nghiên cứu - trao đổi 
40
 T ạp chí luật học số 2/200
4
 
 
 
 
Ths. NGuyễn Văn Hơng * 
1. S cn thit phi hon thin cỏc quy 
nh ca lut hỡnh s v bo v tr em 
Trong cuc u tranh phũng chng ti 
phm núi chung, phũng chng cỏc ti xõm 
phm i tng l tr em núi riờng, lut 
hỡnh s cú vai trũ c bit quan trng.  
bo v tr em cú hiu qu v trng tr 
nghiờm khc hnh vi phm ti xõm hi tr 
em, lut hỡnh s cn cú nhng quy nh 
riờng phự hp vi tớnh cht, mc  nguy 
him ca hnh vi phm ti; phự hp vi ũi 
hi ca xó hi v bo v tr em. 
Nhng nm qua, cựng vi vic ban hnh 
BLHS nm 1999, cỏc c quan cú thm 
quyn cng ó cú nhiu vn bn hng dn 
ỏp dng BLHS. Tuy nhiờn, cú mt s quy 
nh ca lut hỡnh s v bo v tr em cũn 
cha chun xỏc v khụng phự hp vi din 
bin thc t ca tỡnh hỡnh ti phm. Cỏc ti 
phm xõm hi tr em cú din bin phc tp, 
ngy cng xut hin nhiu hnh vi phm ti 
vi nhng phng phỏp th on mi, tinh 
vi xo quyt v nguy him hn trc. iu 
ú ó lm cho mt s quy nh ca lut hỡnh 
s khụng ỏp ng c yờu cu lm c s 
phỏp lớ cho hot ng u tranh phũng chng 
ti phm v bo v tr em. Vỡ vy, vic sa 
i, b sung cỏc quy nh ca lut hỡnh s v 
bo v tr em l ht sc cn thit, nú s gúp 
phn to c s phỏp lớ vng chc  hot 
ng u tranh phũng chng ti phm v bo 
v tr em t hiu qu cao hn. 
 nhn thc rừ nhng bt cp v s 
cn thit phi sa i, b sung, hon thin 
cỏc quy nh ca lut hỡnh s v bo v tr 
em, chỳng tụi xin nờu mt s vn  sau: 
Th nht, thc tin u tranh phũng 
chng ti phm nhng nm gn õy cho 
thy ó xut hin nhiu v bt cúc tr em 
m mc ớch ca ngi phm ti l  xit 
n,  ũi c khon n ch khụng phi 
 chim ot tr em. Ngi phm ti bt 
cúc tr em v gi nn nhõn  mt ni no 
ú  ộp cha m hoc ngi thõn ca a 
tr phi thanh toỏn khon n (quỏ hn) m 
h khụng chu thanh toỏn. Hnh vi bt cúc 
tr em xõm phm nghiờm trng quyn tr 
em v nhõn phm, danh d, sc kho; xõm 
phm nghiờm trng cuc sng bỡnh thng, 
s hc tp, rốn luyn ca tr em (cú nhiu 
tr em b bt, nht, giam gi nhiu 
ngy) 
(1)
 Gn õy cũn xut hin v ỏn c 
bit nghiờm trng, ngi phm ti bt cúc 
tr em v yờu sỏch cho hn c trn 
thoỏt (ngi phm ti l phm nhõn ang 
phi chp hnh hỡnh pht trong tri ci 
to).
(2)
 BLHS khụng quy nh ti bt cúc 
* Ging viờn Khoa lut hỡnh s 
 Trng i hc lut H Ni   
nghiªn cøu - trao ®æi 
T¹p chÝ luËt häc sè 2/2004 41 
trẻ em” nên khi hành vi này (bắt cóc trẻ em) 
xảy ra thì cũng chỉ có thể truy cứu TNHS 
đối với người phạm tội về tội chiếm đoạt trẻ 
em (Điều 120 BLHS). Điều này là một bất 
hợp lí. 
Thứ hai, trong xã hội những năm gần 
đây đã xuất hiện hàng loạt vụ phạm tội 
cướp, cưỡng đoạt, cướp giật tài sản của trẻ 
em. Người phạm tội lợi dụng trẻ em do tuổi 
nhỏ, sức yếu khó có điều kiện tự bảo vệ tài 
sản để tấn công chiếm đoạt tài sản của 
nhiều trẻ em.
(3)
 Hành vi phạm tội chiếm 
đoạt tài sản của trẻ em rõ ràng có tính nguy 
hiểm hơn so với những trường hợp phạm tội 
bình thường. Trong BLHS hiện nay, tình 
tiết “phạm tội đối với trẻ em” chưa được 
quy định là dấu hiệu định khung hình phạt 
tăng nặng của các tội như cướp tài sản, 
cưỡng đoạt tài sản, cướp giật tài sản 
Những trường hợp này nếu chỉ áp dụng tình 
tiết “phạm tội đối với trẻ em” là tình tiết 
tăng nặng TNHS (điểm h khoản 1 Điều 48 
BLHS) thì không phù hợp với mức độ nguy 
hiểm của hành vi phạm tội. 
Thứ ba, sự bất cập của hệ thống các quy 
phạm pháp luật hình sự về bảo vệ trẻ em 
còn thể hiện ở chỗ: Các văn bản hướng dẫn, 
giải thích của các cơ quan có thẩm quyền về 
các quy định của BLHS có liên quan đến 
đối tượng bị xâm hại là trẻ em còn chưa kịp 
thời, còn thiếu và có những hướng dẫn chưa 
chuẩn xác.
(4) 
Trong BLHS, các tội có đối tượng bị 
xâm hại là trẻ em hoặc là người chưa thành 
niên (bao gồm trẻ em) như tội dâm ô đối 
với trẻ em (Điều 116); tội mua bán, đánh 
tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (Điều 120); tội 
vi phạm quy định về sử dụng lao động trẻ 
em (Điều 228); tội dụ dỗ, ép buộc hoặc 
chứa chấp người chưa thành niên phạm 
pháp (Điều 252) đều có những dấu hiệu 
“gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả 
rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt 
nghiêm trọng” được quy định là dấu hiệu 
định khung hình phạt tăng nặng. Những dấu 
hiệu này cần phải được hướng dẫn cụ thể, 
nếu không sẽ dẫn đến việc nhận thức cũng 
như áp dụng không thống nhất, ảnh hưởng 
không nhỏ đến việc giải quyết các vụ án 
cũng như chất lượng xét xử của toà án. 
Các cơ quan có thẩm quyền như 
TANDTC, VKSNDTC, Bộ công an, Bộ tư 
pháp đã có nhiều cố gắng trong việc giải 
thích, hướng dẫn áp dụng BLHS. Tuy 
nhiên, có một số vấn đề các cơ quan nói 
trên hướng dẫn, giải thích còn chưa chuẩn 
xác, thậm chí có những hướng dẫn trái với 
quy định của BLHS.
(5) 
2. Hướng hoàn thiện các quy định của 
luật hình sự về bảo vệ trẻ em 
Hoàn thiện các quy định của luật hình 
sự về bảo vệ trẻ em là yêu cầu của thực tiễn 
đấu tranh phòng chống tội phạm và bảo vệ 
trẻ em ở nước ta hiện nay. Để góp phần 
hoàn thiện các quy định của luật hình sự về 
bảo vệ trẻ em, chúng tôi xin nêu một số đề 
xuất sau: 
a. Bổ sung tội danh mới: Tội bắt cóc trẻ 
em làm con tin 
Trong BLHS, tội chiếm đoạt trẻ em 
(Điều 120 BLHS) chưa bao quát được 
trường hợp bắt cóc trẻ em. Hành vi chiếm 
đoạt trẻ em là “hành vi tách chuyển trái 
phép đứa trẻ khỏi sự quản lí của gia đình   
nghiên cứu - trao đổi 
42
 T ạp chí luật học số 2/200
4 
hoc ngi qun lớ hp phỏp v thit lp s 
qun lớ ú cho mỡnh hoc ngi khỏc bng 
nhng th on khỏc nhau .
(6)
 Trng 
hp ngi phm ti bt cúc tr em nhm 
mc ớch bin a tr ca ngi khỏc 
thnh ca mỡnh mt cỏch trỏi phộp (bt cúc 
v lm con nuụi hoc bt cúc tr em v  
bỏn,  a ra nc ngoi ) thỡ ú chớnh l 
hnh vi chim ot tr em l mt trong 3 
dng hnh vi phm ti ca ti phm c 
quy nh ti iu 120 BLHS. Cũn hnh vi 
bt cúc tr em l hnh vi cỏch li trỏi phộp 
a tr khi gia ỡnh hoc ngi qun lớ 
hp phỏp nhm nhng mc ớch khỏc nh 
lm cho cha m hoc ngi thõn ca a tr 
hong s  tr thự h hoc  khng ch 
buc cha m a tr phi lm hoc khụng 
c lm mt vic gỡ ú nh thanh toỏn 
khon n, khụng c khai bỏo, t giỏc 
hoc  yờu sỏch vi ngi khỏc nh yờu 
sỏch c trn thoỏt thỡ thc cht ch l 
hnh vi bt cúc tr em lm con tin vi ỳng 
ngha ca t ny m thụi. 
BLHS khụng quy nh ti bt cúc tr 
em hay ti bt cúc tr em lm con tin nờn 
trng hp bt cúc tr em nhng khụng 
nhm chng chớnh quyn nhõn dõn, khụng 
nhm chim ot ti sn, khụng nhm 
chim ot a tr m ch nhm cỏc mc 
ớch khỏc nh  ũi n,  c trn thoỏt, 
 uy hip ngi thõn ca a tr hoc 
ngi khỏc thỡ u b xột x v ti chim 
ot tr em (iu 120 BLHS). iu ny 
khụng hp lớ vỡ gia hnh vi chim ot tr 
em v hnh vi bt cúc tr em (nhm nhng 
mc ớch khỏc khụng phi l chim ot tr 
em) cú s khỏc nhau. Vic truy cu TNHS 
ngi bt cúc tr em  xit n,  yờu 
sỏch c trn thoỏt hoc  t nhng 
mc ớch khỏc (khụng phi l chim ot 
a tr) v ti chim ot tr em l khụng 
phự hp vi tớnh cht nguy him ca hnh 
vi phm ti cng nh ý nh ch quan ca 
ngi phm ti. Ngi phm ti trong 
nhng trng hp ny khụng cú mc ớch 
chim ot (tr em) khi thc hin hnh vi 
bt cúc a tr. 
Chớnh vỡ vy, chỳng tụi  xut nờn tỏch 
mt s trng hp c bit ca hnh vi 
phm ti chim ot tr em v quy nh 
thnh mt ti danh riờng: Ti bt cúc tr em 
lm con tin. 
Nh vy, v c cu iu 120 BLHS hin 
nay vn gi nguyờn v ch b sung thờm 
iu 120a ti bt cúc tr em lm con tin. 
Chỳng tụi xin mụ t ti danh ny nh sau: 
iu 120a. Ti bt cúc tr em lm con tin. 
1. Ngi no vỡ ng c ũi n, tr thự 
hoc ng c cỏ nhõn khỏc m bt cúc tr em 
lm con tin thỡ b pht tự t 2 nm n 7 nm. 
2. Phm ti thuc mt trong cỏc trng hp 
sau õy thỡ b pht tự t 5 nm n 12 nm: 
a. Cú t chc; 
b. S dng v khớ, phng tin hoc th 
on nguy him khỏc; 
c. i vi nhiu tr em; 
d. Gõy thng tớch hoc gõy tn hi cho 
sc kho ca tr em m t l thng tt t 
11% n 30%; 
e. Gõy hu qu nghiờm trng; 
f. Tỏi phm nguy him. 
3. Phm ti thuc mt trong cỏc trng hp 
sau õy thỡ b pht tự t 10 nm n 15 nm. 
a. Gõy thng tớch hoc gõy tn hi cho   
nghiªn cøu - trao ®æi 
T¹p chÝ luËt häc sè 2/2004 43 
sức khoẻ của trẻ em mà tỉ lệ thương tật từ 
31% đến 60%; 
b. Gây hậu quả rất nghiêm trọng. 
4. Phạm tội thuộc một trong các trường 
hợp sau đây thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 
năm hoặc tù chung thân: 
a. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho 
sức khoẻ của trẻ em mà tỉ lệ thương tật từ 
61% trở lên hoặc làm chết trẻ em; 
b. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. 
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền 
từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng 
hoặc phạt quản chế từ 1 năm đến 5 năm. 
b. Bổ sung dấu hiệu định khung hình 
phạt tăng nặng “phạm tội đối với trẻ em” 
Bảo vệ trẻ em là bảo vệ tính mạng, sức 
khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tự do, tài sản và 
các lợi ích khác của trẻ em. Trong thực tế, 
trẻ em có thể là người không có nhiều tài 
sản hoặc tài sản có giá trị không lớn nhưng 
tài sản mà gia đình trang bị cho các em sử 
dụng hàng ngày như xe đạp, đồng hồ, quần 
áo, một số em có đồ trang sức như nhẫn 
vàng, dây chuyền có nhiều thứ có giá trị 
trên 500 nghìn đồng. Trẻ em do tuổi nhỏ, 
sức yếu, nhận thức còn hạn chế nên khi bị 
những kẻ cướp, cưỡng đoạt tài sản tấn 
công thì các em khó có điều kiện chống trả 
để bảo vệ tài sản cũng như tính mạng, sức 
khoẻ của mình. Hơn nữa, nhiều trường hợp, 
người phạm tội đã lợi dụng đặc điểm bất lợi 
của trẻ em (tuổi nhỏ, sức yếu) để thực hiện 
tội phạm được dễ dàng. Hành vi phạm tội 
chiếm đoạt tài sản của trẻ em trong những 
trường hợp này thể hiện tính nguy hiểm cao 
hơn và do đó cần phải bị trừng trị nghiêm 
khắc hơn. 
Trong BLHS, dấu hiệu “phạm tội đối 
với trẻ em”, “phạm tội đối với người chưa 
thành niên” (bao gồm trẻ em) đã được quy 
định là dấu hiệu định khung hình phạt tăng 
nặng của nhiều tội phạm. Tuy nhiên, các tội 
xâm phạm sở hữu như tội cướp, tội cướp 
giật, tội cưỡng đoạt tài sản thì tình tiết 
“phạm tội đối với trẻ em” còn chưa được 
quy định là dấu hiệu định khung hình phạt 
tăng nặng. Các tội phạm này trong những 
năm gần đây xảy ra khá nhiều, với nhiều vụ 
án rất nghiêm trọng, thậm chí còn hình 
thành các băng nhóm chuyên chiếm đoạt tài 
sản của trẻ em.
(7)
 Để đấu tranh phòng chống 
tội phạm và bảo vệ trẻ em có hiệu quả, theo 
chúng tôi cần bổ sung thêm tình tiết “phạm 
tội đối với trẻ em” là dấu hiệu định khung 
hình phạt tăng nặng của tội cướp tài sản 
(Điều 133), tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 
135), tội cướp giật tài sản (Điều 136) và tội 
lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139) BLHS. 
c. Cơ quan có thẩm quyền cần ban hành 
văn bản hướng dẫn, giải thích và sửa đổi 
những hướng dẫn không phù hợp để các 
quy định của luật hình sự Việt Nam về bảo 
vệ trẻ em có tính khả thi 
Hệ thống hoàn chỉnh các quy định của 
luật hình sự với những quy định rõ ràng, cụ 
thể, chặt chẽ chính là đòi hỏi của Nhà nước 
và xã hội hiện nay. Tuy nhiên, BLHS không 
thể quy định cụ thể, chi tiết tất cả các vấn 
đề về tội phạm và TNHS của người phạm 
tội mà chỉ quy định một cách khái quát. Do 
vậy, hệ thống hoàn chỉnh các quy định của 
luật hình sự phải bao gồm quy định của 
BLHS và các văn bản hướng dẫn, giải thích 
BLHS. Hơn nữa, do diễn biến phức tạp của   
nghiªn cøu - trao ®æi 
44
 T ¹p chÝ luËt häc sè 2/200
4 
tình hình tội phạm, sự thay đổi nhanh chóng 
của những điều kiện kinh tế xã hội, các vấn 
đề đã được hướng dẫn, giải thích nhưng 
không còn phù hợp thì phải có những 
hướng dẫn, giải thích mới phù hợp để việc 
áp dụng BLHS được thống nhất. Đối với 
các tội xâm phạm đối tượng trẻ em, các cơ 
quan có thẩm quyền cần sớm hướng dẫn, 
giải thích những vấn đề sau: 
Một là, cần sớm hướng dẫn, giải thích dấu 
hiệu hậu quả nghiêm trọng, hậu quả rất 
nghiêm trọng, hậu quả đặc biệt nghiêm trọng 
được quy định là dấu hiệu định khung hình 
phạt của các tội: Tội dâm ô đối với trẻ em 
(Điều 116), tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm 
đoạt trẻ em (Điều 120); tội vi phạm quy định 
về sử dụng lao động trẻ em (Điều 228); tội dụ 
dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành 
niên phạm pháp (Điều 252). 
Hậu quả nghiêm trọng của tội dâm ô đối 
với trẻ em không giống như hậu quả 
nghiêm trọng của tội mua bán trẻ em hay 
tội dụ dỗ người chưa thành niên phạm 
pháp. Vậy, hậu quả nghiêm trọng, hậu quả 
rất nghiêm trọng hay hậu quả đặc biệt 
nghiêm trọng của những tội phạm này bao 
gồm những nội dung gì? Mức độ thiệt hại 
như thế nào thì được coi là gây hậu quả 
nghiêm trọng, hậu quả rất nghiêm trọng, 
hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Đây là vấn 
đề cần được các cơ quan có thẩm quyền 
hướng dẫn, giải thích cụ thể để việc nhận 
thức và áp dụng luật được thống nhất. 
Tuy nhiên, đối với tội vi phạm quy định 
về sử dụng lao động trẻ em, các cơ quan có 
thẩm quyền cần thận trọng khi hướng dẫn, 
giải thích về dấu hiệu “gây hậu quả nghiêm 
trọng”. Theo các hướng dẫn trước đây và 
mới gần đây như Nghị Quyết của Hội đồng 
thẩm phán TANDTC số 02/2003/NQ-HĐTP 
ngày 17/4/2003
(8)
 thì dấu hiệu “gây hậu quả 
nghiêm trọng” thường được hướng dẫn là: 
Làm chết người, gây thương tích hoặc gây 
tổn hại cho sức khoẻ gây thiệt hại về tài 
sản Theo chúng tôi, sẽ là không hợp lí nếu 
quan niệm hành vi vi phạm quy định về sử 
dụng lao động trẻ em “gây hậu quả nghiêm 
trọng” lại bao gồm cả việc gây thiệt hại về 
tính mạng của trẻ em. Trường hợp vi phạm 
quy định về sử dụng lao động trẻ em gây 
hậu quả chết người phải coi là “gây hậu quả 
rất nghiêm trọng” và áp dụng khoản 2 Điều 
228 BLHS. 
Hai là, TANDTC cần có văn bản hướng 
dẫn lại hoặc sửa chữa mục 26 (phần hình 
sự) trong văn bản “Giải đáp một số vấn đề 
về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành 
chính và tố tụng” ngày 1/2/1999 về tình tiết 
“phạm tội đối với trẻ em”. Bởi vì, “Phạm 
tội đối với trẻ em”, theo chúng tôi không 
chỉ là tình tiết tăng nặng TNHS “đối với 
người phạm tội trong trường hợp cố ý xâm 
phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, 
danh dự của trẻ em” mà là tình tiết tăng 
nặng TNHS đối với người phạm tội cố ý 
xâm hại đối tượng là trẻ em nói chung. Nó 
được áp dụng không chỉ đối với hành vi 
phạm tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, 
nhân phẩm, danh dự mà còn được áp dụng 
đối với cả những tội xâm phạm sở hữu, xâm 
phạm sự phát triển lành mạnh của trẻ em về 
thể chất và tâm lí BLHS đã quy định tình 
tiết “phạm tội đối với trẻ em” là dấu hiệu 
định khung hình phạt của tội bắt cóc nhằm   
nghiªn cøu - trao ®æi 
T¹p chÝ luËt häc sè 2/2004 45 
chiếm đoạt tài sản (Điều 134), tội dụ dỗ, ép 
buộc hoăc chứa chấp người chưa thành niên 
phạm pháp (Điều 252 BLHS) nên việc giới 
hạn phạm vi áp dụng tình tiết “phạm tội đối 
với trẻ em” chỉ là tình tiết tăng nặng TNHS 
đối với các tội xâm phạm tính mạng sức 
khoẻ, nhân phẩm, danh dự như hướng dẫn 
trong văn bản đã nêu trên là không hợp lí. 
Ngoài ra, các cơ quan có thẩm quyền 
cần hướng dẫn cụ thể về vấn đề nhận thức, 
thái độ của người phạm tội về tuổi của 
người bị hại là trẻ em. Người phạm tội có 
đòi hỏi phải biết đối tượng của hành vi của 
mình là trẻ em hay không? Theo quan điểm 
của chúng tôi, mặc dù BLHS chỉ quy định 
là “phạm tội đối với trẻ em” nhưng quy 
định này cũng đã thể hiện người phạm tội 
phải nhận thức được đối tượng của hành vi 
phạm tội là trẻ em. Tình tiết “phạm tội đối 
với trẻ em” vừa thể hiện biểu hiện khách 
quan là hành vi phạm tội tác động vào đối 
tượng trẻ em, vừa thể hiện thái độ chủ quan 
là người phạm tội nhận thức được đối tượng 
của hành vi phạm tội là trẻ em. Chính vì 
vậy, để đảm bảo nguyên tắc lỗi, các cơ quan 
có thẩm quyền cần giải thích tình tiết 
“phạm tội đối với trẻ em” theo hướng là: 
Khi thực hiện hành vi phạm tội người phạm 
tội biết được đối tượng mà hành vi phạm tội 
tác động vào là trẻ em. 
Ba là, Bộ tư pháp, Bộ công an, TANDTC, 
VKSNDTC cần ban hành ngay văn bản sửa 
đổi mục 6, Thông tư số 01/2001/TTLB ngày 
25/9/2001 hướng dẫn áp dụng quy định tại 
chương XV “các tội xâm phạm chế độ hôn 
nhân và gia đình” của BLHS năm 1999. 
Văn bản này có hướng dẫn: “ trong mọi 
trường hợp hành vi loạn luân được thực 
hiện đối với trẻ em dưới 13 tuổi, thì người 
thực hiện hành vi loạn luân phải bị truy cứu 
TNHS về tội hiếp dâm trẻ em (điểm a khoản 
2 Điều 112 BLHS)”. Nội dung của hướng 
dẫn này hoàn toàn trái với quy định tại 
khoản 4 Điều 112 BLHS: “Mọi trường hợp 
giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là 
phạm tội hiếp dâm trẻ em và người phạm 
tội bị phạt tù từ ”.  
(1).Xem: - Đặc san báo CATP HCM ra ngày 29/3/1997, 
tr. 40 
(2). Xem: - Báo CAND ngày 4/3/2003, tr.8; 
(3). Xem: - Báo CAND số 1535 ngày 16/1/2003, tr.12. 
 - Báo CAND số 923 ngày 30/6/2000, tr.6. 
 - Báo ANTĐ số 480 ra ngày 2/8/2000, tr.9. 
 - Báo ANTĐ số1090 ra ngày 23/10/2003, tr.2. 
 - Báo Giáo dục và Thời đại (số đặc biệt tháng 
năm), ngày 17/5/2003, tr.12. 
(4).Xem: Mục 26 (phần hình sự) văn bản "Giải đáp 
một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động 
hành chính và tố tụng" ngày 1/2/1999 của Tòa án 
nhân dân tối cao. 
(5).Xem: Mục 6, Thông tư số 01/2001/TTLB ngày 
25/9/2001 của Bộ tư pháp, Bộ công an, Toà án nhân 
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. 
(6)Xem: Trường đại học luật Hà Nội (2002), "Giáo trình 
luật hình sự Việt Nam", Nxb. Công an nhân dân, H, 
tr.337. 
(7). Xem: - Báo CAND số 1535 ngày 16/1/2003, tr.12. 
 - Báo CAND số 923 ngày 30/6/2000, tr.6. 
 - Báo ANTĐ số 480 ra ngày 2/8/2000, tr.9. 
 - Báo Giáo dục và Thời đại (số đặc biệt tháng 
năm), ngày 17/5/2003. 
(8). Văn bản này chỉ hướng dẫn áp dụng tình tiết “gây hậu 
quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây 
hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” quy định tại Điều 202, 
245 BLHS.