Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2018. ISBN: 978-604-82-2548-3
TƯ TƯỞNG VỀ VAI TRÒ CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ
TRONG TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU CỦA NGƯỜI VIỆT
VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
Nguyễn Thị Cẩm Tú
Trường Đại học Thủy lợi, email:
1. GIỚI THIỆU CHUNG
Tín ngưỡng thờ Mẫu là một trong ba loại
hình tín ngưỡng dân gian nổi bật của người
Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.Tín ngưỡng thờ
Mẫu khơng chỉ là một loại hình sinh hoạt văn
hóa dân gian, là món ăn tinh thần không thể
thiếu của người dân - nhất là người nơng dân,
mà cịn ẩn chứa nhiều giá trị nhân văn, văn
hóa. Một trong những giá trị đó khơng thể
khơng nhắc tới tư tưởng về vai trò của người
phụ nữ trong xã hội xưa kia được phản ánh rõ
nét trong nội dung và sinh hoạt tín ngưỡng
thờ Mẫu của cư dân người Việt vùng đồng
bằng Bắc Bộ.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Bài viết chủ yếu sử dụng phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin để phân tích
những giá trị của những tư tưởng về vai trò
của người phụ nữ trong tín ngưỡng thờ Mẫu
của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.
- Bài viết sử dụng kết hợp với các phương
pháp cụ thể như phân tích - tổng hợp, logic lịch sử…, để phân tích, tìm hiểu về vai trị
của người phụ nữ được phản ánh trong tín
ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng
bằng Bắc Bộ.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Khái quát về tín ngưỡng thờ Mẫu
của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
- Thờ Mẫu là một trong những loại hình
tín ngưỡng dân gian nhiều sắc thái nổi bật
của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Người ta đến với Mẫu để mong cầu tìm được
chỗ dựa về tinh thần, tìm được sự che chở
của người mẹ.
- Tín ngưỡng thờ Mẫu của vùng đồng bằng
Bắc Bộ đa dạng, phong phú. Nhưng tựu
chung lại, tín ngưỡng thờ Mẫu biểu hiện tập
trung ở hai lớp đối tượng là thờ Mẫu thần và
thờ Tam phủ - Tứ phủ (Tam tòa Thánh Mẫu).
Cụ thể:
+ Một số Mẫu thần chủ yếu trong tín
ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng
bằng Bắc Bộ:
Mẫu huyền thoại: là những vị thánh Mẫu
được xây dựng từ những câu chuyện huyền
thoại trong dân gian như Mẫu Âu Cơ; Mẫu
Man Nương, bà chúa Liễu Hạnh tước hiệu là
Thánh Mẫu Liễu Hạnh; Mẹ của Phù Đổng
Thiên Vương, v.v...
Mẫu nhiên thần: thờ các Mẫu biểu trưng
cho trời, đất, nước, rừng, đó là Mẫu Thoải,
Mẫu Địa, Mẫu Thiên, Mẫu Thượng Ngàn.
Mẫu nhân thần: là việc thờ những người
phụ nữ có tài năng, đức độ và có cơng với
nước nhà, sau khi mất được tôn xưng là Mẫu
như: Mẹ của Vua lê Thánh Tông, Tống Hậu,
Ỷ Lan Hoàng Thái Hậu - nguyên phi của vua
Lý Thánh Tơng; bà Phạm Thị Ngọc Trần Hồng Hậu; Thái Hậu họ Dương được tôn
phong là Quốc Mẫu Vương; Linh Từ Quốc
Mẫu Trần Thị Dung, v.v..
+ Mẫu Tam phủ là danh từ để chỉ ba vị
thần thánh trong hệ thống tín ngưỡng Việt
Nam gồm: Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng
294
Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2018. ISBN: 978-604-82-2548-3
Ngàn và Mẫu Thoải, cai quản những lĩnh vực
quan trọng nhất của một xã hội nông nghiệp.
Sau này, xuất hiện Thánh Mẫu Liễu Hạnh, thì
tín ngưỡng thờ Tam phủ chuyển thành thờ Tứ
phủ. Hiểu một cách nôm na, Tứ phủ là khái
niệm dùng để chỉ 4 vùng: Địa phủ, Thiên
phủ, Nhạc phủ và Thoải phủ.
3.2. Nội dung tư tưởng về vai trị của
người phụ nữ trong tín ngưỡng thờ Mẫu
của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
- Một là, về vai trò làm mẹ của người
phụ nữ:
Truyền thuyết kể lại rằng, người Việt
thuộc họ Hồng Bàng, cùng được sinh ra bởi
mẹ Âu Cơ và cha Lạc Long Quân. Mẹ Âu Cơ
sinh ra một bọc trứng, nở ra trăm con. Trăm
người con đó, một nửa theo cha xuống biển
lập nghiệp, một nửa theo mẹ lên non khai phá
rừng [4, tr.24-34]. Theo ý nghĩa đó, người
Mẹ được coi là biểu tượng đầu tiên, nuôi
sống, che chở cho con người. Với ý nghĩa
như vậy, người mẹ có vai trị lớn lao trong
việc duy trì nịi giống và cả việc bảo vệ, ni
dưỡng, chăm sóc con cái của mình. Có rất
nhiều những người phụ nữ được nhân dân tôn
vinh và trở thành biểu tượng thờ tự trong sinh
hoạt tín ngưỡng. Đó là, Mẹ Âu Cơ được nhân
dân tôn thờ là Quốc Mẫu, bà mẹ Thánh
Gióng được tơn là Đổng phu nhân vương
Mẫu, Mẫu cịn là mẹ của các vị vua… Để ghi
nhận cơng lao to lớn của họ, nhân dân lập
đền thờ. Hằng năm tổ chức các lễ hội để bày
tỏ lòng thành kính, biết ơn tới họ. Trong tâm
thức của người Việt, từ con đường, dịng
sơng, đến các vật dụng sinh hoạt trong gia
đình… đều bắt nguồn tên gọi chỉ người phụ
nữ. Đó là các tên gọi như sơng cái, đường
cái, đũa cả… Tất cả những hành động đó, đã
đánh thức một niềm tin thường trực trong
tâm trí của mọi người về hình ảnh người mẹ
với sự bao dung, che chở.
- Hai là, về vai trò của người phụ nữ trong
lao động sản xuất:
Trên thực tế, ở vùng đồng bằng Bắc Bộ,
kinh tế dựa chủ yếu trên nền sản xuất nông
nghiệp, do vậy cần sức lao động của người
đàn ông là chủ yếu. Do đó, vai trị của người
phụ nữ bị hạ thấp. Khi chế độ phong kiến
xuất hiện, tư tưởng trọng nam khinh nữ vốn
đã ăn sâu bén rễ vào trong từng mạch máu,
từng thớ thịt của mỗi người dân, nay lại càng
đè nặng lên vai người phụ nữ với những thiệt
thòi trong tất cả các mối quan hệ. Do ảnh
hưởng của Nho giáo đã làm gia tăng những
rằng buộc cho người phụ nữ. Sự bó buộc của
xã hội phong kiến, sự tàn ác của những thế
lực đen tối đã khiến cho cuộc đời cả họ đầy
những chơng gai, sóng gió. Họ là phái yếu,
nhưng họ cũng có khả năng làm được điều
mà nam giới làm. Nhưng mấy ai dám ngông
nghênh thốt lên như nữ sĩ họ Hồ rằng: “Ví
đây đổi phận làm trai được; Thì sự anh hùng
há bấy nhiêu?”. Vì thế, bứt phá khỏi tư tưởng
tiêu cực về vai trị của người phụ nữ trong
sản xuất nơng nghiệp, nhân dân đã xây dựng
lên hình tượng Mẫu. Trong nhận thức của họ
về tự nhiên, hình ảnh mà họ xây dựng về
người cai quản các yếu tố phục vụ trực tiếp
cho sản xuất nơng nghiệp (trời, đất, nước, núi
rừng…) chính là hình tượng các Mẫu. Mẫu
Thiên cai quản miền trời, Mẫu Địa cai quản
miền đất, Mẫu Thoải cai quản miền nước, và
Mẫu Thượng Ngàn cai quan vùng miền núi.
Những quan niệm đó là sự phản kháng lại
chính thực tại của xã hội, nhân dân xây dựng
lên hình tượng thánh Mẫu với sức mạnh siêu
nhiên thể hiện trong việc cai quản những yếu
tố có ảnh hưởng to lớn đối với sự tồn tại của
con người. Điều đó nói lên rằng, cũng giống
như nam giới, phụ nữ nếu có cơ hội, họ vẫn
có thể làm tốt nhiệm vụ của mình.
- Vai trị của người phụ nữ trong việc đấu
tranh chống lại những hà khắc của xã hội
phong kiến xưa kia:
Vì cũng như tơn giáo, tín ngưỡng, tín
ngưỡng thờ Mẫu ra đời là kết quả và biểu
hiện của quá trình con người phản ánh các
mối quan hệ xã hội mà mình đang tham gia.
Nói như C. Mác “Sự nghèo nàn của tôn giáo
vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực,
vừa là sự phản kháng chống lại sự nghèo nàn
hiện thực ấy” [1, tr.570]. Sự xuất hiện của
Mẫu Liễu trong xã hội phong kiến đang bộc
lộ rõ những hạn chế, tiêu cực như một sự đấu
tranh chống lại xã hội phong kiến, chống lại
295
Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2018. ISBN: 978-604-82-2548-3
những hà khắc của luật lệ xã hội ép buộc
người phụ nữ vào những khuôn phép đè nặng
lên họ. Nguyễn Đăng Duy viết, Mẫu lả lơi
với đàn ông háo sắc, trăng hoa, thậm chí mỗi
lần giáng trần Mẫu lại sinh một đứa con.
Hình ảnh Mẫu dám bỡn cợt với hồng tử con
vua và khi bị vua trừng phạt thì Mẫu cãi lại,
thậm chí chống lại và đánh cho quân của vua
tan tác [2, tr.177-178]… Tất cả những hành
động đó của Mẫu khi đặt dưới con mắt của
Nho giáo, thì đó là sự chống lại những chuẩn
mực của xã hội phong kiến đương thời.
Nguyễn Hữu Thụ viết, “Mẫu đã làm được
việc tự giải phóng mình, tự thể hiện mình và
tự khẳng định mình trong mọi lĩnh vực. Đó
chính là sự thể hiện tính người cao nhất… con
người được cứu rỗi, được giải tỏa khỏi những
bức xúc, được hướng tới một niềm tin thanh
thản vơ biên mà có nó thì sẽ làm được tất cả”
[6, tr.111]. Qua hình ảnh Mẫu Liễu, thể hiện
khát vọng chân chính của người nơng dân, và
hơn hết là của người phụ nữ mong muốn được
giải phóng khỏi những quy định hà khắc, gia
trưởng của xã hội phong kiến. Niềm tin vào
Mẫu giúp cho người dân tìm được niềm tin,
niềm hi vọng trong cuộc sống.
- Ba là, về vai trò của người phụ nữ trong
các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược:
Bàn về điều này, Nguyễn Đức Lữ viết,
không chỉ trong sản xuất, mà ngay cả “việc
chống giặc ngoại xâm, người phụ nữ cũng là
một lực lượng đáng kể, góp phần tạo nên
những chiến thắng hào hùng của dân tộc” [3,
tr.141]. Thực tế cho thấy, đất nước ta trong
suốt chiều dài lịch sử hình thành và phát
triển, đặc biệt trong thời kì phong kiến, liên
tục đối đầu với những cuộc chiến tranh chống
xâm lược của các thế lực thù địch phương
Bắc. Khẳng định lại giá trị của người phụ nữ,
được thể hiện qua hệ thống thờ nữ thần rất
phong phú, trong đó nổi bật là hiện tượng thờ
Mẫu. Người phụ nữ không chỉ tần tảo lo toan
cuộc sống hằng ngày, mà khi có chiến tranh
loạn lạc, thì họ sẵn lòng ra trận như: Hai Bà
Trưng, Triệu Ẩu, Dương Vân Nga, Ỷ Lan,
Bùi Thị Xuân, vợ ba Đề Thám, Thánh Mẫu
Liễu Hạnh. Theo truyên thuyết, Mẫu Liễu
Hạnh với tài thần thơng biến hóa, có lịng
cảm thương đối với dân nghèo, nên đã khơng
ít lần sử dụng phép thuật để giúp dân chống
giặc, cứu nước… Vì thế, Thánh Mẫu Liễu
Hạnh được phong là một trong Tứ bất tử của
Việt Nam. Hình ảnh những người phụ nữ
hiên ngang nơi trận mạc như Hai Bà Trưng,
Triệu Thị Trinh, đô đốc Bùi Thị Xuân và
hàng ngàn những nữ anh hùng khác, đã tô
đẹp hơn cho giá trị của người phụ nữ Việt
Nam. Trong gia đình họ là những người mẹ,
người vợ đảm đang, bao dung, nơi trận mạc
họ là những vị anh hùng.
4. KẾT LUẬN
Tóm lại, tư tưởng về vai trị của người phụ
nữ trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt
vùng đồng bằng Bắc Bộ được phản ánh rõ
nét trên nhiều khía cạnh. Đó là vai trị về
thiên chức làm mẹ của người phụ nữ góp
phần duy trì nịi giống cho gia đình, đất nước;
là vai trị của người phụ nữ xưa kia trong lao
động sản xuất, trong cuộc đấu tranh chống lại
những luật lệ hà khắc của xã hội phong kiến
đương thời. Đồng thời, tư tưởng đó cịn là vai
trị của người phụ nữ trong cuộc đấu tranh
chống giặc ngoại xâm. Qua đó, tín ngưỡng thờ
Mẫu đã khắc họa rõ nét về hình ảnh người phụ
nữ với những giá trị nhân văn và phản ánh
những khát vọng chính đáng của họ.
5. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập (1998),
t.46, ph.I, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[2] Nguyễn Đăng Duy (2001), Các hình thái tín
ngưỡng tơn giáo ở Việt Nam, NXB. Văn hố
thơng tin, Hà Nội.
[3] Nguyễn Đức Lữ (chủ biên) (2007), Góp
phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt
nam, NXB. Tôn giáo, Hà Nội.
[4] Trần Thế Pháp (2017), Lĩnh nam chích quái,
NXB. Kim Đồng, Hà Nội.
[5] Ngơ Đức Thịnh (2001), Tín ngưỡng và văn
hố tín ngưỡng ở Việt Nam, NXB. Khoa
học xã hội, Hà Nội.
[6] Nguyễn Hữu Thụ (2013), Khía cạnh triết
học trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người
Việt ở đồng bằng Bắc Bộ, Luận án Tiến sĩ
Triết học, Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, ĐHQG Hà Nội.
296