, tiếng Hán và tiếng Việt đều trải qua ba cao trào du nhập từ ngữ ngoại lai với số lượng
lớn. Trong đó, ở cao trào vay mượn hiện nay, xu hướng vay mượn và đặc trưng của lớp từ mượn
trong tiếng Hán và tiếng Việt có nhiều điểm tương đồng, nguồn gốc vay mượn cũng chủ yếu từ
tiếng Anh. Chính sách mở cửa thị trường và tăng cường hội nhập quốc tế khiến cho Trung Quốc và
Việt Nam có cơ hội tiếp xúc mật thiết với tiếng Anh, ngôn ngữ giao tiếp quốc tế vốn đang được sử
dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Hàng loạt từ ngữ vay mượn có nguồn gốc tiếng Anh đã khơng
ngừng xuất hiện và gia tăng nhanh chóng trong tiếng Hán và tiếng Việt.
Nhìn chung, vị thế cũng như sức ảnh hưởng ngày càng lớn của tiếng Anh trong bối cảnh mở
cửa hội nhập và tồn cầu hóa đã để lại những dấu ấn không nhỏ lên tiếng Hán và tiếng Việt, khiến
cho tiếng Hán, tiếng Việt tiếp xúc sâu rộng và du nhập một số lượng lớn các thuật ngữ, khái niệm
mới từ tiếng Anh. Thậm chí, nhiều từ ngữ, khái niệm trước đó đã có nhưng tiếng Hán và tiếng Việt
vẫn lựa chọn vay mượn tiếng Anh, điều này có lẽ xuất phát từ ngun nhân mang tính thời thượng,
ưa chuộng sử dụng các từ ngữ tiếng Anh, đặc biệt là những thuật ngữ có tính quốc tế cao.
Mặc dù có nhiều điểm tương đồng về bối cảnh vay mượn từ ngữ tiếng Anh trong tiếng Hán và
tiếng Việt giai đoạn hiện nay nhưng lịch sử vay mượn từ vựng của tiếng Hán và tiếng Việt trong quá
trình phát triển lại thể hiện nhiều điểm khác biệt, nhất là ở nguồn gốc.
Cao trào vay mượn từ vựng đầu tiên trong tiếng Hán và tiếng Việt đều đã diễn ra từ ngàn năm
trước. Song sự tiếp xúc giữa tiếng Hán với các ngôn ngữ khác ở cao trào thứ nhất hầu như mang
tính tự giác, bắt nguồn từ nguyên nhân giao lưu, trao đổi kinh tế, văn hóa cùng với sự du nhập, phát
18
triển của Phật giáo và “Con đường tơ lụa”. Ngôn ngữ mà tiếng Hán vay mượn chính thời kỳ này là
tiếng Phạn, tiếng Bali và một số ngôn ngữ ở Tây vực. Trong khi đó, tiếng Việt thời kì đầu chủ yếu
vay mượn từ tiếng Hán. Sự tiếp xúc giữa tiếng Việt với tiếng Hán ban đầu cũng chủ yếu mang tính
cưỡng bức bắt nguồn từ sự xâm lược, thống trị của các chính quyền phương Bắc.
Cao trào vay mượn từ vựng lần thứ hai của tiếng Hán và tiếng Việt đều diễn ra trong bối cảnh
chế độ phong kiến Trung Quốc và Việt Nam trên đường suy tàn và chịu sự xâm lược của các đế
quốc phương Tây giữa thế kỷ XIX. Những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp đã giúp các
nước phương Tây sản xuất ra nhiều loại hàng hóa với tốc độ nhanh chóng, làm thay đổi căn bản nền
kinh tế thế giới, đưa đến nhu cầu xâm chiếm thuộc địa nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ của các
nước phương Tây. Từ đây, tiếng Hán có sự tiếp xúc và vay mượn hàng loạt từ vựng từ các ngôn ngữ
Ấn – Âu mà chủ yếu là tiếng Anh. Thời gian này cho đến thời kì vận động Ngũ Tứ năm 1919 được
tính là thời kỳ đầu tiên hệ thống từ vựng tiếng Hán có sự xuất hiện của hàng loạt từ ngữ vay mượn
tiếng Anh. Trong khi đó, cũng vào giữa thế kỷ XIX, ở Việt Nam lại diễn ra cuộc chiến tranh xâm
lược của thực dân Pháp, đánh dấu bằng cuộc đổ bộ của quân đội Pháp lên bán đảo Sơn Trà năm
1858. Từ đó cho đến khi Cách mạng Tháng Tám thành cơng năm 1945, tiếng Việt có sự tiếp xúc,
chịu ảnh hưởng và vay mượn rất nhiều từ ngữ chỉ khái niệm, thuật ngữ mới từ tiếng Pháp. Thời gian
này, tiếng Việt hầu như chưa có sự tiếp xúc và vay mượn từ tiếng Anh. Như vậy, do bối cảnh lịch sử
khác nhau, tiếng Hán đã có sự tiếp xúc và vay mượn từ ngữ tiếng Anh từ giữa thế kỷ XIX, sớm hơn
nhiều so với sự tiếp xúc giữa tiếng Việt với tiếng Anh.
Sự khác biệt về ngôn ngữ nguồn ở cao trào vay mượn từ vựng thứ hai trong tiếng Hán và tiếng
Việt đã dẫn đến một hiện tượng thú vị là, ở thời kì cận đại, cùng những thuật ngữ, khái niệm mới
đến từ phương Tây nhưng tiếng Hán chủ yếu vay mượn tiếng Anh trong khi tiếng Việt lại tiếp nhận
qua tiếng Pháp. Chẳng hạn, “咖啡 – kāfēi” trong tiếng Hán là từ dịch âm của từ tiếng Anh “coffee”,
trong khi từ “cà phê” trong tiếng Việt là phỏng âm từ “café” của tiếng Pháp…
3.1.2 Những tương đồng và khác biệt về phương thức vay mượn từ ngữ tiếng Anh trong tiếng
Hán và tiếng Việt
Trong tiếp xúc, giống như tiếng Hán, tiếng Việt có khả năng sử dụng các phương thức vay
mượn để bổ sung cho những khiếm khuyết của mình về phương diện ngữ âm, ngữ pháp và nhất là
phương diện từ vựng – ngữ nghĩa. Và bên cạnh những ảnh hưởng từ trước của tiếng Hán, tiếng
Pháp, tiếng Việt hiện nay chứng kiến sự du nhập của hàng loạt từ ngữ vay mượn từ các ngơn ngữ
mà nó có điều kiện tiếp xúc, trong đó đặc biệt và sâu rộng nhất là tiếng Anh.
Giống như tiếng Hán, tiếng Việt về cơ bản cũng có thể sử dụng các phương thức phỏng âm,
dịch nghĩa, mượn nguyên dạng và phỏng dịch khi vay mượn các từ ngữ tiếng Anh. Ở mỗi phương
thức vay mượn, quá trình tiếp nhận từ ngữ tiếng Anh vào tiếng Hán và tiếng Việt về cơ bản có nhiều
điểm tương đồng. Điều này là do, quá trình tiếp nhận từ ngữ tiếng Anh vào tiếng Hán và tiếng Việt
đều tuân theo quy luật phát triển chung của mọi ngôn ngữ và đều chịu sự tác động của bối cảnh
ngôn ngữ - xã hội mang tính quốc tế.
Cụ thể, ở phương thức dịch âm (phỏng âm), tiếng Hán và tiếng Việt đều dựa theo cách phát
âm của từ tiếng Anh đồng thời sử dụng các yếu tố ngữ âm giống hoặc tương tự trong tiếng Hán và
tiếng Việt để tạo ra từ mới. Ở hình thức này, cả ý nghĩa và âm đọc của từ vay mượn đều đến từ tiếng
Anh. Các âm tiết của cùng một từ dịch âm trong tiếng Hán và tiếng Việt thường khơng có mối quan
hệ về mặt ngữ nghĩa. Hiện tượng này vốn không phù hợp với quy luật cấu tạo từ của tiếng Hán và
tiếng Việt. Chính vì vậy, số lượng từ dịch âm tiếng Anh trong tiếng Hán và tiếng Việt đều có xu
hướng giảm và dần được thay thế bởi các từ mượn nguyên dạng. Một số trường hợp, tiếng Hán và
tiếng tiếng Việt có thể kết hợp các danh từ chỉ loại hoặc các yếu tố dịch nghĩa bên cạnh yếu tố dịch
âm để người sử dụng dễ dàng nắm bắt được ý nghĩa của từ vay mượn, chẳng hạn như: 芭蕾舞 –
múa ba lê, 桑拿浴 – tắm sauna, 汉堡包 – bánh mì hamburger… Loại từ mượn hỗn hợp này
chiếm tỉ lệ khá lớn trong tiếng Hán.
19
Dịch nghĩa và phỏng dịch từ ngữ tiếng Anh trong tiếng Hán và tiếng Việt đều là những
phương thức vay mượn thể hiện sự đồng hóa triệt để và phù hợp với thói quen ngơn ngữ của người
Trung Quốc cũng như người Việt Nam hơn cả. Tuy nhiên, do các khái niệm và thuật ngữ mới liên
tục xuất hiện với số lượng lớn, ý nghĩa nội hàm của những từ ngữ này lại phức tạp, mới lạ nên việc
dịch nghĩa hay phỏng dịch chúng không phải là một công việc dễ dàng. Số lượng từ mượn tiếng
Anh theo hình thức dịch nghĩa và phỏng dịch trong tiếng Hán và tiếng Việt do vậy đều rất ít.
Hiện nay, số lượng từ mượn ngun dạng và từ có kí tự Latin trong tiếng Hán và tiếng Việt
đang có xu hướng tăng lên rất nhanh. Nguyên nhân là do, bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
đã xóa bỏ phần lớn rào cản tư tưởng vốn tồn tại trong một thời gian dài, người Trung Quốc và Việt
Nam sẵn lịng đón nhận các sự vật, khái niệm mới từ phương Tây. Từ ngữ chứa đựng thông tin mới
ngày càng nhiều, xuất hiện liên tục với số lượng lớn mà việc dịch nghĩa, nhất là chuyển dịch thuật
ngữ là một công việc khơng hề đơn giản. Bên cạnh đó, trình độ tiếng Anh của người Trung Quốc và
Việt Nam cũng ngày càng cao, họ u thích cái mới và khơng gặp khó khăn khi tiếp cận các thuật
ngữ, khái niệm bằng tiếng Anh, chính vì vậy, người Trung Quốc và Việt Nam ngày nay, đặc biệt là
giới trí thức trẻ, đã nhanh chóng đón nhận các từ ngữ tiếng Anh theo hình thức mượn nguyên dạng
để diễn đạt các khái niệm mới hoặc những hiện tượng mang tính quốc tế, ví dụ như các từ: CEO,
B2B (business to business), ASAP (As soon as possible), WTO, GDP, SAT, Internet, facebook,
email…
Ngoài ra, một số từ tiếng Anh trước đây vốn được tiếng Hán và tiếng Việt vay mượn theo
phương thức dịch âm hay dịch nghĩa thì hiện nay người Trung Quốc và Việt Nam đều có xu hướng
chuyển sang sử dụng hình thức mượn nguyên dạng. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật phát
triển của tiếng Hán và tiếng Việt trong bối cảnh tồn cầu hóa. Ví dụ:
Trong tiếng Hán:
email
伊妹儿 电子邮件
email
Internet
因特网、互联网
Internet
laptop
笔记本电脑、手提电脑
laptop
Trong tiếng Việt:
email
thư điện tử
email
Internet
mạng tồn cầu
Internet
laptop
máy tính xách tay
laptop
Điểm khác biệt đáng chú ý nhất trong quá trình vay mượn từ ngữ tiếng Anh trong tiếng Hán và
tiếng Việt về mặt hình thức là chữ viết.
Như chúng ta đều biết, chữ Hán là loại văn tự ghi ý, mỗi một chữ biểu thị nội dung, ý nghĩa
của một từ. Với chữ Hán, từ được biểu hiện bằng một kí hiệu duy nhất khơng có liên quan gì đến
những âm thanh cấu tạo nên từ. Trong khi đó, tiếng Anh lại là ngôn ngữ sử dụng hệ chữ cái Latin để
ghi lại âm đọc. Ở tiếng Anh, chữ viết không biểu thị ý nghĩa của từ mà tái hiện chuỗi âm thanh nối
tiếp ở trong từ. Khác biệt cơ bản này đã khiến cho từ ngữ tiếng Anh khi du nhập vào tiếng Hán hầu
hết đều phải trải qua quá trình chuyển tự, chuyển từ văn tự Latin sang hệ chữ tượng hình biểu ý của
tiếng Hán (trừ những từ ngữ mượn nguyên dạng).
Trên thực tế, khi chuyển tự một bộ phận từ ngữ tiếng Anh vào tiếng Hán, người Trung Quốc
đã khéo léo, cân nhắc kỹ lưỡng đặc điểm của hai ngôn ngữ Anh – Hán cả về phương diện âm và
nghĩa. Cho dù phải dùng hình thức dịch âm thì cũng sẽ tìm mọi cách để vẫn có cả yếu tố dịch nghĩa,
tạo nên một nhóm từ vay mượn theo hình thức dịch hài âm (từ hỗn hợp) hay phỏng dịch, ví dụ như:
伟哥 (Viagra)、(雪碧) (Sprite)、可口可乐 (Coca cola)、冰淇淋 (ice – cream, kem)、香波
(shampoo, dầu gội đầu)、幽默 (humour, hài hước) 、因特网 (Internet)、 啤酒 (beer)、芭蕾舞
(múa ba lê)… Sự liên kết về mặt kết cấu và ý nghĩa giữa các yếu tố cấu tạo nên từ ngữ vay mượn
dạng này không thực sự chặt chẽ và thường không thể mở rộng thành cụm từ hoặc câu như kết cấu
20
của các từ thuần Hán nhưng dựa vào yếu tố cấu tạo từ, chúng ta vẫn có thể dễ dàng nhận ra mối liên
hệ với ý nghĩa sở chỉ. Hiện tượng này trong tiếng Việt hầu như khơng có.
Giống với tiếng Anh, tiếng Việt hiện đại cũng sử dụng loại chữ ghi âm, dùng hệ chữ cái
Latin để ghi lại âm đọc. Do có cùng loại hình chữ viết nên quá trình tiếp nhận từ ngữ tiếng Anh vào
tiếng Việt diễn ra tự nhiên, thuận lợi hơn so với tiếng Hán. Bên cạnh đó, ngay từ thời cận đại tiếng
Việt vốn đã quen với hình thức mượn nguyên dạng các từ ngữ nước ngoài mà chủ yếu là từ tiếng
Pháp. Việc vay mượn từ ngữ tiếng Anh theo hình thức mượn nguyên dạng ở tiếng Việt giai đoạn
hiện nay vốn không phải là hiện tượng mới mẻ, khác lạ. Người Việt Nam trong tiềm thức đã khá
quen thuộc với việc tiếp nhận những từ ngữ có chữ viết và âm đọc được vay mượn trực tiếp từ các
ngôn ngữ sử dụng cùng hệ chữ cái Latin. Trong khi đó, việc du nhập hàng loạt các từ ngữ tiếng Anh
theo hình thức mượn ngun dạng hoặc có chứa kí tự Latin trong tiếng Hán diễn ra muộn hơn so với
tiếng Việt. Đây cũng được xem là hiện tượng đặc biệt và là kết quả của thời đại bùng nổ thơng tin,
tồn cầu hóa.
Nhìn chung, trừ những từ ngữ vay mượn ngun dạng, tiếng Hán khi tiếp nhận từ ngữ tiếng
Anh phần lớn đều phải tiến hành chuyển tự. Tiếng Việt do sử dụng cùng loại hình chữ viết với tiếng
Anh nên có thể dùng chữ cái Latin trực tiếp ghi lại âm đọc của từ tiếng Anh mà không cần phải
chuyển tự.
3.1.3 Những tương đồng và khác biệt về sự biến đổi của từ ngữ tiếng Anh trong tiếng Hán và
tiếng Việt
3.1.3.1 Sự biến đổi của từ ngữ tiếng Anh khi du nhập vào tiếng Việt
Cũng giống như trong tiếng Hán, các từ ngữ tiếng Anh khi du nhập vào tiếng Việt tất yếu phải
trải qua quá trình biến đổi về ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp để phù hợp với quy luật phát triển và
thói quen biểu đạt của tiếng Việt.
Đối chiếu với tiếng Hán, về phương diện ngữ âm, tiếng Hán và tiếng Việt đều là ngơn ngữ có
thanh điệu, độ trầm bổng của giọng nói trong một âm tiết có tác dụng cấu tạo và khu biệt vỏ âm
thanh của từ và hình vị. Chính vì vậy, từ vay mượn nói chung và từ ngữ tiếng Anh khi du nhập vào
tiếng Hán và tiếng Việt đều phải tuân theo quy luật này. Khi dịch âm các từ tiếng Anh, mỗi một chữ
Hán đều sẽ được gán thêm thanh điệu. Bên cạnh đó, tiếng Hán và tiếng Anh vốn có hệ thống âm vị
khác nhau, những âm tố tiếng Anh khi được vay mượn tất yếu phải có sự biến đổi cho phù hợp với
hệ thống ngữ âm tiếng Hán. Nếu một âm tố trong tiếng Anh có nhưng tiếng Hán khơng có thì phải
lựa chọn âm tố tương tự trong tiếng Hán để thay thế, như vậy từ ngữ tiếng Anh đã được vay mượn
và phát âm theo tiếng Hán. Điều này cũng xảy ra tương tự với tiếng Việt.
Về đặc điểm loại hình, tiếng Hán và tiếng Việt đều thuộc loại hình ngơn ngữ đơn lập. Từ tiếng
Hán và tiếng Việt đều khơng biến đổi hình thái và có tính phân tiết. Trong tiếng Hán cũng như tiếng
Việt, các từ đơn tiết là hạt nhân cơ bản của từ vựng; ranh giới các âm tiết thường trùng với ranh giới
các hình vị, hình vị khơng phân biệt với từ đơn. Những từ có ý nghĩa đối tượng, tính chất, hành
động… khơng phân biệt với nhau về mặt cấu trúc. Tất cả đều được diễn đạt bằng các từ khơng biến
đổi. Trong khi đó, tiếng Anh lại thuộc loại hình ngơn ngữ hịa kết, biến hình. Do sự khác biệt cơ bản
về loại hình ngơn ngữ giữa tiếng Anh với tiếng Hán và tiếng Việt nên các yếu tố hình thái của từ
ngữ tiếng Anh khi du nhập vào tiếng Hán và tiếng Việt cơ bản đều sẽ bị lược bỏ hoặc chỉ được
chuyển dịch về mặt ngữ âm chứ hồn tồn khơng thể hiện ý nghĩa ngữ pháp như trong nguyên ngữ.
Bên cạnh đó, các từ ngữ tiếng Anh khi du nhập vào tiếng Hán và tiếng Việt cũng đều phải
trải qua quá trình biến đổi về ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp theo quy luật phát triển của tiếng Hán
và tiếng Việt. Tiếng Hán và tiếng Việt thuộc cùng loại hình ngơn ngữ đơn lập, có nhiều điểm tương
đồng về phương thức cấu tạo từ và thủ pháp ngữ pháp, mặt khác, tiếng Việt còn có lịch sử hàng
ngàn năm tiếp xúc và chịu ảnh hưởng của tiếng Hán do vị trí địa lý và hồn cảnh lịch sử. Chính vì
vậy, q trình biến đổi của từ ngữ tiếng Anh trong tiếng Hán và tiếng Việt có nhiều điểm tương
đồng. Trên thực tế, q trình Hán hóa/ Việt hóa từ ngữ tiếng Anh khi du nhập vào tiếng Hán và
tiếng Việt đều có thể diễn ra theo hướng tăng hoặc giảm số lượng âm tiết, thay thế âm tố ở khía
cạnh ngữ âm; thu hẹp ngữ nghĩa, mở rộng ngữ nghĩa hoặc biến đổi nghĩa ở khía cạnh ngữ nghĩa;
21
thay đổi hoặc giảm ý nghĩa từ loại, lược bỏ các yếu tố hình thái của từ… ở khía cạnh ngữ pháp.
Nhiều từ ngữ tiếng Anh vốn đa nghĩa nhưng khi du nhập vào tiếng Hán và tiếng Việt thường chỉ còn
mang một nét nghĩa quen thuộc của từ trong nguyên mẫu.
Bên cạnh những nét tương đồng do thuộc cùng loại hình ngơn ngữ, q trình biến đổi cụ thể
của các từ ngữ tiếng Anh khi du nhập vào tiếng Hán diễn ra khơng hồn tồn giống với q trình
biến đổi của lớp từ này trong tiếng Việt. Trong đó, hiện tượng ngữ tố hóa trong tiếng Hán là một
trong những điểm khác biệt dễ nhận thấy.
3.1.3.2 Vấn đề chuẩn hóa lớp từ mượn tiếng Anh trong tiếng Việt
Trước tác động của nền kinh tế thị trường và toàn cầu hóa, yêu cầu chuẩn hóa lớp từ vay
mượn nói chung cũng như từ ngữ mượn tiếng Anh trong tiếng Việt trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Để quá trình tiếp thu các yếu tố vay mượn nói chung và lớp từ ngữ mượn tiếng Anh nói riêng có thể
diễn ra một cách tích cực, hiệu quả, góp phần làm cho tiếng Việt trở nên ngày càng hoàn thiện, đủ
khả năng thực hiện những chức năng xã hội đồng thời vẫn đảm bảo được sự trong sáng của tiếng
Việt là điều không hề dễ dàng. Cần thiết phải ban hành những văn bản hoàn chỉnh, cập nhật, phù
hợp với quy luật nội tại của tiếng Việt mà vẫn mang hơi thở thời đại, bám sát sự phát triển kinh tế,
văn hóa của xã hội nhất là trong bối cảnh tồn cầu hóa, nhất thể hóa mạnh mẽ như hiện nay.
3.2 Vấn đề giảng dạy lớp từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán cho sinh viên Việt Nam
Có thể nói, từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán là lớp từ thể hiện rõ nét những đặc trưng trong
tiếp xúc ngôn ngữ giữa tiếng Hán với tiếng Anh đồng thời cũng phản ánh kịp thời những biến đổi
trong quá trình phát triển của hệ thống từ vựng tiếng Hán từ thời kì cận đại đến nay. Chính vì vậy,
từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán từ lâu đã trở thành đối tượng nghiên cứu có sức hấp dẫn đối với
các nhà ngơn ngữ học. Việc giảng dạy lớp từ này cho người học tiếng Hán, đặc biệt là những sinh
viên Việt Nam chuyên ngành tiếng Hán do vậy cũng là vấn đề rất cần được quan tâm khảo sát.
Để góp chút ý kiến đối với việc giảng dạy lớp từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán cho sinh
viên Việt Nam, chúng tôi đã tiến hành khảo sát, lấy ý kiến của một bộ phận sinh viên thông qua các
phiếu điều tra ngôn ngữ. Đối tượng khảo sát là sinh viên các khóa thuộc hai hệ đào tạo Chính quy
và Văn bằng 2 hiện đang theo học tại khoa Ngữ văn Trung Quốc, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn Thành phố Hồ Chí Minh. Tổng số phiếu điều tra ngơn ngữ hợp lệ thu được là 518 phiếu. Chúng
tôi không tiến hành khảo sát nhóm sinh viên năm thứ nhất hoặc các sinh viên hệ Văn bằng 2 có thời
gian học tiếng Hán ít hơn một năm vì từ mượn vốn là lớp từ có nguồn gốc ngoại lai, du nhập vào
tiếng Hán bằng nhiều phương thức khác nhau, nhiều từ ngữ trong số đó có hình thức cấu tạo xa lạ,
thể hiện nhiều điểm khác biệt so với nhóm từ thuần Hán. Chính vì vậy, đối tượng trả lời khảo sát
cần có vốn từ vựng và sự hiểu biết nhất định về tiếng Hán ở cả ba phương diện ngữ âm, từ vựng,
ngữ pháp để đảm bảo khảo sát được thực hiện một cách chính xác, hiệu quả. Mục đích của việc
khảo sát là nhằm làm rõ các vấn đề liên quan đến sự hiểu biết cũng như thái độ tiếp nhận lớp từ
mượn tiếng Anh trong quá trình học và sử dụng tiếng Hán của sinh viên Việt Nam. Dưới đây là một
số kết quả cụ thể chúng tôi có được sau khi tiến hành khảo sát.
3.2.1 Kênh thơng tin giúp sinh viên biết đến nhóm từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán
Theo kết quả khảo sát, số lượng sinh viên biết đến lớp từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán qua
sách báo, tạp chí trong đó có giáo trình giảng dạy tiếng Hán chỉ chiếm 14%. Điều này cho thấy, các
giáo trình giành để giảng dạy cho sinh viên chuyên ngành tiếng Hán hiện nay hầu như chưa đề cập
đến lớp từ mượn nói chung và nhóm từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán nói riêng. Tài liệu trình
bày, phân tích về sự xuất hiện, đặc điểm cũng như xu hướng phát triển của lớp từ mượn tiếng Anh
trong tiếng Hán lại càng thiếu khuyết. Bên cạnh đó, kết quả khảo sát cũng phản ánh một thực tế là,
hiện nay từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán có tần số xuất hiện khá thường xuyên trên truyền hình
và mạng Internet. Đa số các sinh viên được khảo sát đều biết đến lớp từ mượn tiếng Anh trong tiếng
Hán thông qua các kênh thông tin này.
3.2.2 Khả năng nhận diện từ ngữ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán của sinh viên Việt Nam
Về khả năng nhận diện nguồn gốc của từ vay mượn, 92% sinh viên được khảo sát đã nhận ra
nhóm từ vay mượn tiếng Anh khi phải phân biệt với các từ ngữ vay mượn từ tiếng Nhật, tiếng Nga
22
và nhóm từ ngữ mới xuất hiện trong tiếng Hán thời gian gần đây. Điều này cho thấy, sự hiểu biết
của sinh viên về lớp từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán khá tốt. Tuy nhiên, khi được yêu cầu chỉ ra
các từ ngữ có nguồn gốc tiếng Anh trong tiếng Hán khi sử dụng ở cấp độ câu, với câu hỏi có thể lựa
chọn nhiều đáp án, chỉ có 98/ 518 sinh viên nhận ra các từ ngữ mượn tiếng Anh theo hình thức dịch
nghĩa khi sử dụng trong câu, chiếm tỉ lệ 19%. Điều này có thể xuất phát từ nguyên nhân, các từ dịch
nghĩa do sử dụng chất liệu và quy tắc cấu tạo từ của tiếng Hán nên nguồn gốc ngoại lai của chúng
khó nhận ra hơn các từ ngữ tiếng Anh được du nhập theo các phương thức vay mượn khác. Kết quả
khảo sát cũng cho thấy, tuy dễ dàng nhận ra nguồn gốc tiếng Anh của từ ngữ vay mượn trong tiếng
Hán nhưng nhiều sinh viên lại chưa thể phân biệt được nhóm từ này dựa trên phương thức tiếp nhận,
nguyên nhân có thể do việc nắm bắt và sử dụng lớp từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán của sinh
viên Việt Nam hiện nay chủ yếu là qua con đường tự học, tự tìm hiểu chứ chưa được giảng dạy
chính thức trong chương trình học. Những kiến thức cơ bản của sinh viên về lớp từ này do vậy vẫn
còn nhiều hạn chế.
3.2.3 Thái độ tiếp nhận và sử dụng nhóm từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán của sinh viên
Việt Nam
Về thái độ tiếp nhận nhóm từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán, phần lớn các sinh viên được
khảo sát đều nhận thấy, việc vay mượn từ ngữ tiếng Anh trong tiếng Hán là hiện tượng bình thường,
phản ánh những biến đổi của tiếng Hán ở các thời kỳ khác nhau. Kết quả này phù hợp với những
phân tích ở phần trên, đó là, vay mượn từ vựng là hiện tượng ngơn ngữ phổ biến, được xem là một
trong những hệ quả tất yếu của sự tiếp xúc giữa tiếng Hán với tiếng Anh. Mặt khác, kết quả khảo sát
cũng phản ánh thực tế là, do trình độ và vốn từ vựng tiếng Anh ngày càng được nâng cao nên việc
nhận diện ra nguồn gốc cũng như nắm bắt ý nghĩa của các từ ngữ tiếng Anh trong quá trình học
tiếng Hán của các sinh viên Việt Nam khơng gặp nhiều khó khăn. Một số sinh viên thậm chí cịn
xem đây là hiện tượng ngơn ngữ thú vị vì có nhiều điểm tương đồng với nhóm từ ngữ mượn tiếng
Anh trong tiếng Việt.
Về lí do sử dụng, nguyên nhân chủ yếu khiến cho các sinh viên Việt Nam dễ dàng tiếp nhận và
sử dụng từ ngữ có nguồn gốc tiếng Anh trong quá trình học và thực hành tiếng Hán là do lớp từ này
đơn giản, tiện lợi, nhiều sinh viên cũng khá quen thuộc với ý nghĩa của chúng trong nguyên ngữ.
Về tần số sử dụng, kết quả khảo sát cho thấy, từ vay mượn tiếng Anh trong tiếng Hán tuy
không được giảng dạy chính thức trong chương trình học nhưng do có tần số xuất hiện cao trên các
phương tiện truyền thơng và sách báo, tạp chí nên khơng xa lạ với đa số sinh viên Việt Nam.
Về vấn đề chuẩn hóa, đa số sinh viên được khảo sát đều cho rằng, cần phải có các quy tắc
chuẩn hóa nhóm từ ngữ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán. Trên thực tế, kết quả này vừa phù hợp với
nguyên tắc tiếp nhận từ ngữ ngoại lai nói chung vừa giúp cho việc tìm hiểu và sử dụng lớp từ mượn
tiếng Anh trong tiếng Hán đối với sinh viên Việt Nam trở nên dễ dàng, thuận lợi hơn.
3.2.4 Một vài đề xuất liên quan đến vấn đề giảng dạy lớp từ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán
cho sinh viên Việt Nam
Từ kết quả thu được qua các phiếu điều tra ngôn ngữ chúng tơi nhận thấy, trong q trình học
và thực hành tiếng Hán, mặc dù những tài liệu liên quan còn ít, chưa mang tính chuyên đề, nhưng
hầu hết các sinh viên Việt Nam đều biết đến và từng sử dụng qua lớp từ mượn tiếng Anh trong tiếng
Hán. Điều này có lẽ xuất phát từ nguyên nhân, lớp từ mượn tiếng Anh đã và đang xuất hiện ngày
càng nhiều trong tiếng Hán ở hầu hết các lĩnh vực của cuộc sống. Từ ngữ mượn tiếng Anh trong
tiếng Việt cũng ngày càng gia tăng và có nhiều nét tương đồng với lớp từ này trong tiếng Hán. Bên
cạnh đó, trình độ tiếng Anh của sinh viên Việt Nam cũng ngày càng nâng cao. Điều này giúp cho
hầu hết sinh viên không cảm thấy xa lạ và có phần u thích sử dụng nhóm từ ngữ có nguồn gốc
vay mượn từ tiếng Anh, đặc biệt là những từ ngữ mượn nguyên dạng xuất hiện trong thời gian gần
đây. Điều đáng tiếc là, trong chương trình học của các sinh viên chuyên ngành tiếng Hán hiện nay
hầu như chưa có nội dung hay chuyên đề giới thiệu riêng về lớp từ này, phần lớn sinh viên biết đến
các từ ngữ mượn tiếng Anh trong tiếng Hán là thông qua mạng Internet hoặc các chương trình
truyền hình, phim ảnh… Sự hiểu biết cũng như nhận thức của sinh viên về lớp từ này do vậy còn bị