Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Lịch sử văn minh thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.57 KB, 33 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA DU LỊCH & KHÁCH SẠN
----***----

BÀI THẢO LUẬN
LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI

Đề tài: Văn minh Công Nghiệp TK XVIII

Giảng viên hướng dẫn

: TS. Trần Thị Huyền Trang

Nhóm sinh viên thực hiện

: Nhóm 6

Lớp học phần

: LSVMTG_04

Hà Nội, tháng 10/2022


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA DU LỊCH & KHÁCH SẠN
----***----

BÀI THẢO LUẬN
LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI


Đề tài: Văn minh Công Nghiệp TK XVIII

Giảng viên hướng dẫn

: TS. Trần Thị Huyền Trang

Nhóm sinh viên thực hiện

: Nhóm 6

Lớp học phần

: LSVMTG_04

Hà Nội, tháng 10/2022


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG...................................................................................................2
PHẦN I: ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI NỀN VĂN MINH CÔNG NGHIỆP....................2
1.1.

Phong trào phát kiến địa lí thế kỉ XV - XVI............................................2

1.1.1. Bối cảnh..................................................................................................2
1.1.2. Một số cuộc phát kiến địa lý tiêu biểu:...................................................2
1.1.3. Hệ quả của những phát kiến địa lý........................................................3
1.2.


Thắng lợi của phong trào cách mạng tư sản (thế kỉ XVI-XVIII)...........3

1.2.1. Sự ra đời các quốc gia tư sản đầu tiên ở châu Âu và Bắc Mỹ (thế kỷ
XVII-XVIII)................................................................................................................3
1.2.2. Vai trò của CMTS đối với sự ra đời của nền Văn minh công nghiệp....4
PHẦN 2: CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP................................................6
2.1. Những điều kiện dẫn tới cuộc Cách mạng công nghiệp..............................6
2.1.1. Về tự nhiên:..............................................................................................6
2.1.2. Về mặt xã hội:...........................................................................................6
2.1.3. Về mặt kinh tế:..........................................................................................6
2.2. Những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp...................................6
2.2.1. Ngành dệt..................................................................................................6
2.2.2. Luyện kim.................................................................................................8
2.2.3. Giao thông vận tải....................................................................................8
2.3. Những hệ quả của Cách mạng công nghiệp...............................................10
2.3.1. Về kinh tế................................................................................................10
2.3.2. Về xã hội.................................................................................................10
PHẦN 3: NHỮNG PHÁT MINH KHOA HỌC KỸ THUẬT VÀ TRIẾT HỌC
THẾ KỶ XVIII...............................................................................................................15
3.1. Các thành tựu về khoa học kỹ thuật...........................................................15
3.1.1. Những thành tựu về khoa học................................................................15


3.1.2 Thành tựu về kỹ thuật.............................................................................22
3.2. Các thành tựu về triết học..........................................................................24
3.2.1. Triết học Ánh sáng thế kỉ XVIII.............................................................24
3.2.2. Các học thuyết kinh tế............................................................................26
PHẦN KẾT LUẬN.................................................................................................28
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................29



PHẦN MỞ ĐẦU
Thế giới đã và đang chứng kiến sự phát triển rực rỡ của chủ nghĩa tư bản (CNTB).
Ra đời sau song chính các cường quốc tư bản đó lại đang làm nên thời đại hoàng kim của
nền kinh tế thế giới. Con người được tạo điều kiện thoả mãn nhu cầu của bản thân, được
thể hiện mình ở bất kỳ nơi đâu, bất kể người đó là ai. Để có được thành quả đó chúng ta
khơng thể khơng kể đến bước ngoặt trên con đường phát triển của bản thân mỗi cường
quốc tư bản trên thế giới hiện nay. Đó chính là cuộc Cách mạng cơng nghiệp lần thứ nhất.
Vậy cách mạng cơng nghiệp là gì? Điều kiện ra đời của nó? Cuộc cách mạng này có
những thành tựu nào? Bài thảo luận dưới đây của chúng tôi sẽ tìm hiểu về những vấn đề
trên trong phạm vi của thế kỉ XVIII.

1


PHẦN NỘI DUNG
PHẦN I: ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI NỀN VĂN MINH CƠNG NGHIỆP.
1.1.

Phong trào phát kiến địa lí thế kỉ XV - XVI

1.1.1. Bối cảnh
Từ thế kỷ XIV nhu cầu giao lưu giữa Tây Âu và phương Đông trở nên cấp thiết. Sự
phát triển nền kinh tế hàng hóa , sự khao khát gia vị, hương liệu quý, vàng bạc của phương
Đông đã thúc đẩy thương nhân tăng cường giao lưu với Trung Hoa, Ấn Độ. Nhưng con
đường quen thuộc sang phương Đông ngang qua Bidantin đã bị người Tuốc và người Ả
Rập chiếm giữ..
Thế kỉ XV, người Tây Âu đã có nhiều tiến bộ về kỹ thuật hàng hải: Nhận thức được
quả đất hình trịn, biết sử dụng la bàn để đi biển, hoa tiêu đã xác định vĩ độ, xác định được
chỉ số hải lý của vùng gió, mật độ vĩ tuyến của thủy triều.

Dùng loại tàu Caraven (có nhiều kiểu) nhanh, nhẹ, được cải tiến để chở nhiều khách,
liên lạc nhanh với các điểm rải rác trên biển.
Dịch và xuất bản “chỉ dẫn về địa lý” Năm 1502 đã ra đời binh đồ địa cầu gọi là Bản
đồ Cantino. Trên bản đồ này lần đầu tiên đã vẽ đường xích đạo và 2 chí tuyến. Năm 1504,
lần đầu tiên trong lịch sử trên một bản đồ Đại Tây Dương Pedro Reinel đã đưa vào một
thang vĩ độ.
1.1.2. Một số cuộc phát kiến địa lý tiêu biểu:
Người Bồ Đào Nha đã nhiều lần tổ chức các cuộc đi trên biển để tìm đường vịng
quanh Châu Phi đến Ấn Độ. Từ cuối năm 1416, năm nào cũng có đồn đi nhưng rồi lại
quay về trong đó có 3 lần đi quan trọng nhất.
Năm 1487, Điaxơ men theo bờ biển đến được cực Nam Châu Phi, tại đây gặp sóng
lớn nên ông đặt tên là “ Mũi bảo táp” về sau vua đặt tên là “ Mũi Hảo Vọng”.
Tháng 7/1497, Vaxcô Dơ Gama đã đi qua Mũi Hảo Vọng, đi vào Ấn Độ Dương và
cuối cùng đến được Caliút (phía Tây Ấn Độ ) vào ngày 20/5/1498.
Ngày 3/8/1492, Côlômbô đã vượt Đại Tây Dương đếnl ục địa Châu Mỹ.

2


Từ 1519-1522, Magienlăng thực hiện cuộc hành trình vịng quanh thế giới. Nhưng
khi đến Philippin, ơng bị chết. Đồn tiếp tục cuộc hành trình về lại Tây Ban Nha. Lần đầu
tiên đã chứng minh trong thực tế quả đất là một quả cầu mà người ta di vòng quanh được.
1.1.3. Hệ quả của những phát kiến địa lý
Thứ nhất là hệ quả tích cực.
 Về địa lý: tìm ra châu lục mới là châu Mỹ, đại dương mới là Thái Bình Dương và
những con đường biển mới đến các châu lục đã tạo điều kiện cho sự tiếp xúc, giao
lưu kinh tế, văn hóa.
 Về kinh tế: Mở rộng lãnh thổ thương mại thế giới và phạm vi kinh tế của tư bản
châu Âu, thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển. Hoạt động thương mại thế giới trở
nên sôi động hơn, những tuyến đường thương mại được hình thành nối liền các

châu lục Á, Âu, Phi và tạo nên tam giác mậu dịch Đại Tây Dương (Âu - Phi - Mỹ).
Ngồi ra cịn tạo nên sự chuyển dịch trung tâm thương mại: từ Địa Trung Hải ra
Đại Tây Dương, từ Lixbon đến Amtecdam và Luân Đôn. Hệ quả quan trọng nhất
về mặt kinh tế là cuộc “cách mạng giá cả”, thúc đẩy nhanh q trình tích lũy tư bản
ngun thủy.
 Về xã hội: làm nảy sinh phong trào di thực giữa các châu lục trên quy mô lớn… Về
văn hóa: thúc đẩy giao lưu văn hóa, tạo điều kiện cho các ngành khoa học phát
triển…
Về hệ quả tiêu cực, phong trào này dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa thực dân, nạn
cướp bóc thuộc địa và bn bán nô lệ da đen.

1.2.

Thắng lợi của phong trào cách mạng tư sản (thế kỉ XVI-XVIII)

1.2.1. Sự ra đời các quốc gia tư sản đầu tiên ở châu Âu và Bắc Mỹ (thế kỷ
XVII-XVIII)
Nguyên nhân và mục tiêu của các cuộc cách mạng tư sản:
Nguyên nhân sâu xa về kinh tế chính là mâu thuẫn gay gắt giữa LLSX mới đang lên
với QHSX cũ lỗi thời lạc hậu kìm hãm. Nguyên nhân trực tiếp là sự khủng hoảng trầm
trọng của chế độ phong kiến đã tạo ra những tiền đề chín muồi, dẫn đến xuất hiện tình thế
cách mạng làm bùng nổ các cuộc cách mạng tư sản.
Mục tiêu, nhiệm vụ của các cuộc cách mạng tư sản: Lật đổ chế độ phong kiến xác
lập chế độ tư bản, đưa giai cấp tư sản lên nắm chính quyền, xác lập chế độ chiếm hữu tư
nhân TBCN về tư liệu sản xuất, tuyên bố các quyền tự do dân chủ.
3


Một số cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu:
Sự phát triển của công trường thủ công thúc đẩy tập trung sản xuất, mở rộng thị

trường, không thỏa mãn nhu cầu hàng hóa ngày càng tăng lên. Đó là thực tế khách quan
chuyển công trường thủ công sang cơ chế tư bản chủ nghĩa.
Thông qua hàng loạt các cuộc cách mạng tư sản, các cuộc vận động thống nhất Đức,
Italia, các cuộc cải cách ở Nga, ở Nhật Bản, chủ nghĩa tư bản sẽ được xác lập và những
mâu thuẫn trên sẽ được giải quyết.
Ở Mêđeclan: Đây là cuộc CMTS nổ ra đầu tiên trên thế giới, được lấy làm mốc mở
đầu thời cận đại (1566-1579). Sau khi cách mạng thắng lợi, chính quyền ở Hà Lan thuộc
về GCTS và tầng lớp quý tộc, công thương nghiệp tiếp tục phát triển.
Ở Anh: Trong thế kỷ XVII (1640-1689) cuộc CMTS bùng nổ ở Anh. Quốc hội Anh
bao gồm đa số là quý tộc mới và tư sản đã đối đầu với chế độ quân chủ. Sau cách mạng,
chế độ quân chủ lập hiến được hình thành ở Anh. Tuy có sự tồn tại của chế độ quân chủ
lập hiến nhưng quyền lực thực sự nằm trong tay quý tộc mới và tư sản.
Ở Mỹ: (1774-1787) nhân dân các thuộc địa anh ở Bắc Mỹ đã nổi dậy chống lại chế
độ thuộc địa Anh. Năm 1783, tại Vécxây (Pháp), bằng một hiệp ước hồn chỉnh Anh cơng
nhận nền độc lập của 13 thuộc địa Bắc Mỹ. Dân tộc Mỹ được hình thành với sự ra đời của
hợp chủng quốc châu Mỹ (Hoa Kỳ ). Hiến pháp 1787 ra đời, xác nhận Mỹ là nước cộng
hòa liên bang.
Ở Pháp: (1789-1799), CMTS bùng nổ và thắng lợi, chế độ cộng hòa được xác lập.
Cho dù về sau, Napơlêơng bằng cuộc đảo chính ngày 09/1/1799 đã thiết lập chế độ độc tài
quân sự thì những thành quả mà cách mạng Pháp đã giành được khơng gì có thể xóa bỏ.
Cách mạng đã lật đổ chế độ chuyên chế, mở đường cho CNTB phát triển. Lênin gọi cách
mạng Pháp là cuộc cách mạng vĩ đại.
1.2.2. Vai trò của CMTS đối với sự ra đời của nền Văn minh cơng nghiệp
CMTS diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, trải qua nhiều giai đoạn khác nhau
vô cùng gay go và quyết liệt đã lật đổ chế độ phong kiến xác lập các quốc gia dân tộc tư
4


sản, xác lập địa vị của CNTB trên phạm vi thế giới. Đưa loài người tiến bước vào một nền
văn minh mới: văn minh công nghiệp.

CMTS đã thiết lập thể chế DCTS với những nguyên tắc, thể chế tiến bộ, dân chủ, ưu
việt hơn hẳn chế độ phong kiến. Những thành quả dân chủ ấy còn là cơ sở để sau này giai
cấp vô sản kế thừa xây dựng nền DCVS.
CMTS đã để lại những văn kiện nổi tiếng đó là các bản Tuyên ngôn (Tuyên ngôn
Độc lập của Mỹ, tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp) và các bản Hiến pháp
của Mỹ, của Pháp…, những văn kiện ấy đã trở thành những tài sản quý giá trong kho tàng
văn minh văn hóa của lồi người.
CMTS đã tạo lập mơi trường chính trị thuận lợi cho việc tiến hành cách mạng cơng
nghiệp, góp phần chiến thắng tuyệt đối chế độ phong kiến trên lĩnh vực chính trị, kinh tế
đã đưa GCTS đi đến chiến thắng tuyệt đối giai cấp phong kiến.
Gắn với các cuộc CMTS là những lãnh tụ kiệt xuất của GCTS, linh hồn của các
cuộc cách mạng, mà khi thời đại CMTS càng lùi xa, vai trị và đóng góp của họ càng được
nhận diện chân xác hơn: Ơlivơ Crơmoen (linh hồn của CM Anh), Gic Oasinhtơn được
mệnh danh Quốc phụ của Mỹ, Rôbetxpie, người được mệnh danh là vì sao sáng nhất trên
bầu trời đầy sao của CM Pháp.
Tuy nhiên, trên con đường phát triển CNTB vẫn cịn những khiếm khuyết, vì thế
CMTS chưa phải là cuộc cách mạng cuối cùng trong lịch sử và sớm hay muộn thì theo
quy luật nó sẽ bị thay thế bởi cuộc cách mạng cao hơn - CMVS.
Tóm lại, thế kỉ XVII-XIX, CNTB thắng lợi ở nhiều nước châu u, châu Mỹ thúc đẩy
khoa học phát triển. Chủ nghĩa thực dân không thể tồn tại mà không cải tiến khoa học kỹ
thuật. Cuối trung đại, công trường thủ công tư bản chủ nghĩa xuất hiện. Đầu cận đại, máy
móc xuất hiện đầu tiên ở Anh, sau đó sang u Mỹ, tạo ra cuộc cách mạng công nghiệp, cơ
sở vật chất và kĩ thuật của chủ nghĩa tư bản, là nền công nghiệp lớn.

5


PHẦN 2: CUỘC CÁCH MẠNG CƠNG NGHIỆP
Cách mạng cơng nghiệp hay cịn gọi là Cách mạng cơng nghiệp lần thứ nhất là cuộc
cách mạng trong lĩnh vực sản xuất; là sự thay đổi cơ bản các điều kiện kinh tế xã hội, văn

hóa và kỹ thuật, xuất phát từ nước Anh sau đó lan tỏa ra tồn thế giới. Trong thời kỳ này,
nền kinh tế giản đơn, quy mô nhỏ, dựa trên lao động chân tay được thay thế bằng cơng
nghiệp và chế tạo máy móc quy mơ lớn. Tên gọi "Cách mạng công nghiệp" thường dùng
để chỉ giai đoạn thứ nhất của nó diễn ra ở cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX.

2.1. Những điều kiện dẫn tới cuộc Cách mạng cơng nghiệp
2.1.1. Về tự nhiên:
Anh có nhiều mỏ than, sắt và các mỏ này lại nằm gần nhau, điều đó rất thuận lợi về
mặt kinh tế khi khởi đầu cuộc cách mạng công nghiệp. Về nguyên liệu, Anh có thuận lợi
là nguồn lơng cừu trong nước và bơng nhập từ Mỹ, đó là những ngun liệu cần thiết cho
ngành dệt. Các dịng sơng ở Anh tuy không dài nhưng sức chảy khá mạnh, đủ để chạy các
máy vận hành bằng sức nước. Hải cảng Anh thuận lợi để đưa hàng hóa đi khắp thế giới.
2.1.2. Về mặt xã hội:
Giai cấp quý tộc Anh sớm tham gia vào việc kinh doanh và họ trở thành tầng lớp q
tộc mới, có quyền lợi gắn liền với tư sản, có cách nhìn của tư sản. Nhu cầu về lơng cừu đã
dẫn tới phong trào đuổi những người nông dân ra khỏi ruộng đất để các nhà quý tộc biến
đất đai đó thành đồng cỏ ni cừu. Lực lượng nơng dân bị dồn đuổi ra khỏi ruộng đất đã
cung cấp một lượng lớn lao động cho các công trường thủ công ở các thành thị.
2.1.3. Về mặt kinh tế:
Anh quốc có thể bóc lột tài nguyên từ các thuộc địa rộng lớn để làm nguồn vốn cho
cơng nghiệp hóa, tiêu biểu là Ấn Độ. Nhà kinh tế học nổi tiếng Utsa Patnaik dựa trên dữ
liệu chi tiết về thuế và mậu dịch thương mại trong gần hai thế kỷ, đã tính tốn rằng thực
dân Anh đã bịn rút khoảng 45.000 tỷ USD (theo thời giá năm 2017) của Ấn Độ trong giai
đoạn 1765 đến 1938, lớn gấp 17 lần GDP của nước Anh năm 2017. Thuộc địa Ấn Độ đã
phải cung phụng để nước Anh phát triển. Cuộc cách mạng cơng nghiệp tại Anh phụ thuộc
lớn vào tài chính từ những phi vụ chiếm đoạt có hệ thống ở Ấn Độ

2.2. Những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp
2.2.1. Ngành dệt
Công nghiệp len dạ là ngành công nghiệp phát đạt và lâu đời nhất ở Anh. Nhưng

máy móc khơng xuất hiện đầu tiên ở đó mà lại ở ngành công nghiệp bông vải mới ra đời.
6


Đó là vì trong cơng nghiệp len dạ vẫn duy trì chế độ phường hội, chịu nhiều điều hạn chế
của những quy chế trước đây. Cịn ngành bơng vải là ngành công nghiệp trẻ tuổi, chủ yếu
phân tán ở nông thơn, ít chịu sự ràng buộc của những quy chế cũ nên có thể phát triển
mạnh mẽ.
Năm 1733, nhà kỹ thuật Giôn Cây phát minh ra thoi bay. Thoi bay làm cho năng
suất lao động tăng lên gấp đơi, địi hỏi phải tăng mức sản xuất sợi. Nhu cầu về sợi đó địi
hỏi phải có máy thay thế cho hai bàn tay của con người.
Năm 1765, người thợ dệt Giêm Hacgrivơ phát minh ra máy kéo sợi mang tên con
gái ông là Giênny. Máy Giênny vẫn phải quay bằng tay, nhưng trước đây chỉ có một cọc
suốt thì nay đã lên tới 16-18 cọc suốt mà vẫn do một công nhân điều khiển. Nhờ vậy, sợi
được sản xuất ra nhiều hơn trước. Có thể coi máy kéo sợi Giênny là phát minh đầu tiên
làm thay đổi sâu sắc tình hình trước đây của lao động Anh; vì nó mở đầu cho sự phân
công lao động giữa việc kéo sợi và việc dệt vải trong xã hội.
Năm 1769, máy kéo sợi chạy bằng sức nước ra đời mang tên Accraitơ. Hai năm
sau, Accraitơ xây dựng xưởng dệt đầu tiên của nước Anh ở Manxextơ. Ưu điểm lớn của
máy Accraitơ là dùng sức nước để giải phóng q trình sản xuất khỏi sự hạn chế của sức
người nhưng cịn rất thơ sơ. Nhờ những phát minh trên, ngành kéo sợi phát triển mạnh
mẽ, năng suất lao động tăng lên gấp bội. Do đó nó dẫn tới tình trạng mất cân bằng: vải dệt
khơng tiêu thụ hết sợi đã sản xuất, và địi hỏi một bước tiến mới trong ngành dệt.
Năm 1785, kỹ sư Etmôn Accraita sáng tạo ra máy dệt. Máy dệt đã đưa tốc độ sản
xuất tăng lên tới 39 lần.
Năm 1769, một thực nghiệm viên của trường Đại học Anh là Giêm Oát tìm ra
nguyên tắc của máy hơi nước và đến năm 1784 thì áp dụng vào cơng xưởng một cách
hoàn thiện. Việc áp dụng máy hơi nước trong công nghiệp gây nên một chuyển biến lớn:
tốc độ sản xuất và năng suất lao động tăng lên rõ rệt. Đồng thời, các xưởng lớn sử dụng
đông đảo công nhân xuất hiện tại nhiều miền nước Anh. Vượt ra ngoài phạm vi ngành

bơng vải, máy hơi nước cịn được áp dụng và có tác động lớn trong nghề làm len, dệt
lanh, nghề tơ tằm và các ngành công nghiệp nhẹ khác.
Nhờ có những phát minh mỗi năm một hồn thiện ấy, lao động bằng máy đã thắng
lao động bằng chân tay trong các ngành chủ yếu của công nghiệp Anh.

7


2.2.2. Luyện kim
Sự tiến bộ về kỹ thuật trong các ngành công nghiệp nhẹ đặt ra một vấn đề lớn cho
nền kinh tế là phải sản xuất nhiều máy mới. Muốn thế phải phát triển các ngành luyện kim
và chế tạo cơ khí.
Năm 1735, Abraham Đacbi phát minh ra phương pháp nấu than cốc từ than đá để
luyện gang. Đó là một phát minh đặc biệt quan trọng vì rừng rậm ở nước Anh đã bị cắt
trụi, than gỗ không cịn bao nhiêu và đến năm 1756, thì được cải tiến hồn thiện hơn.
Năm 1784 Cooctơ xây lị luyện gang dùng nguyên liệu khoáng sản để sản xuất gang
thép. Những phát minh đó làm khả năng sản xuất đồ kim loại tăng lên và các ngành khai
mỏ phát triển. Người ta xây dựng những lò cao lớn gấp 50 lần so với lị cũ và đơn giản
hóa việc nấu chảy quặng bằng cách dùng luồng khí nóng cháy. Nhờ vậy mà sắt sản xuất ra
rẻ đến mức độ nhiều đồ dùng bằng gỗ trước đây có thể thay thế bằng sắt. Việc xuất hiện
hàng loạt cầu sắt ở vùng Yooc (1788) và những cột nhà, bệ máy bằng sắt đã chứng tỏ điều
đó. Đồng thời các mỏ đồng, mỏ thiếc, mỏ chì… cũng được khai thác.
Ngành luyện kim và khai mỏ phát triển tạo điều kiện rất thuận lợi cho việc xây dựng
công nghiệp nặng. Tuy nhiên, ngành chế tạo máy móc vẫn cịn ở trong tình trạng thủ
cơng. Phải mất một thời gian dài mới có thể làm cho ngành cơ khí trở thành cơ sở cho
tồn bộ nền công nghiệp nặng của nước Anh.
2.2.3. Giao thông vận tải
Năm 1807, Robert Fulton (1765-1915) người Mỹ, đã chế ra tàu thủy chạy bằng hơi
nước thay thế cho những mái chèo hay những cánh buồm. Phát minh của ông được truyền
cảm hứng từ động cơ hơi nước của James Watt trước đó.

Futon từ sớm đã có những ý tưởng của mình cho những chiếc thuyền chạy bằng hơi
nước. Fulton đã làm quen với Robert R. Livingston, người đang làm Đại sứ Hoa Kỳ tại
Pháp và Livingston đã giúp Fulton chế tạo một chiếc thuyền hơi nước với ý định chèo
thuyền trên sông Seine. Lúc đầu, dự án xây dựng tàu hơi nước Clermont chỉ được xem là
trò cười của những người qua đường cho đến ngày 17 tháng 8 năm 1807, chuyến đi đầu
tiên của tàu Clermont được bắt đầu. Clermont được vận hành trên sông Hudson từ thành
phố New York đến Albany. Bánh xe chèo của tàu hơi nước rộng 4 feet và đường kính 15
feet. Sau đó, tàu Clermont bắt đầu thực hiện các chuyến đi thường xuyên đến Albany, đôi
khi chở hàng trăm hành khách, thực hiện chuyến đi khứ hồi bốn ngày một lần và tiếp tục
cho đến khi băng nổi đánh dấu thời gian nghỉ đông.
8


Bằng cách cho phép vận chuyển nguyên liệu thô và thành phẩm với giá cả phải
chăng và đáng tin cậy, những chiếc tàu hơi nước của Fulton đã tỏ ra rất cần thiết cho cuộc
cách mạng công nghiệp Mỹ. Cùng với việc mở ra kỷ nguyên lãng mạn của du lịch bằng
thuyền trên sông sang trọng, những chiếc thuyền của Fulton đã góp phần đáng kể vào việc
mở rộng về phía tây của nước Mỹ. Ngồi ra, những phát triển của ông trong lĩnh vực tàu
chiến chạy bằng hơi nước sẽ giúp Hải quân Hoa Kỳ trở thành một cường quốc quân sự
thống trị.
Năm 1814, George Stephenson (1781-1848) người Anh, phát minh ra chiếc đầu máy
xe lửa đầu tiên chạy bằng hơi nước mà sự thành cơng của nó đã làm bùng nổ hệ thống
đường sắt ở châu u và châu Mỹ. Máy hơi nước của nhà bác học James Watt là tiền đề ra
đời cho phát minh của Stephenson.
Nguyên mẫu đầu tiên của ông hoạt động được nhưng gây tiếng ồn dữ dội và tốn
nhiều nhiên liệu. Không nản lịng, trải qua nhiều lần thí nghiệm, Stephenson đã làm giảm
được đáng kể sự chấn động của đầu máy, toa xe và tiếng ồn bằng cách giữa đầu máy và
toa xe, ơng bố trí bộ phận lị xo. Ơng lắp thêm một ống xả khói ở phía trên đầu máy để
khói khơng tỏa ra xung quanh đồn xe lửa. Nhờ thế, tốc độ đầu máy xe lửa cũng tăng lên
đáng kể.

Khơng dừng lại ở thành cơng đó, năm 1830, Stephenson cùng con trai đã thành công
trong việc chế tạo đầu máy hơi nước có tốc độ lớn đầu tiên, chở được 36 hành khách, với
tốc độ 48km/giờ. Cũng trong năm 1830, Stephenson tiếp tục xây dựng tuyến đường xe lửa
thứ hai và là tuyến đường sắt đầu tiên trên thế giới, dài 48km nối thành phố Liverpool với
thành phố Manchester. Con tàu như báo hiệu bình minh, chẳng bao lâu, các tuyến đường
sắt đã nối nhau chạy ngang dọc khắp đất nước Anh và lan toả khắp nơi trên thế giới.
Phát minh của Stephenson đã mở ra cuộc cách mạng trong nền kinh tế châu u, tạo
điều kiện cho sự phát triển vũ bão của công nghiệp và khoa học kỹ thuật trong thế kỷ
XIX. Vinh quang của George Stephenson đã lên đến tột đỉnh khơng kém gì vinh quang
của James Watt. Ơng xứng đáng được tơn vinh là "ơng tổ" của xe lửa và đường sắt.

9


2.3. Những hệ quả của Cách mạng công nghiệp.
2.3.1. Về kinh tế
Cuộc Cách mạng công nghiệp đã làm thay đổi bộ mặt các nước tư bản. Nhiều khu
công nghiệp xuất hiện, dân tập trung ra các thành thị ngày một nhiều dẫn tới q trình đơ
thị hố thời cận đại. Nhiều đô thị với dân số trên 1 triệu người dần hình thành. Sản xuất
bằng máy đã nâng cao năng suất lao động, làm ra khối lượng sản phẩm lớn cho xã hội, xã
hội hóa q trình lao động của các nước tư bản. Cách mạng cơng nghiệp cũng góp phần
thúc đẩy những chuyển biến mạnh mẽ trong các ngành kinh tế khác, đặc biệt là nông
nghiệp và giao thông vận tải. Nhu cầu cơng nghiệp hố khiến nơng nghiệp nhanh chóng
chuyển sang phương thức chuyên canh hoặc thâm canh, đồng thời q trình cơ giới hố
nơng nghiệp, đã góp phần giải phóng nơng dân, bổ sung lực lượng lao động cho thành
phố.
2.3.2. Về xã hội
Cuộc CMCN đã làm hình thành 2 giai cấp mới là: tư sản công nghiệp và vơ sản
cơng nghiệp. Hai giai cấp này có quyền lợi đối kháng nhưng cùng tồn tại trong một cấu
trúc kinh tế Tư bản chủ nghĩa. Giai cấp tư sản nắm tư liệu sản xuất và quyền thống trị, vô

sản công nghiệp làm thuê, đời sống cơ cực dẫn đến đấu tranh giữa vô sản với tư sản
không ngừng tăng lên. Sự xuất hiện của máy móc khơng hề cải thiện đời sống người công
nhân, trái lại bọn tư bản còn tăng cường độ lao động. Với điều kiện sống cực khổ lúc đó,
mỗi ngày lại phải làm việc từ 12 đến 15 giờ nên những cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản
đã sớm nổ ra.
Năm 1811 - 1812, ở Anh đã nổ ra phong trào đập phá máy móc. Đó là một biểu hiện
đấu tranh bộc phát. Sự phát triển của công nghiệp làm tăng thêm số người vô sản, đồng
thời tập hợp họ lại thành những khối quần chúng lớn hơn và họ thấy rõ lực lượng của
mình. Những cuộc xung đột cá nhân giữa cơng nhân và tư sản ngày càng có tính chất
xung đột giữa hai giai cấp. Dần dần công nhân sử dụng rộng rãi hình thức bãi cơng đấu
tranh bằng cách cùng nhau nghỉ việc trong các cơng xưởng, xí nghiệp. So với hình thức
đập phá máy móc thì các cuộc bãi cơng kinh tế thể hiện sự tiến bộ hơn. Bãi công là một
vũ khí đấu tranh phổ biến của giai cấp vô sản. Nhiều cuộc bãi công cũng đã nổ ra.
Phong trào bãi công đầu tiên diễn ra trong phong trào công nhân Anh đầu thế kỉ
XIX. Chẳng hạn năm 1912 ở Cơlatxgau (Scotland) đã nổ ra một cuộc tổng bãi cơng. Ở
Anh, năm 1836 - 1848 cịn nổ ra phong trào Hiến chương có quy mơ, tổ chức và mang
tính chất chính trị rõ rệt. Quyết liệt hơn, ở Pháp, Đức còn nổ ra những cuộc khởi nghĩa.
10


Năm 1831, công nhân dệt tơ thành phố Li-ông (Pháp) khởi nghĩa đòi tăng lương, giảm giờ
làm và thiết lập chế độ cộng hòa. Họ nêu cao khẩu hiệu "Sống trong lao động, chết trong
chiến đấu". Cuộc khởi nghĩa bị đàn áp. Năm 1834, thợ tơ Li-ông lại khởi nghĩa, đã chiến
đấu quyết liệt với quân chính phủ trong 4 ngày. Năm 1844, công nhân dệt vùng Sơ-lê-din
(Đức) khởi nghĩa, chống lại sự hà khắc của chủ xưởng và điều kiện lao động tồi tệ. Cuộc
khởi nghĩa chỉ cầm cự được 3 ngày rồi bị đàn áp đẫm máu. Những cuộc đấu tranh này
chứng tỏ giai cấp vô sản đang trở thành lực lượng chính trị độc lập, địi hỏi thay đổi sự
thống trị của giai cấp tư sản.
Ngoài sự xuất hiện của hai giai cấp tư sản và vô sản, nền sản xuất cơng nghiệp cịn
gây nên nhiều biến đổi quan trọng về mặt xã hội. Trước hết là khả năng lao động và sáng

tạo của con người được phát huy cao độ, đã làm ra một khối lượng vật phẩm vô cùng
phong phú về số lượng và chất lượng mà trước đó, người ta khơng thể hình dung nổi.
Những thành tựu đó khơng chỉ đạt được trong lĩnh vực cơng nghiệp, máy móc và kĩ thuật
mới cũng được áp dụng vào nông thôn, nâng cao năng suất nông nghiệp. Trong “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản” xuất bản lần đầu tiên năm 1848, Mác và Ăngghen đánh giá
thành tựu của nền sản xuất cơng nghiệp là trong vịng chưa đầy 100 năm, giai cấp tư sản
đã phát triển lực lượng sản xuất nhiều hơn, mạnh mẽ hơn tất cả các thế hệ trước cộng lại.
Chính nguồn hàng dồi dào cùng với sự chun mơn hóa sâu sắc trong lao động làm
cho khơng ai cần phải và có thể sản xuất để hồn tồn tự cung cấp cho mình mà mỗi
người vừa là người sản xuất, vừa là người tiêu dùng hay nói đúng hơn, sản xuất và tiêu
dùng bị tách thành hai nửa trong một con người. Trong nền kinh tế tự nhiên, người sản
xuất tiêu thụ ngay chính sản phẩm do họ làm ra, chỉ có một phần rất nhỏ được đem bán,
cịn đến thời kì này, người ta sản xuất nhằm bán ra thị trường là chính và lại tiêu thụ nhiều
mặt hàng do người khác làm ra. Do vậy, kinh tế ngày càng thị trường hóa, mọi hoạt động
sản xuất ngày càng xã hội hóa, nó thúc đẩy thương nghiệp mở rộng trên quy mô lớn và
nhờ thế, các ngành công nghiệp phát triển. Mối quan hệ tác động qua lại giữa sản xuất và
tiêu dùng, giữa thương nghiệp với công nghiệp tạo nên nguồn động lực kích thích sản
xuất.
Hai là, những quy tắc của sản xuất công nghiệp chi phối tất cả các mặt hoạt động
của kinh tế và xã hội, tất cả đều phải được tiêu chuẩn hóa. Nền giáo dục phải được tổ
chức thành hệ thống theo chương trình thống nhất để tạo nên nguồn nhân lực đủ khả năng
đáp ứng những đòi hỏi của xã hội công nghiệp. Các phương tiện giao thông, thông tin liên
lạc, bưu điện... phải được xây dựng theo những tiêu chuẩn chung để tạo nên mạng lưới
11


nối liền các thành thị, các trung tâm kinh tế trên quy mô quốc gia và quốc tế. Sự tiêu
chuẩn hóa và chun mơn hóa khơng chỉ áp dụng cho công nhân trong nhà máy mà được
thực hiện rộng rãi đối với mọi nhân viên trong công sở, mọi thành viên của guồng máy
kinh tế dù họ là ngƣời bán hàng, người giữ kho hay nhà giao dịch... Nhịp điệu của cuộc

sống được tính tốn theo giờ, theo phút, thời gian của mọi hoạt động được xác định chặt
chẽ: giờ vào lớp và tan trƣờng của học sinh, giờ khám bệnh và điều trị trong bệnh viện,
giờ khởi hành của những phƣơng tiện giao thơng và cả giờ giải trí, nghỉ ngơi... Hầu như
cơng việc nào cũng có những giờ hay những mùa cao điểm của nó nên sự phân bố thời
gian trong nhà máy, trƣờng học, công sở... là điều bắt buộc. Lâu dần phong cách làm việc
khẩn trương, đúng hẹn, chính xác trở thành thói quen trong nếp sống của cư dân xã hội
cơng nghiệp. Nó trái ngược với cách lao động và sinh hoạt lề mề, sai hẹn và đại khái được
tạo nên bởi tốc độ chậm chạp và điều kiện phân tán của nền sản xuất nông nghiệp lâu đời.
Ba là, sự thay đổi về dân số. Có thể lấy những số liệu sau đây để minh chứng cho
tốc độ tăng dân số quá nhanh ở những xứ sở bước vào thời đại cơng nghiệp hóa. Riêng
nước Anh, tỉ lệ tăng dân số năm 1720 là 1%, năm 1750 là 4% và đến năm 1800 là 10%.
Dân số toàn châu u năm 1650 là 100 triệu, một thế kỉ sau là 170 triệu và đến năm 1800
đã vượt quá 200 triệu. Cũng theo tốc độ ấy, các thành phố được mở rộng, số dân thành thị
tăng lên. Ln Đơn năm 1750 có 515 ngàn dân, năm 1801 tăng lên 900 ngàn. Paris trước
cách mạng cũng lên tới 600 - 700 ngàn người.Bộ mặt phố xá, bến cảng, nhà ga, cửa
hàng... đều đổi thay, nhộn nhịp và sầm uất.
Trước sự bùng nổ dân số như vậy, nhà xã hội học người Anh Rôbớt Mantuyt (Robert
Malthus) đã tỏ ra lo ngại khi tính tốn rằng cứ 25 năm, dân số nước Anh, Pháp, Mỹ lại
tăng gấp đôi trong khi sản phẩm nơng nghiệp khơng tăng tương ứng thì sẽ có một khoảng
cách lớn chưa từng thấy giữa nhu cầu lương thực của con người và khả năng của đất đai
đáp ứng nhu cầu đó. Theo ơng, đó chính là nguồn gốc của nạn đói mà lồi người khơng
thể tránh khỏi.
Thực ra, khi đưa ra luận thuyết về nạn nhân mãn, Mantuyt khơng tính đến 3 yếu tố
khi nước Anh (và cả loài người) bước vào thời đại mới. Đó là:
 Làn sóng di cư, nhiều người rời bỏ quê hương để đi khai phá những vùng đất mới
còn hoang vu, đem lại cuộc sống dễ chịu hơn.
 Sự vận dụng những cải tiến quan trọng trong nông nghiệp, đưa kết quả của cách
mạng công nghiệp vào đồng ruộng nhƣ dùng các loại máy nơng cụ, phân bón,
12



thuốc trừ sâu… làm năng suất lương thực tăng nhanh và hạn chế hậu quả của thiên
tai đối với nông nghiệp.
 Việc xuất hiện của máy hơi nước cùng cuộc cách mạng công nghiệp đã tạo nên sự
tăng trưởng kinh tế nói chung giúp lồi người vượt qua những thử thách do sự
bùng nổ dân số gây ra. Trong suốt thế kỉ XIX, dân số Anh tăng gấp 4 lần trong khi
sản xuất quốc gia tăng gấp 14 lần. Tuy nhiên, quan điểm Mantuyt cũng là lời cảnh
báo về sự tăng trưởng dân số không kiềm chế, nhất là đối với những xứ sở lạc hậu,
chưa vượt qua thời kì văn minh nông nghiệp.
Bốn là, trong nền kinh tế nông nghiệp, do năng lực lao động có hạn, nên hầu hết
thành viên gia đình phải cùng nhau canh tác trên đồng ruộng. Điều kiện khách quan đó
tạo nên những gia đình lớn nhiều thế hệ (ơng bà, cha mẹ, cơ chú, dâu rể, cháu chắt...) sống
chung dưới một mái nhà, cùng làm việc như một đơn vị kinh tế, cùng sinh hoạt qy quần
quanh bữa ăn... Từ đó hình thành những xóm làng của một hoặc vài dịng họ lớn.
Nhưng khi nền sản xuất công nghiệp xuất hiện, nhất là khi nó xâm nhập vào nơng
thơn thì nền tảng gia đình lớn bị tan rã dần. Những người trong gia đình làm những cơng
việc khác nhau tại những cơ sở sản xuất riêng rẽ nhiều khi rất xa nhau, được chun mơn
hóa về nghề nghiệp thì gia đình nhiều thế hệ dần dần không tồn tại nữa. Nhiều cuộc di
dân đưa người đến các trung tâm công nghiệp, nhiều người thốt li gia đình để đến làm
việc trong các thành phố. Các chức năng then chốt của gia đình bị chia nhỏ thành những
thể chế mới do nhiều tổ chức xã hội đảm nhiệm. Việc giáo dục trẻ em thuộc về trường
học, việc chữa bệnh thuộc về bệnh viện, việc chăm sóc người già được chuyển sang các
nhà an dưỡng...
Để thích nghi với điều kiện lao động mới, các "gia đình hạt nhân" theo chế độ hơn
nhân một vợ một chồng xuất hiện. Dưới một mái nhà chỉ có bố mẹ cùng một vài ngƣời
con, thay thế cho các gia đình lớn đang dần dần tan vỡ. Các "gia đình hạt nhân" đó trở
thành cấu trúc hiện đại của xã hội mới, tạo nên mối quan hệ mới giữa những người cùng
dịng họ, cùng xóm làng và trong tồn xã hội.
Năm là, yếu tố thị trường chi phối không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà tác động
đến toàn xã hội. Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực như đã trình bày ở trên, nó cũng

gây ra nhiều mặt tiêu cực khác.
Hố ngăn cách giàu nghèo giữa các tầng lớp cư dân trở nên sâu sắc, sự túng bấn của
người này là do sự thừa thãi của kẻ khác. Nguyên tắc tự do, bình đẳng trên thực tế khơng
13


được bảo đảm. Quan hệ xã hội cùng nền tảng đạo lí truyền thống bị vi phạm, cuộc chạy
đua vì đồng tiền nhiều khi vượt quá giới hạn cho phép, làm băng hoại đạo đức xã hội, làm
rối loạn trật tự công cộng và làm tổn hại nhân phẩm trong cộng đồng. Quy luật khắc
nghiệt của cuộc cạnh tranh lạnh lùng, khơng tình nghĩa đã làm phá sản biết bao doanh
nghiệp, loại ra khỏi vòng đua những đối thủ yếu kém và làm tan vỡ biết bao gia đình.
Những hậu quả đó làm nên mặt trái của xã hội thị trường mà việc hạn chế và khắc phục
nó là điều mà nhân loại quan tâm.
Nhưng dẫu sao, những thành tựu của q trình cơng nghiệp hóa ở châu u và Bắc
Mỹ từ cuối thế kỉ XVIII đến giữa thế kỉ XIX đã tạo nên cơ sở vật chất và kĩ thuật mới, tạo
nên ưu thế của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đối với nền sản xuất phong kiến và nhờ vậy
đã hoàn thành về cơ bản trào lưu cách mạng tư sản ở các nước phương Tây. Thắng lợi của
giai cấp tư sản trong cuộc chiến tranh chống chế độ chủ nô ở Mỹ (1861 - 1865), công
cuộc thống nhất nước Đức và thống nhất nước Ý (1871) cùng sự thành công của cuộc vận
động duy tân Minh Trị ở Nhật Bản (1868) đánh dấu bước ngoặt cơ bản của phong trào tư
sản, xác lập sự thắng thế của chủ nghĩa tư bản trên phạm vi thế giới

14


PHẦN 3: NHỮNG PHÁT MINH KHOA HỌC KỸ THUẬT VÀ
TRIẾT HỌC THẾ KỶ XVIII
3.1. Các thành tựu về khoa học kỹ thuật.
3.1.1. Những thành tựu về khoa học
3.1.1.1. Khoa học tự nhiên:


 Về lĩnh vực vật lý:
- Volta và Galvani đã có nhiều đóng góp nghiên cứu về điện, tìm ra điện âm và điện
dương.
Lúc còn nhỏ, Volta theo học tại một ngơi trường dành cho tu sĩ Dịng Tên ở địa
phương. Các giáo viên của ông đã cố gắng thuyết phục ông trở thành một linh mục, trong
khi gia đình lại muốn ơng học luật. Nhưng Volta, vào năm 14 tuổi, biết sở thích thực sự
của mình là vật lý. Giống như nhiều nhà khoa học thời đó, ơng đặc biệt bị mê hoặc bởi
điện.
Volta rời trường sớm và khơng theo đuổi việc học đại học. Ơng tự nghiên cứu tại
phịng thí nghiệm của một người quen và đến năm 18 tuổi, ơng tích cực trao đổi học thuật
qua thư với các nhà khoa học tài năng trong lĩnh vực điện trên khắp châu Âu bao gồm
Abbott Nollet ở Paris (Pháp) và Giambatista Beccaria ở Turin (Ý). Năm 1769, Volta viết
một chuyên luận mang tên “Bàn về sự hấp dẫn của tia lửa điện”, trong đó ơng đã giải
thích về một số hiện tượng tĩnh điện.
Volta bắt đầu giảng dạy tại một trường học ở Como vào năm 1774, nơi ơng tiếp tục
tiến hành các thí nghiệm về điện. Năm 1775, ông đã sáng chế ra bản sinh điện, một dụng
cụ cho phép tạo ra điện tích lớn thơng qua ma sát và có thể truyền điện tích sang các vật
thể khác. Vài năm sau, ông là người đầu tiên phát hiện khí methane (CH4) sủi bọt trong
đầm lầy và có thể cơ lập loại khí này. Volta trở thành giáo sư vật lý tại Đại học Pavia năm
1778.

15


Các thành tựu nói trên nhanh chóng khiến Volta trở thành nhà khoa học nổi tiếng.
Nhưng đóng góp lớn nhất của ông cho khoa học là pin Volta, thứ ông đã sáng chế trong
một cuộc tranh luận khoa học với Luigi Galvani .
Vào năm 1780, Galvani – một nhà giải phẫu học người Ý – tiến hành thí nghiệm
với chân của những con ếch bị cắt rời vẫn đang nối liền với dây cột sống. Galvani treo

chân ếch trên móc làm bằng đồng hoặc sắt. Ông phát hiện chân ếch co giật khi chạm vào
một thanh kim loại khác. Hiện tượng tương tự cũng xảy ra khi treo chân ếch trên hàng rào
kim loại trong một cơn giơng có sấm sét. Sau khi tiến hành nhiều quan sát, Galvani tin
rằng mình đã phát hiện một dạng điện mới, được tạo ra bởi cơ bắp của con ếch. Ơng gọi
nó là “điện sinh vật”. Kết quả nghiên cứu của Galvani được giới khoa học thời bấy giờ
chấp nhận rộng rãi.
Mặc dù Volta ban đầu tỏ ra khá thích thú với những kết luận của Galvani, nhưng
ông cho rằng các cơ của những con ếch chỉ đơn giản là phản ứng với điện, khơng phải tạo
ra điện. Ơng bắt đầu các thí nghiệm để chứng minh Galvani sai, làm dấy lên một cuộc
tranh cãi gây chia rẽ cộng đồng khoa học nước Ý.
Volta miệt mài tìm hiểu nguồn điện đã sinh ra từ đâu để làm chân nhái co giật. Ông
phát hiện dịng điện sinh ra khi có sự tiếp xúc của hai kim loại khác nhau bên trong một
dụng dịch muối. Trong thí nghiệm của Galvani, dung dịch muối tồn tại bên trong cơ thịt
của chân nhái. Ông kết luận, các kim loại tạo ra dịng điện, khơng phải cơ thể của ếch.
Những dụng cụ đo đạc trong thế kỷ 18 khơng thể phát hiện dịng điện yếu, vì vậy Volta –
một người theo chủ nghĩa thực nghiệm – đặt các tổ hợp kim loại khác nhau trên lưỡi của
mình. Kết quả, nước bọt trong miệng ông [giống như mô của những con ếch] dẫn điện và
tạo ra vị đắng khó chịu.
Để chứng minh việc dịng điện tạo ra khơng cần dùng đến mô động vật, Volta đã
xếp chồng những tấm nhỏ hình trịn làm bằng bạc và kẽm lại với nhau thành từng cặp.
Giữa chúng được ngăn cách nhau bằng lớp vải ngâm nước muối. Khi dây kim loại được
nối với cả hai đầu của thiết bị, một dòng điện ổn định đã chạy trong dây dẫn. Volta nhận
thấy các cặp loại kim loại khác nhau tạo ra lượng điện nhiều hay ít, và ơng có thể tăng
cường độ dịng điện bằng cách lắp thêm các tấm kim loại bạc, kẽm. Đây chính là thiết kế
pin đầu tiên của nhân loại được gọi là pin Volta.
Năm 1800, Volta công bố sáng chế của mình về pin [một nguồn cấp điện ổn định]
tại Hội Hoàng gia London trước sự thán phục của nhiều nhà khoa học trên khắp châu Âu.
16



Pin là một thành cơng lớn của Volta. Nó khơng chỉ khiến cộng đồng khoa học đứng
về phía ơng trong cuộc tranh luận với Galvani mà ngay lập tức được cơng nhận là một
thiết bị hữu ích. Năm 1800, William Nicholson và Anthony Carleway sử dụng dòng điện
tạo ra bởi pin để thực hiện thí nghiệm điện phân, tách nước thành hydro và oxy. Vào thập
niên 1830, Michael Faraday sử dụng pin trong những nghiên cứu đột phá về điện từ.
Nhiều nhà phát minh khác cải tiến thiết kế ban đầu của Volta, và chẳng mấy chốc pin đã
được dùng để cung cấp năng lượng cho máy điện báo và chng cửa.
Năm 1801, tại Paris (Pháp), Volta trình bày thí nghiệm tạo ra pin Volta trước sự
chứng kiến của Napoleon Bonaparte, người đã phong hiệu bá tước cho Volta. Không lâu
sau đó, Volta được mời tới Pháp và giảng dạy tại Viện Hàn lâm Khoa học Pháp về các
nghiên cứu điện học. Thậm chí trong nhiều bài giảng của ơng có sự theo dõi của
Napoleon.
Việc sáng chế ra pin mang lại cho Volta tiếng tăm lừng lẫy, nhưng ông dường như
thích một cuộc sống n bình hơn nên sớm từ bỏ hầu hết các nghiên cứu khoa học và
công việc giảng dạy. Ông sống những năm cuối đời trong một ngơi nhà ở vùng nơng thơn.
Ơng qua đời ngày 5/3/1827, thọ 82 tuổi. Sau khi qua đời, chân dung Volta đã được in trên
các tờ tiền và tem để tưởng nhớ đến công lao của ông. Tên ông được dùng để đặt cho đơn
vị điện thế, volt (V).
-

Franklin, giải thích các hiện tượng sấm, sét, phát minh cột thu lôi.

Benjamin Franklin sinh ngày 17 tháng 1 năm 1706 tại Boston. Ông chỉ đến trường một
thời gian ngắn, và sau đó ở nhà để giúp đỡ cha, một người thợ làm nến và xà phịng. Ơng
học nghề in từ anh trai, sau đó bắt đầu giấu tên viết bài cho tờ báo của anh mình. Một
cuộc tranh cãi lớn nổ ra giữa hai anh em, và năm 1723 Franklin bỏ tới Philadelphia. Sau
18 tháng ở London, Franklin định cư tại Philadelphia và thành lập một nhà in riêng của
mình.Đến năm 1748, Franklin đã kiếm đủ tiền để từ giã công việc kinh doanh và tập trung
vào khoa học và sáng chế. Trong lĩnh vực khoa học, ông là gương mặt điển hình của lịch
sử vật lý vì những khám phá của ông và những lý thuyết về điện, ví dụ như các khám phá

về hiện tượng sấm, sét.Trong số những phát minh của ơng có bếp lị Franklin và cột thu
lơi.
-

Anh em nhà Mơgơnfie chế tạo ra kinh khí cầu.

Anh em nhà Montgolfier sinh trưởng tại thị trấn Annonay, thuộc vùng Rhơne-Alpes, phía
đơng nam nước Pháp, là những nhà chun sản xuất giấy trắng đẹp rất có uy tín, gồm
17


người anh Joseph-Michel Montgolfier (1740-1810) vốn rất say mê khoa học, đồng thời
cũng là người u thích tốn học cùng những phát minh sáng chế; còn người em JacquesÉtienne Montgolfier (1745-1799) từng theo học ở Paris, sau làm công tác thiết kế và tham
gia xây dựng những ngôi nhà phức tạp, đồng thời giao du mật thiết với giới trí thức thủ
đô, rồi trở lại với nghề giấy truyền thống của gia đình. Anh em nhà Montgolfier ln mơ
ước cái điều mà nhiều thế hệ xưa nay từng mong mỏi: làm sao để con người có thể… bay
lên được như lồi chim. Thế là từ hơm đó, Joseph và Étienne đã hăng hái bắt tay vào chế
tạo khí cầu. Ho đã tiến hành thí nghiệm với đủ loại khí cầu bằng các chất liệu khác nhau,
không ngừng cải tiếng hệ thống lị đốt phát khí nóng sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Cuối
cùng, sau 11 năm miệt mài nghiên cứu gian khổ và tốn kém, thành công đã đến với hai
anh em nhà Montgolfier.
-

Đầu thế kỉ XVIII, nhà bác học Niu-tơn (Anh) tìm ra thuyết vạn vật hấp dẫn

Nhờ thuyết này mà một loạt vấn đề khoa học được làm sáng tỏ, sâu sắc hơn. Từ lâu,
người ta đã lan truyền câu chuyện Isaac Newton khám phá ra lực hấp dẫn lúc ngồi dưới
gốc cây táo và bị quả táo rơi vào đầu. Câu chuyện này đã trở nên phổ biến đến mức cả
giới khoa học đều biết và được đưa cả vào sách giáo khoa dạy học. Sự thật là khơng có
quả táo nào rơi vào đầu Newton khi ông khám phá ra thuyết vạn vật hấp dẫn cả. Đúng là

Newton thường xuyên đi dạo trong vườn nhà, nơi có một cây táo. Tuy nhiên, khám phá
của ơng về thuyết này là kết quả của quá trình nghiên cứu rịng rã dài ngày chứ khơng
phải tại quả táo tình cờ rơi vào đầu ơng ấy.
-

Giữa thế kỉ XVIII, nhà bác học Lơ-mơ-nơ-xốp (Nga) tìm ra định luật bảo toàn vật
chất và năng lượng cùng nhiều phát minh lớn về vật lí hóa học.

M.V. Lơ-mơ-nơ-xốp sinh ngày 8 – 11 – 1711 tại làng Denisovka (Ác-khan-ghenxcơ) trong một gia đình sống bằng nghề chài lưới. Thuở nhỏ ơng cũng chỉ được nuôi dạy
như bao trẻ nhỏ khác trong làng. Ông cùng cha mẹ đánh cá, làm muối, đóng thuyền…
nhưng trời phú cho ông sự hiếu học phi thường. Mãi tới năm 19 tuổi nhân một chuyến
theo đồn tàu bn đến Moskva, Lô-mô-nô-xốp mới xin được vào học một trường dòng
gọi là Viện Hàn lâm Xlavơ Hy Lạp – La Tinh.
Năm 1735 ông tốt nghiệp và được Viện gửi đến St. Petersburg tiếp tục học tập.
Ngay năm sau 1736 ông lại được cử sang Đức nghiên cứu nghề luyện kim và khai mỏ.
Năm 1741 ông trở về nước Nga với tư cách là một nhà tự nhiên học, nghiên cứu
những vấn đề quan trọng nhất của vật lý và hoá học. Tới năm 1740 Lô-mô-nô-xốp xây
18


dựng thành công thuyết hạt về cấu tạo các chất, nhiều luận điểm đã đi trước cả học thuyết
nguyên tử - phân tử. Ông gọi các nguyên tử là “nguyên tố” và phân tử là “hạt”.
Năm 1744 ông xuất bản tác phẩm “ Suy nghĩ về nguyên nhân của nóng và lạnh”.
Đây là một luận điểm khẳng định rằng nhiệt không phải là “chất lỏng đặc biệt” như người
ta thường nghĩ, mà là kết quả của sự chuyển động của các hạt. Khi sự chuyển động đó
ngừng lại thì q trình sinh nhiệt cũng chấm dứt.
Năm 1750 Tại Viện Hàn Lâm khoa học Nga ông đã cống hiến cho nước Nga phương
pháp điều chế chất màu vô cơ và thuỷ tinh màu từ các nguyên liệu trong nước . Ông cịn
sáng tạo ra “ ngơn ngữ hố học” Nga qua nghiên cứu phân tích các thành phần của các
muối và các chất khoáng.

Qua nhiều năm nghiên cứu khoa học tới năm 1760 ông đưa ra một nhận định tổng
quát về “Định luật bảo toàn chất và chuyển động”: “Tất cả những sự biến đổi xảy ra trong
thiên nhiên đều có bản chất là vật thể này mất đi một lượng bao nhiêu thì vật thể kia được
thêm một lượng bấy nhiêu…” Định luật tổng quát này của tự nhiên áp dụng được ngay
vào các quy tắc của chuyển động. Do những tài năng cống hiến của Lô-mô-nô-xốp không
những trong lĩnh vực hố học ơng cịn được lịch sử đánh giá là một nhà Bác học bách
khoa vĩ đại. Sự nghiệp của ơng có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của xã hội và văn
hố Nga. Ơng cịn là một nhà thơ đã sáng tạo ra những âm luật mới cho thơ ca Nga. Ơng
cũng cịn là một hoạ sĩ đã sáng tạo ra những bức tranh ghép gốm khổng lồ. Và ông cũng
là tác giả của những cuốn sách giáo khoa đầu tiên về lịch sử cổ đại nước Nga, đồng thời là
một nhà địa lý học, địa chất học kiệt xuất, nhà luyện kim và nhà sư phạm thiên tài. Chính
vậy đương thời hay ở thời đại ngày này – hàng trăm năm sau, ông vẫn được gọi là nhà
Bác học đa tài Lơ-mơ-nơ-xốp.

 Về hóa học
Lavoadiê, đã phân tích thành phần của khơng khí, của nước, tìm ra phương pháp
nghiên cứu tổng hợp. Trước thế kỷ 18, hóa học bị chi phối bởi thuyết nhiên tố của Georg
Ernst Stahl và Johann Joachim Becher , tất cả các phản ứng đều được giải thích theo
thuyết nhiên tố và tuy nó bộc lộ rất nhiều sơ hở và mâu thuẫn nhưng vẫn được chấp nhận
vì vẫn chưa có lý thuyết nào thay thế được nó. Cho đến giữa thế kỷ 18 đã xuất hiện những
địn cơng kích thuyết nhiên tố trong đó có nhà bác học Nga Mikhail Vasilyevich
Lomonosov nhưng ông mới chỉ cho thấy những mâu thuẫn của thuyết này mà chưa giải
thích được tại sao lại có các mâu thuẫn đó nhưng nó đã làm cho thuyết nhiên tố không
19


còn đứng vững như trước nữa. Và cuối cùng vào năm 1774 , Lavoisier khi làm thí nghiệm
đốt nóng kim loại trong bình kín đã có một phát minh mới vơ cùng quan trọng đó là khi
biến thành một chất khác, kim loại đã hấp thu một trọng lượng gần bằng 1/5 khơng khí
trong bình. Từ đó, ơng đã đi đến kết luận rằng trong q trình biến đổi hóa học, kim loại

đã hấp thu một thành phần nào đó của khơng khí mà thành phần đó bằng đúng 1/5 trọng
lượng khơng khí chứ khơng hề có chất gì gọi là nhiên tố cả. Và chính thí nghiệm trên của
Lavoisier đã chứng minh được rằng sự cháy là sự kết hợp của kim loại và một thành phần
của khơng khí mà về sau ông gọi là ôxi.

 Về sinh học
- Linê, đưa ra cách phân lọai động thực vật ở trong tác phẩm “Systema naturỉ”.
Tác phẩm Systema naturỉ của ơng là một hệ thống phân loại cây cỏ, động vật và
khoáng vật, giống như một xã hội, bao gồm các vương quốc, các tỉnh, huyện và tá điền.
Trong tác phẩm này, tiêu chí mà ơng sử dụng để phân loại cây cỏ là các đặc điểm
về giới, được phát hiện cuối thế kỷ thứ 17 nhưng vẫn chưa được chấp nhận ở khắp mọi
nơi. Tự nhiên, theo ơng chính là sinh sơi nảy nở. Đó chính là cách để sự sống tồn tại trong
sự đa dạng của nó.
Với động vật, ông phân loại chúng theo nhiều tiêu chí khác nhau, chẳng hạn động
vật bốn chân, hay mammalia - động vật có vú, được đánh giá theo số lượng và vị trí vú
của động vật, bên cạnh những tiêu chí khác.
Với khống sản, cũng tương tự, ơng phân chia theo những đặc điểm bên ngồi và
khơng căn cứ vào thành phần hóa học của nó.
Trong hệ thống này, các cây cỏ, động vật và khống sản được bố trí như trong một
tổ chức của quân đội với các thứ bậc trên dưới, và không giống như Darwin, ông đặt con
người đứng đầu trong cấu trúc thứ bậc đó như là một viên đá quý trên vương miện của
Tạo hóa. Tuy nhiên ông là nhà khoa học đầu tiên thời đó, năm 1758, đã đưa ra một kết
luận nhạy cảm và mạnh mẽ rằng loài người phải được đặt cùng thứ tự với đười ươi, thuộc
họ động vật linh trưởng.
Systema naturae lần đầu tiên ra đời chỉ có 12 trang. Sau đó, trong thời gian từ năm
1766 đến 1768, Linê đã phát triển cơng trình của mình lên thành 2.300 trang với tất cả là
15.000 lồi động thực vật và khống sản khác nhau. Phân loại và đặt tên cho từng loại
20



trên quả là một thành tích khổng lồ và khó có thể hiểu nổi. Nhưng Linê hiểu rằng cơng
việc của ông mới chỉ là sự khởi đầu nhỏ bé. Đến cuối thể kỉ 18, con số dự tính các lồi
động thực vật có trên Trái Đất là khoảng 30-40 triệu khác nhau và hầu hết các lồi đó sẽ
khơng bao giờ được vẽ ra hay được đặt tên.
-

Buyphông đã xây dựng vườn bách thảo để làm trung tâm nghiên cứu.

Trong khi Linnaeus, người sinh cùng năm, tự đặt cho mình nhiệm vụ tạo ra khía cạnh
chính thức của khoa học, hệ thống học và phân loại, thì Buyphơng cố gắng phản đối
phương pháp mơ tả bản chất và ngoại hình của động vật với phong tục và lối sống của
chúng, và từ đó khơi dậy sự quan tâm của những người có học đối với thế giới động vật.
Theo đó, kế hoạch của ông là thu thập các dữ kiện riêng lẻ từ tất cả các ngành của khoa
học tự nhiên và sử dụng chúng để làm sáng tỏ hệ thống của tự nhiên. Với sự nhiệt huyết
đó Buyphơng đã xây dựng vườn bách thảo để làm trung tâm nghiên cứu.
Hacvây (William Harvey), một nhà sinh lí người Anh đã nghiên cứu rất nhiều về
hệ tuần hoàn của chim, cá, ếch. Ơng đã mơ tả về hệ tuần hồn máu trong cơ thể người qua
quyển sách Tiến hành giải phẫu đối với sự chuyển động của tim và máu trong cơ thể loài
vật.
3.1.1.2. Khoa học xã hội:
Các ngành khoa học xã hội cũng có những bước tiến mạnh mẽ.
Ở Đức, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng được xây dựng tương đối hoàn thiện
với các đại biểu là Phoi-ơ-bách và Hê-ghen. Chủ nghĩa duy vật là một trường phái triết
học, một thế giới quan, một hình thức của chủ nghĩa triết học nhất nguyên cho rằng vật
chất là chất cơ bản trong tự nhiên, và tất cả mọi thứ, bao gồm cả trạng thái tinh thần và ý
thức, là kết quả của sự tương tác vật chất. Phương pháp biện chứng của Hegel là phương
pháp suy ngẫm về thế giới. Kết quả của phương pháp này là hình ảnh suy tư chỉnh thể về
thế giới chứ không phải là bức tranh thế giới thu được nhờ kết quả của khoa học cụ thể.
Ở Anh, chính trị kinh tế học tư sản ra đời. Người đại diện đầu tiên và được xem là
ông tổ của kinh tế cổ điển là William Petty (1623 – 1687), người Anh. Là một gương mặt

điển hình của nước Anh vào thế kỷ XVII, William Petty là một trong những người đa tài
mà người ta khó có thể hình dung sự hiện diện của một kiểu người như vậy trong thế giới
đương đại, được đặc trưng bởi một trình độ chun mơn hóa cực cao về khoa học và nghề
nghiệp. Ông là thủy thủ, bác sĩ, nhà phẫu thuật, nhạc sĩ, doanh nhân, nghị sĩ, nhà đầu cơ,
nhà quân sự, nhà toán học, nhà thơ, nhà họa đồ, và trong một số phát minh của ông có
21


×