BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HĨA
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ThS. NCS. Đào Vĩnh Hợp
ThS. NCS. Võ Thị Ánh Tuyết
Tóm tắt
Thành phố Hồ Chí Minh từng được mệnh danh là hịn ngọc Viễn Đơng khơng
chỉ bởi sự giàu có, phồn vinh của một vùng đất cửa sông, trung tâm của đồng bằng
Nam Bộ mà còn chứa đựng sức sống văn h a mãnh liệt, hiện đại nhưng cũng giàu
bản sắc. Trước bối cảnh phát triển mạnh mẽ và toàn diện như hiện nay, nhằm hướng
đến mục tiêu phát triển bền vững vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nói chung và
Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, các giá trị di sản văn h a của Thành phố cần
được khai thác phục vụ cho sự phát triển chung của Thành phố. Trong quản lý, bảo
tồn và phát huy tốt các di sản văn h a trên địa bàn Thành phố, quản trị địa phương
giữ vai trị đặc biệt quan trọng.
Từ khóa: quản trị địa phương, bảo tồn, phát huy, di sản, thành phố Hồ Chí
Minh.
1. Đặt vấn đề
So với những thành phố khác nhƣ Hà Nội, Hải Phịng, Huế, Đà Nẵng… thì
Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố có tuổi đời cịn khá non trẻ. Nó chỉ mới
đƣợc định hình vào cuối thế kỷ XVII, tức mới trải qua đƣợc hơn 300 năm. Thế nhƣng
lịch sử của thành phố còn dài hơn về quá khứ rất nhiều, nơi nó bắt đầu từ thời tiền sử
cách nay khoảng 3500 - 4000 năm. Do đó lịch sử 300 năm chỉ là một thời đoạn của
thời trung đại khi mà ngƣời Việt, ngƣời Hoa làm nên diện mạo mới cho vùng đất này.
Nhƣng chỉ tính tới lịch sử 300 năm, những di sản của thành phố cũng thật rực rỡ
những đình chùa, miếu, mạo, lăng tẩm, những nhà cổ, dinh thự biệt thự, những làng
nghề, phố nghề, khơng gian lễ hội, văn hóa không hề thua kém về qui mô và tầm cỡ
đặc sắc so với các địa phƣơng khác.
Thế nhƣng thành phố vẫn chỉ là thành phố của kinh tế là chủ yếu, những gam
màu văn hóa cỏ vẻ ―chìm‖ đi và ngƣời dân thành phố vẫn nhƣ luôn ―khát‖ những giá
trị văn hóa đích thực. Đây rõ ràng là dấu hỏi rất lớn cho các nhà quản lý của thành phố
Hồ Chí Minh, phải chăng thành phố đã quá say sƣa với cơn cuồng quay của những
―bùng nổ kinh tế‖?! Trong những năm gần đây, cịn xảy ra tình trạng mất mát di sản
vô cùng đáng lo ngại, những mộ cổ bị san ủi, những nhà cổ biệt thự bị tháo dỡ, những
cơng trình lịch sử bị xóa sổ chỉ với một mục đích đó là xây dựng các trung tâm thƣơng
mại và cao ốc để kinh doanh. Việc xây dựng đó là cần thiết cho thành phố nhƣng có
cần thiết đến mức phải đánh đổi nhƣ vậy hay khơng? Có lựa chọn nào khác hay
không? Tất cả những lý do đó đều đặt ra những vấn đề cho các nhà lãnh đạo và quản
lý của địa phƣơng, tức là vấn đề quản trị địa phƣơng một cách cấp thiết.
ThS. NCS. Giảng viên Trƣờng ĐH Sài Gòn.
ThS. NCS. Giảng viên Trƣờng ĐH KHXH&NV-ĐHQG HCM.
96
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Tổng quan về các di sản văn hóa hiện tồn trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh
2.1.1. Hệ thống di sản văn hóa tiền - sơ sử
Những dấu vết sớm nhất chứng minh sự hiện diện của con ngƣời ở vùng đất
này mà khảo cổ học đã tìm thấy đƣợc (tính cho đến nay), có niên đại khoảng 3.500
năm cách ngày nay. Những di tích và di vật này, có niên đại từ giai đoạn sơ kỳ thời
đại đồ đồng cho đến những thế kỷ sau cơng ngun. Các di tích phân bố từ những
vùng đất cao nhƣ Quận 12, Thủ Đức, Hóc Mơn cho đến những vùng đồi gị ven sơng
nhƣ Quận 2, Quận 9, Quận 1 và xuống những vùng đất thấp trũng, cận biển nhƣ Bình
Chánh, Cần Giờ. Đến nay, trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đã phát hiện đƣợc
hơn 30 di chỉ khảo cổ và vết tích khảo cổ có mặt trong vùng nội và ngoại thành
Thành phố Hồ Chí Minh.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi xây dựng các cơng trình thuộc khu vực
Quận 1 ngày nay, ngƣời Pháp đã phát hiện nhiều hiện vật khảo cổ nhƣ rìu đá, cuốc
đá ở khu vực Thảo Cầm Viên, Thƣ viện Khoa học Tổng hợp, Bảo tàng Thành phố…
Đã có 8 di tích lớn đƣợc tiến hành khai quật: Bến Đò (Quận 9), Long Bửu (Quận 9),
Hội Sơn (Quận 9) Rỏng Bàng (huyện Hóc Mơn), Giồng Cá Vồ, Giồng Am (huyện
Cần Giờ), chùa Gò – Phụng Sơn Tự (Quận 11), Lò Gốm cổ Hƣng Lợi (Quận 6)1.
Trong số đó, tại Quận 2, Gị Qo (Gị Cát) đã phát hiện đƣợc nhiều mảnh gốm, rìu
đá và rìu đồng lƣỡi xịe có niên đại cách nay khoảng 2500 năm; Quận 9 có di tích
khảo cổ Bến Đị, Hội Sơn, Long Bửu có niên đại cách nay khoảng 2500 năm đến
3000 năm; Quận 11 tại Chùa Gò, đã phát hiện đƣợc các dấu tích khảo cổ liên quan
văn hóa Ĩc Eo; Tại huyện Hóc Mơn và Quận 12 có di tích khảo cổ Rỏng Bàng và Gò
Sao thuộc thời đại Kim khí cách nay khoảng 2500 năm; Huyện Bình Chánh, khu vực
nông trƣờng Lê Minh Xuân cũng đã phát hiện đƣợc khá nhiều mảnh gốm và rìu đá;
Khu vực Cần Giờ, các nhà khảo cổ đã phát hiện đƣợc khá nhiều địa điểm khảo cổ
nhƣ Giồng Cháy, Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt, khu Bao Đồng… có niên đại cách nay
trên dƣới 2500 năm, Giồng Am niên đại khoảng thế kỷ VI, VII sau Cơng ngun2.
Thành phố Hồ Chí Minh đã có hai di tích khảo cổ đƣợc xếp hạng cấp quốc gia,
đó là di tích Giồng Cá Vồ và di tích Lò gốm Hƣng Lợi3.
Nhƣ vậy, với những kết quả nghiên cứu khảo cổ học về các di tích và di vật
khảo cổ đã đƣợc phát hiện cho thấy cách nay hàng ngàn năm ở vùng đất mang tên là
Thành phố Hồ Chí Minh đã có cƣ dân sinh sống và họ từng có sự giao lƣu rộng rãi
với nhiều vùng văn hóa và các nhóm cƣ dân khác nhau.
2.1.2. Di sản văn hóa đánh dấu lịch sử khai phá vùng đất mới
Hiện nay, Thành phố có hàng trăm ngơi đình, chùa cổ, nhà cổ, mộ cổ… lƣu dấu
ấn những lƣu dân Việt đầu tiên vào khai phá vùng đất Nam Bộ nhƣ: đình Nam Chơn,
Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh (2011), Một góc nhìn lịch sử, văn h a, tr. 21 – 29.
Sở Văn hóa Thể thao & Du lịch TPHCM, Sở Giáo dục & đào tạo TPHCM, Thành đoàn TPHCM, TT Bảo tồn
& phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa TPHCM, 2011, Hành trình di sản văn h a Thành phố Hồ Chí Minh,
NXB. Thơng tấn, tr.15.
3
Sở Văn hóa Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh, 2016, TLĐD.
1
2
97
đình Phú Nhuận, đình Bình Tiên, đình Bình Đơng, đình Bình Thọ, đình Trƣờng Thọ,
chùa Giác Lâm, Giác Viên, Hội Sơn, Vĩnh Nghiêm…Bên cạnh đó, loại hình di tích
rất đáng chú ý là các mộ cổ. Các địa điểm mộ cổ đƣợc khảo sát có niên đại tồn tại
chủ yếu từ đầu thế kỷ XIX tới đầu thế kỷ XX. Các mộ cổ đƣợc phân bố tại gần hết
các quận huyện của Thành phố mà tập chung nhất tại các Quận 2 (63 địa điểm),
Quận Phú Nhuận (11 địa điểm), Quận 9 (9 địa điểm), Quận Gò Vấp (8 địa điểm).
Loại hình kiến trúc mộ cổ những di sản văn hóa quý giá, chứa đựng nhiều giá trị to
lớn về lịch sử văn hóa, thể hiện dấu ấn của những cá nhân và tập thể trong quá trình
di cƣ, lập nghiệp tại vùng đất Sài Gòn xƣa.
2.1.3. Di sản kiến trúc của người Hoa ở Chợ Lớn
Các di sản kiến trúc của ngƣời Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh gắn liền với lịch
sử định cƣ của ngƣời Hoa ở vùng đất phƣơng Nam. Từ cuối thế kỷ XVII, sau khi đặt
chân đến Cù Lao Phố và Mỹ Tho, các di dân Trung Hoa đã có mặt tại vùng Sài Gòn.
Khi đến vùng đất mới, ngƣời Hoa đã xây dựng các cơng trình kiến trúc dân dụng và
tín ngƣỡng, tơn giáo để đáp ứng những nhu cầu khác nhau của sinh hoạt cộng đồng.
Tồn Thành phố có 86 miếu và hội quán trong đó có 25 hội quán đƣợc xây
dựng trên 100 năm còn tồn tại tập trung chủ yếu ở khu vực Chợ Lớn, nhƣ hội quán
Tuệ Thành, Quảng Triệu, Hà Chƣơng, Hải Nam, Ôn Lăng, Lệ Châu… 4. Các miếu
Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh thuộc nhiều nhóm cộng đồng ngƣời Hoa khác nhau:
41 miếu của ngƣời Triều Châu, 16 miếu của ngƣời Quảng Đông, 15 miếu của ngƣời
Phúc Kiến, 01 miếu của ngƣời Hải Nam, 5 miếu của ngƣời Minh Hƣơng (trong số 5
ngôi miếu của ngƣời Minh Hƣơng có 3 miếu thƣờng đƣợc quan niệm là ―đình‖, đó
là: đình Minh Hƣơng Gia Thạnh, đình Phú Nghĩa và đình Nghĩa Thuận. Tại khu vực
Chợ Lớn, cịn có các chợ, khu phố cổ, hẻm cổ, nhà cổ, cửa hàng... Nhà cổ trên đƣờng
Tản Đà, Hải Thƣợng Lãn Ông, nhà thờ Cha Tam...
Tính đến hết tháng 06 năm 2016, Thành phố đã có tổng cộng 24 di sản kiến trúc
của ngƣời Hoa đƣợc quyết định xếp hạng 5.
2.1.4. Di sản kiến trúc dinh thự, công sở, nhà vườn, biệt thự thời Pháp thuộc
Về di sản kiến trúc do ngƣời Pháp xây dựng, đến nay thống kê còn hơn 60 cơng
trình tiêu biểu, đƣợc xây dựng từ cuối TK XIX – đầu TK XX: nhà thờ Đức Bà, Tòa
Tổng giám mục, Bƣu điện Thành phố, Bảo tàng Thành phố HCM, Bảo tàng lịch sử,
Trụ sở UBND Thành phố, Trụ sở Tòa án Nhân dân Thành phố, Bệnh viện Nhi Đồng
II, trƣờng Lê Quý Đôn, trƣờng Marie Curie, Trƣờng Đại học Sài Gịn…và các cơng
trình cơng nghiệp và hạ tầng đô thị cổ ở khắp Thành phố6. Kiến trúc đô thị Sài Gịn –
Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều dạng, nhiều dòng, nhiều trƣờng phái, nhiều phong
cách nghệ thuật kiến trúc của phƣơng Tây. Những sự kết hợp giữa kết cấu, kiểu dáng
kiến trúc, vật liệu kiến trúc đề tài trang trí…giữa phƣơng Tây và phƣơng Đơng – bản
Võ Thanh Bằng (chủ biên), 2008, Tín ngưỡng dân gian ở Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. ĐH Quốc gia Thành
phố Hồ Chí Minh, tr.431-436.
5
Nguồn: Sở Văn hóa Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh, 2016, Di tích lịch sử - văn hoá và danh lam thắng
cảnh trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (đến tháng 6/2016).
6
Vũ Ngọc Thành (2011), ―Bảo tồn và phát huy di sản kiến trúc Pháp thuộc ở Sài Gịn – Thành phố Hồ Chí
Minh, những vấn đề đặt ra‖, Nam Bộ Đất & Người tập 8, Nxb. ĐH QG TP. HCM, tr. 550.
4
98
địa và ngoại sinh làm cho các cơng trình kiến trúc ở Sài Gịn thời thuộc Pháp có một
phong cách kiến trúc khá đặc biệt, đƣợc gọi là phong cách kiến trúc Đơng Dƣơng7.
2.1.5. Di sản cơng trình cơng nghiệp và hạ tầng đô thị qua các thời kỳ
Các di sản di tích cơng nghiệp và hạ tầng đơ thị gồm các nhà máy điện nƣớc,
nhà máy lúa gạo, nhà máy đóng sửa chữa tàu thuyền, hệ thống đƣờng bộ, đƣờng
thủy; kênh rạch, cầu, cống rãnh, giếng ngầm; đƣờng đô thị, vỉa hè, cây xanh…Hiện
nay còn lại khu văn phòng của Nhà máy điện Chợ Quán nằm ở Quận 5. Khu vực tháp
nƣớc Hồ Con Rùa tọa lạc ở địa chỉ số 01, Công trƣờng Quốc tế, Phƣờng 6, Quận 3.
Khu vực xí nghiệp liên hiệp Ba Son hiện cịn tồn tại một Ụ tàu vẫn cịn đang hoạt
động,có giá trị lịch sử lâu đời, đánh dấu ngành công nghiệp hiện đại Thành phố buổi
đầu và cũng là di tích lích sử cách mạng tiêu biểu.
Về đƣờng bộ, đến nay đã tăng lên rất nhiều. Năm 2011, Thành phố có tổng
cộng 3.879 đƣờng với chiều dài 3.534 km...8 Hiện nay các tuyến đƣờng nội đơ cịn
nhiều cây xanh cổ thụ nhƣ Đồng Khởi, Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Tôn Đức Thắng,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Chí Thanh…Về cơng viên, nổi tiếng có: công viên 30
tháng 4, Thảo cầm viên, Tao Đàn, 23 tháng 9, Lê Văn Tám, Lê Thị Riêng, Gia Định,
Phú Lâm… Nằm ở vùng hạ lƣu hệ thống sông Ðồng Nai - Sài Gịn, Thành phố hiện
nay có mạng lƣới sơng ngịi, kênh rạch rất phát triển. Trục các sơng chính gồm: sơng
Ðồng Nai, sơng Sài Gịn và sơng Nhà Bè, cùng với đó là mạng lƣới kênh rạch chằng
chịt: Nhiêu Lộc-Thị Nghè, Bến Nghé, Lò Gốm, Tàu Hũ... Trên các sơng và kênh,
rạch có hệ thống các cây cầu cổ, có giá trị lịch sử văn hóa: cầu Bình Lợi, cầu Bình
Triệu, cầu Sài Gịn, cầu Thị Nghè, cầu Mống, cầu Calmette, cầu Ông Lãnh, cầu Chữ
Y, cầu Chà Và…
2.1.6. Di sản văn hóa phi vật thể
Các lễ hội truyền thống của cộng đồng
Tại các di tích lịch sử văn hóa ở Thành phố, hằng năm đều có nhiều ngày lễ hội.
Lễ hội Nginh Ông ở xã Cần Thạnh và một số nơi thuộc huyện Cần Giờ là một trong
những lễ hội thờ cúng cá Voi lớn nhất Nam Bộ. Các ngành nghề truyền thống cũng
có nhiều lễ hội gắn liền với nghề nghiệp của mình để nhớ ơn tổ tiên, giáo dục truyền
thống cho thế hệ trẻ: lễ hội giỗ Tổ nghề kim hoàn đƣợc tổ chức ở hội quán Lệ Châu,
Quận 5 và tại các hội đồn, gia đình theo nghề kim hồn; lễ hội giỗ Tổ ngành hát Bội
và Cải lƣơng tại nhà truyền thống sân khấu (số 133, đƣờng Cô Bắc, Quận 1) và tại
các đoàn hát…9. Các lễ hội tƣởng nhớ những nhân vật có cơng giúp đỡ cộng đồng
trong cơng cuộc đi đến và định cƣ trên vùng đất mới: nhƣ Nguyễn Hữu Cảnh, Trịnh
Hồi Đức, Ngơ Nhân Tịnh… Các lễ hội mang tính chất tâm linh, tơn giáo của cộng
đồng diễn ra tại các di tích hay tại gia đình. Lễ hội của cộng đồng ngƣời Hoa tại các
Ngô Văn Doanh (2000): Kiến trúc Pháp ở Sài Gòn. Trong Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh thế kỷ 20 –
Những vấn đề lịch sử văn hoá. NXB Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. tr. 364-365.
8
Trần Hữu Quang (2011), Hạ tầng đơ thị Sài Gòn buổi đầu, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 52.
9
Huỳnh Quốc Thắng, 2014, ―Chuyển tải các giá trị khơng gian văn hóa lễ hội Sài Gịn – Thành phố Hồ Chí
Minh vào khu đơ thị mới Thủ Thiêm‖, Kỷ yếu hội : Lễ hội cộng đồng: truyền thống và biến đổi, Nxb. ĐH QG
TPHCM, tr.604,605.
7
99
miếu – hội quán để tôn vinh công lao, tƣởng nhớ các vị thần: Bà Thiên Hậu, Quan
Công, Bà Ngũ Hành, Ơng Ngọc Hồng, Ơng Bổn…
Khơng gian nghệ thuật đờn ca tài tử
Đờn ca tài tử là loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian đặc trƣng của vùng đất
Nam Bộ, vốn đƣợc hình thành từ đầu thế kỷ XX và có xuất xứ từ nhã nhạc cung đình
Huế và văn học dân gian Nam Bộ. Loại hình âm nhạc này là món ăn tinh thân khơng
thể thiếu đƣợc đối với nhân dân Nam bộ trong hàng thế kỷ qua. Thành phố Hồ Chí
Minh cũng là cái nơi của phong trao đờn ca tài tử và hiện đang phát triển hết sức sơi
động. Tồn Thành phố có hàng trăm Câu lạc bộ đờn ca tài tử với trên 1000 tài tử đờn
và ca. Vừa qua đờn ca tài tử Nam bộ đã đƣợc UNESCO vinh danh là di sản văn hóa
phi vật thể của nhân loại, đã tạo điều kiện cho nghệ thuật đờn ca tài tử Nam Bộ nói
chung và của Thành phố nói riêng phục hồi và phát triển10.
Các làng nghề thủ công truyền thống
Đến nay, số lƣợng làng nghề, xóm nghề đang tồn tại ở Thành phố ƣớc tính trên
60 làng, đƣợc phân bố trong cả nội và ngoại thành. Mỗi làng nghề đều mang một tên
riêng, nhƣ: dệt Bùi Môn,làng đúc đồng An Hội, gạch gốm Long Bình, lị đất Phú
Định – Hiệp Ân, dệt Bảy Hiền, nem Thủ Đức, sơn mài Bình Mỹ, rổ rá Mũi Lớn, mộc
Băng Ky, mành trúc Tân Thông Hội, hột vịt Xóm Củi, làng da bì Phú Hịa, bún khơ
Pháp Giới, lồng đèn Phú Bình, chiếu Bình An, chiếu Minh Đức…11. Sự hiện hữu của
các làng nghề thủ cơng trong lịng Thành phố năng động và phát triển dần trở nên
quen thuộc với ngƣời dân Thành phố và đã trở thành nét văn hóa độc đáo hiếm có,
cần đƣợc bảo tồn của một đơ thị lớn.
2.2. Vai trị của hệ thống các di sản văn hóa đối với Thành phố
Trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, ngồi những di tích và hiện vật
khảo cổ đƣợc phát hiện của một Sài Gòn thời tiền sử (cách nay 3500 năm đến một
vài thế kỷ trƣớc Công nguyên) và một Sài Gòn thời Phù Nam – Chân Lạp (thế kỷ I –
XVI ). Hiện nay bộ mặt di sản văn hóa của Thành phố có lịch sử hơn 300 năm, tính
từ khi ngƣời Việt, ngƣời Hoa vào khai hoang lập nghiệp. Khi ngƣời Pháp đến, Sài
Gòn – Chợ Lớn đón nhận thêm làn sóng văn hóa phƣơng Tây. Những di sản văn hóa
hiện tồn tại ở Thành phố Hồ Chí Minh chính là bộ phận cấu thành bộ mặt của vùng
đất Sài Gịn - Thành phố Hồ Chí Minh. Các di sản này đã trải qua nhiều thay đổi theo
năm tháng cùng với lịch sử hình thành và phát triển của Thành phố. Hơn 300 năm
trƣớc, vùng đất Sài Gịn vốn là những bãi sình lầy, hoang vu. Hệ thống các di sản là
bằng chứng của cộng đồng cƣ dân khi đến mƣu sinh ở miền đất này, họ đã biến vùng
đất hoang sơ thành đồng ruộng phì nhiêu, phố phƣờng đông đúc... Những khu phố
buôn bán sầm uất ở Chợ Lớn và các di tích tơn giáo khác của ngƣời Hoa chính là
bằng chứng của một đơ thị giao lƣu văn hóa: đơ thị Sài Gịn. Các kiến trúc thời Pháp
thuộc thể hiện việc tiếp nhận ảnh hƣởng của văn hóa phƣơng Tây.
10
(truy cập lúc 10:
00 ngày 10/12/2016).
11
(truy cập lúc 08: 50 ngày 12/11/2016)
100
Các di sản văn hóa vật chất tạo thành một tổng thể di sản – cảnh quan – môi
trƣờng của Thành phố. Đồng thời, đây cũng là những cơng trình mang tính chất mỹ
thuật và kiến trúc, làm nổi bật bản sắc văn hóa của cƣ dân Thành phố. Khơng chỉ có
kiến trúc đơ thị, cuộc sống thƣờng nhật của cộng đồng vẫn diễn ra liên tục, sôi động
và nối tiếp nhau qua thời gian. Chủ nhân xây dựng và sử dụng các di tích đó vẫn bảo
lƣu các giá trị độc đáo về mặt văn hóa, thể hiện yếu tố văn hóa tộc ngƣời. Di sản kiến
trúc và con ngƣời ở Sài Gịn – Thành phố Hồ chí Minh đã tạo cho Thành phố một vị
thế địa lý và truyền thống lịch sử độc đáo để từ đó hình thành một ―Bản sắc địa-văn
hóa‖ năng động và cởi mở, luôn chọn lọc và biến cải nhiều yếu tố văn hóa từ bên
ngồi để đổi mới và phát triển trên nền tảng văn hóa bản địa của cả khu vực.
Các di sản kiến trúc cổ này vẫn giữ đƣợc những nét đặc trƣng, trở thành địa
danh du lịch nổi tiếng, thu hút khách trong nƣớc và quốc tế đến tham quan và mua
sắm. Đây cũng là nơi đƣợc các nhà nghiên cứu trong và ngoài nƣớc đến khám phá.
Một trƣờng hợp điển hình là ở khu Chợ Lớn. Đây là nơi sinh sống, buôn bán nhộn
nhịp của cộng đồng ngƣời Hoa và cả ngƣời Việt. Cuối thập niên 50, Sài Gòn Chợ
Lớn đƣợc biết nhƣ một trung tâm thƣơng mại sầm uất, trọng điểm của khu vực Đông
Dƣơng. Ngày nay, Chợ Lớn đƣợc xem nhƣ một ―Trung Hoa thu nhỏ giữa lịng Thành
phố‖, là nơi có ngƣời Hoa sinh sống đông nhất Việt Nam. Địa chỉ này đã trở thành
điểm du lịch nổi tiếng của du khách khi khám phá vùng đất phƣơng Nam.
Trên đà phát triển thịnh vƣợng và đơ thị hóa mạnh mẽ của Thành phố, bộ mặt
Thành phố đổi thay rất nhiều, các di sản văn hóa đã ít nhiều bị ảnh hƣởng. Nếu
những di sản kiến trúc này mất đi vì lý do nào đó hay đƣợc thay thế bằng những cơng
trình mới xây dựng, thậm chí đƣợc bố trí xen kẽ giữa những cơng trình mới và cơng
trình cũ… cũng rất dễ dẫn đến phá vỡ khơng gian cổ kính và trang nghiêm của các
kiến trúc cổ. Mặt khác, lối sống đô thị cũng làm cho các giá trị văn hóa truyền thống
bị thay đổi, khó đƣợc bảo lƣu. Do vậy, nhất thiết phải giữ gìn những cơng trình kiến
trúc cổ, nơi sinh hoạt tơn giáo, văn hóa để làm tăng giá trị thẩm mỹ, văn hóa, lịch sử,
khảo cổ, cũng nhƣ bản sắc cho Thành phố để chúng có giá trị vơ giá cho Thành phố
và các thế hệ sau nối tiếp. Cũng nhƣ ở nhiều nƣớc Đông Nam Á và phƣơng Đông,
những công trình kiến trúc ―thuộc địa‖ mà cụ thể là các kiến trúc Pháp ở Sài Gòn,
sau một thời gian bị lỗi thời đã tìm lại đƣợc tiếng nói chung với xu thế kiên trúc hậu
hiện đại. Chắc chắn, nếu biết bảo vệ và phát huy, những kiến trúc Pháp, không chỉ
trở thành những di sản kiến trúc quý mà còn góp phần vào việc tạo ra những kiến
trúc hiện đại của thế kỷ XXI12.
3. Thực trạng hoạt động quản lý di sản văn hóa trên địa bàn Thành phố
Theo thống kê của Sở Văn hóa Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh, đến hết
tháng 6 năm 2016, Thành phố có 164 di tích đã đƣợc xếp hạng 13. Trong đó, có 02 di
tích quốc gia đặc biệt (di tích lịch sử); 55 di tích quốc gia (02 - khảo cổ học, 30 - kiến
Ngô Văn Doanh (2000), TLĐD, tr. 367.
Do ngày 23/12/2015, di tích quốc gia đặc biệt: Di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi có 02 di tích lịch sử quốc gia
địa đạo Bến Dƣợc và địa đạo Bến Đình có quyết định nhập chung vào, cho nên số lƣợng thay đổi – từ 165
xuống còn 164.
12
13
101
trúc nghệ thuật, 23- lịch sử); 107 di tích cấp thành phố (65- kiến trúc nghệ thuật, 45lịch sử)14.
Hoạt động quản lý văn hóa trên địa bàn thành phố tuy đã có nhiều tiến bộ trong
những năm vừa qua, trên tồn thành phố có nhiều di sản là các di tích đã đƣợc xếp
hạng cấp quốc gia hoặc thành phố nhƣng. Tuy nhiên, việc bảo tồn nhiều di tích vẫn
cịn gặp khơng ít khó khăn.
Cịn nhiều vấn đề nan giải giữa bảo tồn và phát triển trong giai đoạn hiện nay.
Nhiều cơng trình đặc sắc nhƣ Bến Nhà Rồng, Nhà thờ Đức Bà, Bƣu điện Thành phố,
Nhà hát Thành phố, Bảo tàng Thành phố, Bảo tàng Lịch sử - Thành phố Hồ Chí
Minh, Tịa án nhân dân Thành phố, trụ sở Ủy ban nhân dân Thành phố… tập trung ở
trung tâm Thành phố đang có nguy cơ trở nên ―lạc lõng‖ giữa những kiến trúc cao
tầng ốp kính bóng lống vây xung quanh, làm phá vỡ kiến trúc cảnh quan đô thị. Các
kiến trúc cổ đã trải qua sự tác động khắc nghiệt của mơi trƣờng khí hậu và xu thế
hiện đại hóa của con ngƣời, nên ít nhiều bị ảnh hƣởng. Các khu phố cổ ngƣời Hoa ở
khu vực Chợ Lớn, những ngơi nhà cổ có từ thế kỷ XIX của ngƣời Việt… đang bị
xuống cấp trầm trọng. Đình, chùa, miếu, lăng mộ… là những đối tƣợng dễ bị xâm
chiếm và bị phá hoại trong bối cảnh đô thị hóa nhanh chóng nhƣ hiện nay. Ngƣời ta
có thể làm cho một di tích biến mất chỉ trong một đêm, nên khơng thể cho rằng quản
lý văn hóa khơng cần phải vội đƣợc. Trong đời sống thƣờng nhật của từng con
ngƣời, nếp nhà cƣ dân Thành phố đang bảo lƣu rất nhiều giá trị văn hóa tinh thần
thấm đẫm nhƣng cũng chịu nhiều biến đổi dƣới áp lực của quá trình đơ thị hóa… Do
vậy, vẫn cịn đó những vấn đề cần phải tính đến nếu khơng sẽ để mất di tích rất
nhanh chóng.
Riêng với những di tích đƣợc xếp hạng, đặc biệt là các di tích kiến trúc nghệ
thuật, lịch sử, cũng chƣa đƣợc kiểm kê chính thức về mặt những cổ vật, đó là chƣa kể
đến một số di vật trong các di tích có hiện tƣợng mất đi do trên thị trƣờng trao đổi
buôn bán cổ vật. Những cổ vật này đã xuất hiện trong các bộ sƣu tập tƣ nhân, sẽ
chẳng bao giờ có thể quay trở về với những di tích đó đƣợc nữa, đó là một thực tế
đáng buồn nhƣng đã xảy ra. Mặt khác, các hồ sơ hay lý lịch di tích do cơ quan quản lý
văn hóa ở thành phố Hồ Chí Minh lập ra, tuy đã liệt kê khá đầy đủ các di tích cùng
hiện vật đi kèm, nhƣng lại rất ít nêu lên các giá trị đặc trƣng của chúng. Các cổ vật
chƣa đƣợc giám định đầy đủ, do đó việc quản lý vẫn chƣa đảm bảo về tính khoa học.
Trong thời gian qua đã có một số cơng trình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc về các
giá trị di sản cũng nhƣ vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị di sản của Thành phố… Tuy
nhiên, việc áp dụng kết quả nghiên cứu trên vào bảo tồn, phát huy vẫn cịn nhiều bất
cập.
Bên cạnh các di tích đã đƣợc xếp hạng của thành phố. Nhiều di tích vẫn chƣa
đƣợc xếp hạng. Việc chƣa đƣợc xếp hạng đồng nghĩa với nguy cơ bị xâm hại rất lớn
và không thể cấm ngƣời dân sửa chữa. Nếu tình trạng này khơng đƣợc giải quyết
Nguồn: Sở Văn hóa Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh, 2016, Di tích lịch sử - văn hố và danh lam thắng
cảnh trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (đến tháng 6/2016).
14
102
nhanh chóng, kịp thời, các di tích sẽ tiếp tục đứng trƣớc nguy cơ bị biến dạng và ―xóa
sổ‖ trƣớc sức ép của q trình đơ thị hóa.
Việc bảo quản, trùng tu, tơn tạo phát huy giá trị di tích chỉ đƣợc thực hiện khi di
tích đó đã đƣợc xếp hạng, đã đƣợc cơng nhận. Đối với di tích kiến trúc nghệ thuật (nhà
cổ, hội quán, đền chùa…): trùng tu, tu bổ bằng 02 nguồn vốn: chƣơng trình mục tiêu
quốc gia (đối với các di tích quốc gia) nhƣng riêng năm 2014, chƣơng trình mục tiêu
quốc gia bị cắt nên khơng có cơng trình di tích đƣợc thực hiện; nguồn vốn từ ủy ban,
quận, huyện (đối với các di tích cấp thành phố) và nguồn vốn xã hội hóa (từ bản thân
di tích hoặc qun góp ngƣời dân) nhƣng nguồn vốn này rất có hạn.
Việc lập hồ sơ xếp hạng di tích căn cứ trên cơ sở danh mục kiểm kê di tích. Hằng
năm, Trung tâm sẽ chọn những di tích trong danh mục để lập hồ sơ xếp hạng nhƣng
những năm gần đây việc lập hồ sơ rất khó khăn do:
+) Di tích thuộc sở hữu tƣ nhân, khơng đồng ý xếp hạng.
+) Di tích thuộc sở hữu của tổ chức tôn giáo, không đồng ý xếp hạng.
+) Di tích vƣớng về dự án, đất đai, tranh chấp, khoanh vùng bảo vệ.
+) Di tích khơng có ngƣời quản lý, không phát huy giá trị.
Nhƣ vậy, khi các hoạt động kinh tế đƣợc phát triển mạnh thì giá trị di sản văn
hóa càng cần phải đƣợc trân trọng. Các di sản văn hóa là tài sản vơ giá của các lớp
cha ông để lại, là bằng chứng cho sự vang bóng một thời của vùng đất Sài Gịn – Chợ
Lớn. Đây không chỉ là tài sản chung của cộng đồng ở Sài Gịn – Thành phố Hồ Chí
Minh mà cũng đồng thời là tài sản chung của đất nƣớc và của nhân loại. Một khi đã
bị mất đi dù là vì lý do gì thì cũng rất khó có khả năng hồi phục lại. Thành phố Hồ
Chí Minh phải làm gì để khai thác những tiềm năng của các di sản văn hóa trong
phát triển Thành phố nói chung?
4. Biện pháp nâng cao vai trò quản trị địa phƣơng trong bảo tồn và phát
huy các giá trị di sản văn hóa ở Thành phố
Nhằm hƣớng đến mục tiêu phát triển bền vững ở vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, vấn đề bảo tồn và phát huy giá
trị các di sản văn hoá trở thành một nhiệm vụ cấp bách hàng đầu. Để bảo tồn và phát
huy giá trị di sản văn hóa, chính sách của quản trị địa phƣơng, trƣớc nhất là từ Ủy
ban Nhân dân Thành phố, các Sở ban ngành… đóng vai trị hết sức quan trọng. Bên
cạnh đó là sự phối hợp của cả cộng đồng.
Bảo tồn và phát huy giá trị di sản gắn với sự quản lý của Nhà nước, các Sở
ban ngành
Thành phố cần có những chính sách đa dạng, linh hoạt phù hợp với thực tế, đặc
biệt hài hòa đƣợc quyền lợi của ngƣời dân với Nhà nƣớc. Ủy ban Nhân dân thành
phố, cụ thể là các Sở, Ban ngành có liên quan cần chỉ đạo việc thống kê, đề xuất danh
sách các cơng trình kiến trúc có giá trị cần bảo tồn trình Ủy ban Nhân dân thành phố
xem xét. Bên cạnh đó, các sở ngành chức năng cũng cần nghiên cứu xây dựng cơ chế
bảo tồn, nhất là đối với các cơng trình kiến trúc tuy có giá trị kiến trúc, nhƣng chƣa đủ
điều kiện là di tích.
103
Thành phố cần có những chính sách đa dạng, linh hoạt phù hợp với thực tế, đặc
biệt hài hòa đƣợc quyền lợi của ngƣời dân với Nhà nƣớc, có nhƣ thế mới có thể bảo
tồn và gìn giữ các cơng trình kiến trúc có giá trị.
Để phát triển bền vững Thành phố trong tƣơng lai, vừa hiện đại vừa bảo tồn
đƣợc các giá trị văn hóa truyền thống quý giá của mình, cần có chiến lƣợc trong quy
hoạch bảo tồn các thiết chế văn hóa nói chung và các giá trị di sản văn hóa ở Thành
phố Hồ Chí Minh nói riêng. Bảo tồn di tích gắn với cuộc sống thƣờng nhật của ngƣời
dân, các hoạt động khác. Cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển.
Cần có chiến lƣợc quy hoạch lại cảnh quan di tích, các hoạt động tín ngƣỡng, khơi
phục các loại hình văn hóa nghệ thuật, các lễ hội của cộng đồng, bảo quản, giữ gìn,
kiểm kê, nghiên cứu giá trị những hiện vật cổ gắn với tín ngƣỡng của cƣ dân.
Nghiên cứu nhằm tạo cơ sở khoa học và pháp lý để bảo tồn di sản, quảng bá
hình ảnh di sản ra bên ngoài một cách rộng rãi và đúng đắn, nhất là trong giai đoạn
xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay. Chính quá trình
nghiên cứu cũng là quá trình giáo dục ý thức bảo vệ di sản văn hóa, ý thức này đƣợc
tăng cƣờng thông qua việc nâng cao chất lƣợng công trình nghiên cứu15. Chúng tơi
nghĩ rằng, một trong những giải pháp để bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa ở
Thành phố nói chung là phải có một số ngành nghiên cứu đặc thù để tiếp cận: ngành
khảo cổ học đô thị, nhân học ứng dụng, văn h a du lịch... Từ các kết quả nghiên cứu
đối với hệ thống các di sản văn hóa ở Sài Gịn, chúng ta mới có đƣợc một cái nhìn
bao qt cũng nhƣ chuyên sâu về quy hoạch, kỹ thuật, kết cấu, đặc trƣng kiến trúc,
vật liệu kiến trúc của các thời kỳ lịch sử cũng nhƣ tƣ duy, triết lý, thẩm mỹ, nhân
sinh quan, thế giới quan của những con ngƣời tạo lập nên một hệ thống đơ thị Sài
Gịn đƣơng thời.
Hoạt động nghiên cứu khoa học về các di tích cũng nên đƣợc đẩy mạnh để xác
định các giá trị đúng đắn cho các di sản văn hóa, góp phần quảng bá hình ảnh của di
sản ra bên ngồi một cách rộng rãi qua các phƣơng tiện truyền thông nhƣ sách báo,
tạp chí, internet... Hệ thống các di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn Thành phố cần
đƣợc đƣa thành một môn học bắt buộc đối với sinh viên, nhất là sinh viên ngành văn
hóa du lịch trên địa bàn Thành phố. Cần khuyến khích các cơng trình nghiên cứu
khoa học của sinh viên, đề tài, luận văn, luận án… của sinh viên, học viên và nghiên
cứu sinh các trƣờng đại học, cao đẳng trong nghiên cứu về Thành phố nới chung, đặc
biệt là các di sản văn hóa. Hỗ trợ hơn nữa cho các dự án, trƣng bày, triễn lãm về các
giá trị di sản của Thành phố… nhằm giới thiệu, quảng bá hình ảnh đến ngƣời dân,
thế hệ trẻ và cả du khách xa gần…
Bảo tồn và phát huy giá trị di sản là trách nhiệm của cộng đồng
Trách nhiệm bảo vệ các di sản này thuộc về cả cộng đồng và cần có sự phối hợp
từ nhiều phía: cộng đồng dân cƣ sở tại, Nhà nƣớc, nhà nghiên cứu, đặc biệt là thế hệ
trẻ và cả khách tham quan du lịch… Giáo dục cho cộng đồng hiểu đƣợc những giá trị
di sản cũng là một vấn đề nên làm bên cạnh việc phục vụ nhu cầu kinh tế, du lịch cho
Đặng văn Thắng (1999), ―Nghiên cứu để bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc‖, Bảo tồn và phát huy bản sắc
văn h a dân tộc – Vai trò của nghiên cứu và giáo dục, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 221-224.
15
104
cộng đồng. Ngoài ra, trong việc khai thác các giá trị di sản văn hóa để phát triển du
lịch Thành phố, cần kết hợp với đầu tƣ tối đa cho việc nâng cao hơn nữa các yếu tố
hạ tầng đô thị, môi trƣờng cảnh quan, đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng các chƣơng
trình quảng bá du lịch... Tất cả nhằm tạo mọi điều kiện tốt nhất để phát triển bền
vững Thành phố trong tƣơng lai.
Trong thời gian tới, các di tích rất cần đƣợc bảo vệ bằng những giải pháp phù
hợp. Cần đầu tƣ kinh phí để tu bổ cho những cơng trình đang bị hƣ hại. Tun truyền
nâng cao ý thức bảo tồn di sản trong nhân dân. Hoạt động nghiên cứu khoa học nên
đƣợc đẩy mạnh để xác định đúng giá trị di sản, góp phần quảng bá hình ảnh của di
tích qua các phƣơng tiện truyền thơng. Cần quy hoạch lại cảnh quan di tích, các hoạt
động tín ngƣỡng, khơi phục các loại hình văn hóa, nghệ thuật, lễ hội.
Trong vấn đề quy hoạch đô thị Thành phố có sự tham dự của các thành phần
liên quan, trong đó có cộng đồng địa phƣơng bị ảnh hƣởng trực tiếp, các tổ chức phi
chính phủ. Nên học hỏi và áp dụng các bài học và kinh nghiệm ở nhiều nơi trên thế
giới. Trong suốt trong quá trình hoạch định và quản lý phải phù hợp với luật môi
trƣờng, nhƣ đa dạng sinh học, luật bảo tồn văn hóa và các qui định, điều lệ về cảnh
quan đơ thị... Ủy ban Nhân dân Thành phố, cụ thể là các Sở, Ban ngành có liên quan
cần chỉ đạo việc thống kê, đề xuất danh sách các cơng trình kiến trúc và các giá trị
văn hóa tinh thần có giá trị khác cần bảo tồn, đệ trình Ủy ban Nhân dân Thành phố
xem xét. Bên cạnh đó, cũng cần nghiên cứu xây dựng cơ chế bảo tồn, nhất là đối với
các di sản có giá trị nhƣng chƣa đủ điều kiện xếp hạng.
Bảo tồn và phát huy giá trị di sản gắn với hoạt động phát triển kinh tế - văn
hóa – xã hội, đặc biệt là hoạt động du lịch
Thành phố Hồ Chí Minh đang phát triển mạnh các hoạt động kinh tế, du lịch.
Năm 2016, tổng lƣợng khách quốc tế đến thành phố đạt 5,2 triệu lƣợt khách; khách
nội địa ƣớc đạt 21,8 triệu lƣợt khách16. Nhiều giá trị di sản văn hóa ở Thành phố Hồ
Chí Minh đã nằm trong chƣơng trình của các Cơng ty du lịch nổi tiếng nhƣ: Du lịch
Thành phố Hồ Chí Minh (Saigontourist), Dã ngoại Lửa Việt, Du lịch Thanh Niên,
Du lịch Bến Thành... Do đó, việc hình thành các tuyến du lịch gồm các cụm cơng
trình có chức năng dịch vụ, du lịch và các cơng trình kiến trúc lịch sử, văn hố sẽ có
ý nghĩa quan trọng. Di tích và những hiện vật cổ cần đƣợc giữ gìn để phục vụ cho
các hoạt động tham quan du lịch. Đối với các di tích có vị trí tọa lạc ngay tại trung
tâm Thành phố, ngành văn hóa du lịch thành phố cần khai thác để trở thành các điểm
tham quan của du khách. Đây là giải pháp để sinh lợi cho các di tích, phát triển
Thành phố.
Khách du lịch đến Thành phố Hồ Chí Minh khơng chỉ tìm hiểu về những khu
ẩm thực, khu vui chơi giải trí hay những tịa nhà cao tầng mà còn muốn chiêm
nghiệm những giá trị di sản văn hóa thấm đẫm của cƣ dân Sài Gịn qua các thế hệ.
Do đó, các di tích kiến trúc, làng nghề truyền thống, lễ hội và các không gian văn
hóa khác cần đƣợc bảo tồn và phát huy để phục vụ cho các hoạt động tham quan du
16
(truy cập lúc 10:26, ngày 8/7/ 2017).
105
lịch. Đây là giải pháp để sinh lợi cho ngành du lịch, kỳ vọng của du khách và phát
triển Thành phố. Các di tích cần đƣợc sự đầu tƣ, sửa chữa nâng cấp để phục hồi vẻ
đẹp nguyên trạng của nó, trở thành những tuyến điểm trên hành trình du lịch của
khách thập phƣơng. Các loại hình kiến trúc đều gắn với cuộc sống sinh hoạt của
ngƣời dân trong di tích. Việc trùng tu và quy hoạch kiến trúc phải đi đơi với bảo tồn
cả nếp sinh hoạt văn hóa tinh thần của cộng đồng dân cƣ. Hƣớng tới phát triển lịa
hình du lịch văn hóa tại Thành phố. Du lịch văn hóa là loại hình mà du khách muốn
đƣợc thẩm nhận bề dày lịch sử văn hóa của một nƣớc, một vùng thơng qua các di tích
lịch sử, văn hóa, những phong tục, tập qn cịn hiện diện17. Đây sẽ là nguồn tài
nguyên quý giá, bền vững nhất để bảo tồn và phát huy giá trị các di tích, phục vụ
hoạt động Thành phố.
Nhƣ vậy, bảo tồn và phát huy giá trị di sản hiện nay sẽ đem lại lợi ích cả về mặt
đời sống tinh thần và vật chất cho cộng đồng. Bảo tồn và phát huy giá trị di sản là việc
làm từ nhiều phía: cộng đồng dân cƣ sở tại, Nhà nƣớc, nhà nghiên cứu và cả khách
tham quan du lịch… Nhƣng cần có một chiến lƣợc tổng thể đƣợc hoạch định rõ ràng,
cụ thể. Đó chính là hƣớng đi đúng đắn nhằm đem lại lợi ích cho con ngƣời từ những di
sản của tiền nhân cịn để lại.
5. Kết luận
Những di sản văn hóa vật chất và tinh thần của cộng đồng cƣ dân Sài Gòn –
Chợ Lớn trong quá khứ và hiện tại đã và đang tạo ra cho Thành phố những giá trị di
sản văn hóa vơ cùng đặc sắc. Tuy nhiên, tiềm năng di sản văn hóa của Thành phố
trong nhiều năm qua chƣa thực sự đƣợc khai thác, phát huy đúng mức. Sắp tới, cần
có sự đầu tƣ thỏa đáng, cùng nhiều biện pháp khả thi để phát huy giá trị di sản, nhằm
bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống trong đời sống hiện đại cũng nhƣ giúp Thành
phố có điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn. Quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản
văn hóa là việc làm từ nhiều phía: chủ nhân các di tích, cộng đồng, Nhà nƣớc, nhà
nghiên cứu... Trong số đó, vai trị của quản trị địa phƣơng đóng vai trị quan trọng
hàng đầu.
17
Trần Văn Thông (2003), Quy hoạch du lịch: những vấn đề lý luận và thực tiễn, Trƣờng ĐHDL Văn Lang,
Khoa Du lịch, Tài liệu lƣu hành nội bộ, tr. 96, 97.
106
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh (2011), Một góc nhìn lịch sử, văn h a.
2. Đặng văn Thắng (1999), ―Nghiên cứu để bảo tồn và phát huy bản sắc dân
tộc‖, Bảo tồn và phát huy bản sắc văn h a dân tộc – Vai trò của nghiên cứu và giáo
dục, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 221-224.
3. Huỳnh Quốc Thắng, 2014, ―Chuyển tải các giá trị khơng gian văn hóa lễ hội
Sài Gịn – Thành phố Hồ Chí Minh vào khu đơ thị mới Thủ Thiêm‖, Kỷ yếu hội : Lễ
hội cộng đồng: truyền thống và biến đổi, Nxb. ĐH QG TPHCM, tr.603-612.
4. Ngô Văn Doanh (2000), ―Kiến trúc Pháp ở Sài Gòn‖, Sài Gịn – Thành phố
Hồ Chí Minh thế kỷ XX, những vấn đề lịch sử - văn h a, Nxb. Trẻ Thành phố Hồ Chí
Minh, tr. 365-370.
5. Sở Văn hóa Thể thao & Du lịch TPHCM, Sở Giáo dục & đào tạo TPHCM,
Thành đoàn TPHCM, TT Bảo tồn & phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa TPHCM,
2011, Hành trình di sản văn h a Thành phố Hồ Chí Minh, NXB. Thông tấn.
6. Trần Hữu Quang (2011), Hạ tầng đơ thị Sài Gịn buổi đầu, Nxb. Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh.
7. Trần Văn Thơng (2003), Quy hoạch du lịch: những vấn đề lý luận và thực
tiễn, Trƣờng ĐHDL Văn Lang, Khoa Du lịch, Tài liệu lƣu hành nội bộ.
8. Võ Thanh Bằng (chủ biên), 2008, Tín ngưỡng dân gian ở Thành phố Hồ Chí
Minh, Nxb. ĐH Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
9. Vũ Ngọc Thành (2011), ―Bảo tồn và phát huy di sản kiến trúc Pháp thuộc ở
Sài Gịn – Thành phố Hồ Chí Minh, những vấn đề đặt ra‖, Nam Bộ Đất & Người tập
8, Nxb. ĐH QG TP. HCM, tr. 549-560.
10. />2131902.html (truy cập lúc 10: 00 ngày 10/12/2016).
11. (truy cập lúc 08:
50 ngày 12/11/2016)
12. (truy cập
lúc 10:26, ngày 8/7/ 2017).
107