Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Ảnh hưởng của đại dịch covid 19 đến lối sống và sự sợ hãi qua ý kiến trả lời trực tuyến của người dân việt nam năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 94 trang )

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH

BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP CƠ SỞ

TÊN ĐỀ TÀI
ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠI DỊCH COVID-19 ĐẾN LỐI SỐNG VÀ SỰ SỢ HÃI
QUA Ý KIẾN TRẢ LỜI TRỰC TUYẾN CỦA NGƯỜI DÂN
VIỆT NAM NĂM 2020

Tên chủ nhiệm đề tài:
Lê Thanh Tùng

Nam Định - 2022


BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH

BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP CƠ SỞ

TÊN ĐỀ TÀI
ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠI DỊCH COVID-19 ĐẾN LỐI SỐNG VÀ SỰ SỢ HÃI
QUA Ý KIẾN TRẢ LỜI TRỰC TUYẾN CỦA NGƯỜI DÂN
VIỆT NAM NĂM 2020

Tên chủ nhiệm đề tài:
Lê Thanh Tùng

Nam Định - 2022



DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA NGHIÊN CỨU
Tỷ lệ % thời
TT

Họ và tên

Đơn vị công tác

gian làm việc
cho đề tài

Chủ tịch hội đồng Trường

50%

TS Nguyễn Thị Minh Chính

Trung tâm THTLS

10%

3.

ThS Nguyễn Thị Khánh

Trung tâm THTLS

10%


4.

ThS Trần Thị Hồng Hạnh

Trung tâm THTLS

10%

5.

ThS Nguyễn Thị Thanh Hường

Bộ môn Quản lý và NCĐD

10%

6.

ThS Nguyễn Trường Sơn

Bộ môn y học cổ truyền

10%

1.

PGS.TS. Lê Thanh Tùng

2.



MỤC LỤC
1. ĐẶT VẤN ĐỀ ........................................................................................................................ 1
MỤC TIÊU ................................................................................................................................. 3
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ......................................................................................... 4
1.1. Khái quát về COVID-19 .................................................................................................. 4
1.2. Thực trạng...................................................................................................................... 11
1.3. Ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 đến sức khỏe và sự sợ hãi ...................................... 13
1.4. Khung nghiên cứu ......................................................................................................... 14
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................ 16
2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu: ............................................................... 16
2.2. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................... 16
2.2.1. Thiết kế ................................................................................................................... 16
2.2.2. Mẫu và phương pháp chọn mẫu ............................................................................. 18
2.2.3. Phương pháp và công cụ thu thập số liệu .............................................................. 18
2.2.4. Các biến số nghiên cứu .......................................................................................... 20
2.2.5. Phương pháp phân tích số liệu ............................................................................... 22
2.2.6. Vấn đề đạo đức của nghiên cứu ............................................................................. 23
2.2.7. Hạn chế của nghiên cứu ......................................................................................... 23
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ....................................................................................................... 24
3.1. Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu ................................................................... 24
3.2 Ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 đến sức khỏe của người dân Việt Nam ................ 25
3.2.1 Kiến thức liên quan đến COVID-19 ........................................................................ 25
3.2.2 Tình trạng COVID-19.............................................................................................. 26
3.2.3 Lối sống trong đại dịch COVID-19 ......................................................................... 26
3.2.4 Tác động của đại dịch COVID-19 ........................................................................... 28
3.3 Mức độ sợ hãi với đại dịch COVID-19 trên cộng đồng người dân Việt Nam ............... 30
3.3.1 Yếu tố sợ hãi ............................................................................................................ 30
Bảng 3.9. Mức độ sợ hãi với các yếu tố nếu xảy ra.............................................................. 30
3.3.2 Mức độ sợ hãi covid-19 ........................................................................................... 31

3.3.3 Mức độ mất kiểm soát .............................................................................................. 31
3.3.4 Mức độ lo lắng, trầm cảm ....................................................................................... 32
3.3.5 Các yếu tố ảnh hưởng đến sự sợ hãi của người dân ............................................... 32
3.4. Đánh giá tầm quan trọng của sự chuẩn bị cho tương lai ............................................... 33
Chương 4 .................................................................................................................................. 34
BÀN LUẬN.............................................................................................................................. 34
4.1. Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu ................................................................... 34
4.2 Ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 đến sức khỏe của người dân Việt Nam ................ 35
4.3 Mức độ sợ hãi với đại dịch COVID-19 trên cộng đồng người dân Việt Nam ............... 38


4.4. Đánh giá tầm quan trọng của sự chuẩn bị cho tương lai ............................................... 40
KẾT LUẬN .............................................................................................................................. 41
5.1 Ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 đến sức khỏe của người dân Việt Nam ................ 41
5.2. Mức độ sợ hãi với đại dịch COVID-19 trên cộng đồng người dân Việt Nam .............. 41
KIẾN NGHỊ.............................................................................................................................. 42
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................................ 43
PHỤ LỤC 1: BỘ CÂU HỎI ..................................................................................................... 48
PHỤ LỤC 2: BẢN ĐÁNH GIÁ NGÔN NGỮ SAU DỊCH BỘ CÔNG CỤ ........................... 66
PHỤ LỤC 3: BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ NGÔN NGỮ ............................................................... 76
PHỤ LỤC 4: ĐÁNH GIÁ TÍNH GIÁ TRỊ NỘI DUNG CỦA BỘ CÔNG CỤ ....................... 78


DANH MỤC BẢNG
Tên bảng

Trang

Bảng 2.1. Các biến số trong nghiên cứu


20

Bảng 3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu

24

Bảng 3.2. Thực trạng nhận thức, kiến thức liên quan đến COVID-19

25

Bảng 3.3. Mức độ kiến thức đầy đủ về vi rút chủng mới

26

Bảng 3.4. Tình trạng COVID-19

26

Bảng 3.5. Lối sống trong đại dịch COVID-19

26

Bảng 3.6. Thời gian trung bình của các hoạt động trong ngày

27

Bảng 3.7. Tác động của đại dịch COVID-19 đến lối sống

28


Bảng 3.8. Tác động của đại dịch COVID-19 đến sức khỏe và các vấn đề khác

29

Bảng 3.9. Mức độ sợ hãi với các yếu tố nếu xảy ra

30

Bảng 3.10. Mức độ sợ hãi khi sống trong đại dịch COVID-19

31

Bảng 3.11. Mức độ tiếp cận thông tin trên Internet

31

Bảng 3.12. Mức độ mất kiểm soát

31

Bảng 3.13. Mức độ lo lắng, trầm cảm

32

Bảng 3.14. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự sợ hãi của người dân

32

Bảng 3.15. Mức độ tầm quan trọng của các vấn đề cần chuẩn bị cho tương lai


33


DANH MỤC SƠ ĐỒ, HÌNH ẢNH
Tên sơ đồ, hình ảnh

Trang

Sơ đồ 1.1. Khung lý thuyết của nghiên cứu

15

Sơ đồ 2.1. Sơ đồ quy trình nghiên cứu

16


1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đại dịch COVID-19 do Virus Corona chủng mới gây nên đã bùng phát tại Vũ
Hán từ tháng 12 năm 2019 sau đó lan ra hơn 200 quốc gia trên toàn thế giới. COVID19 là một trong những bệnh lây lan nhanh và dễ lây lan nhất trong lịch sử [1]. Theo
Cục y tế dự phịng, tính đến 15/5/2021 thế giới hiện ghi nhận hơn 1621,6 triệu ca
nhiễm Covid-19, trong đó có gần 3,3 triệu ca tử vong, trong khi đó tại Việt Nam tổng
số tích lũy ca mắc COVID-19 cả nước là 3.985 trường hợp và có 35 trường hợp tử
vong [2]. Làn sóng thứ 3 của đại dịch tại Việt Nam bùng phát từ tháng 1/2021 do biến
chủng Delta của COVID-19 đã tác động phức tạp đến mọi mặt đời sống xã hội.
Tại thời điểm đó, cả thế giới đã và đang nỗ lực hết sức để nghiên cứu thuốc để
điều trị Covid-19, trong khi độ phủ vắc-xin của nước ta khơng cao, chính phủ lựa chọn
chính sách Zero Covid để ứng phó [3]. Do đó, Việt Nam cũng như một số quốc gia
khác vẫn thực hiện các biện pháp phịng ngừa y tế cơng cộng một cách nghiêm ngặt,
nhằm giảm thiểu tỷ lệ mắc, mức độ lây lan, và tỷ lệ tử vong do COVID-19. Về mặt

chính sách, nhiều quốc gia đã hạn chế đi lại ở các vùng bị ảnh hưởng [4] với những
nơi bùng phát nghiêm trọng thậm chí đã ngừng hoặc hạn chế giao thông, cấm hoặc hạn
chế giờ mở cửa của các nhà hàng hoặc doanh nghiệp có nguy cơ lây nhiễm cao, cách
ly xã hội hoặc cách ly hàng loạt [2]. Bên cạnh đó, người dân đã ý thức trang bị nhiều
biện pháp phòng ngừa như sử dụng khẩu trang bảo vệ, vệ sinh tay, ho đúng cách, lau
dọn, giặt giũ,.. và tránh các hoạt động xã hội không cần thiết [5].
Đối mặt với những thay đổi đột ngột và kéo dài như vậy cùng với mối đe dọa
nhiễm COVID-19 và các biến chứng của nó có thể sẽ có tác động sâu sắc đến các vấn
đề liên quan đến sức khỏe của mỗi người trên khắp thế giới. Thực tế, một số người dân
có thể có cảm giác sự tận thế trong suốt thời gian kinh hoàng này. Một số người xem
thời điểm này là khoảng thời gian thảm khốc nhất họ từng trải qua. Do đó, đại dịch
COVID-19 đã làm suy giảm nghiêm trọng sức khỏe tâm thần và tác động lớn đến tâm
lý xã hội. Hiện nay, đã có một số nghiên cứu về các ảnh hưởng của COVID-19 đối với
người dân tại một số quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu các dữ liệu về
những tác động liên quan đến sức khỏe đã gây ra bởi đại dịch COVID-19 tại Việt
Nam.
Trải qua một năm kể từ khi vi rút chủng mới được phát hiện, Việt Nam đã tích
cực triển khai các biện pháp phòng chống dịch như thực hiện các biện pháp cách ly y

1


tế và tuyên truyền để người dân thực hiện tốt “thông điệp 5K” (Khẩu trang – Khử
khuẩn – Khoảng cách – Không tập trung – Khai báo y tế). Do đó, mọi người dân Việt
Nam giờ đã có trải nghiệm tương đối đầy đủ về đại dịch và đây là thời điểm hợp lý để
đánh giá mức độ ảnh hưởng của COVID-19 đến các vấn đề liên quan đến sức khỏe của
chúng ta như thế nào. Hơn nữa, các chuyên gia y tế cơng cộng cho rằng COVID vẫn
có thể kéo dài trong những năm tới, vì thế, điều quan trọng đối với chúng ta là xác
định cách bản thân chuẩn bị cần như thế nào để có thể đối phó tốt hơn với đại dịch.
Xuất phát từ những thực tế trên, nhóm nghiên cứu thực hiện nghiên cứu đề tài

“Đánh giá ảnh hưởng của covid-19 đối với sức khỏe và sự sợ hãi của người dân Việt
Nam năm 2020”.

2


MỤC TIÊU
Nhóm nghiên cứu thực hiện nghiên cứu đề tài “Đánh giá ảnh hưởng của đại
dịch covid-19 đối với sức khỏe và nỗi sợ hãi của người dân việt nam năm 2020” với 2
mục tiêu sau:
1. Đánh giá ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 đến sức khỏe qua ý kiến trả lời trực
tuyến của người dân Việt Nam năm 2020.
2. Xác định mức độ sợ hãi với đại dịch COVID-19 qua ý kiến trả lời trực tuyến của
người dân Việt Nam năm 2020.

3


Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Khái quát về COVID-19
1.1.1. Khái niệm về COVID-19
Bệnh virus corona 2019 hay COVID-19 (tiếng Anh: Coronavirus disease 2019)
[6] là một bệnh đường hô hấp cấp tính truyền nhiễm gây ra bởi chủng virus corona
SARS-CoV-2. Bệnh được phát hiện lần đầu tiên trong Đại dịch COVID-19 năm 2019–
2020.
Ngày 11 tháng 2 năm 2020, Tổ chức Y tế Thế giới đã đặt tên chính thức cho
bệnh này là COVID-19, còn loại virus gây ra bệnh được gọi chính thức là SARS-CoV2. Người đứng đầu Tổ chức Y tế Thế giới Tedros Adhanom cho biết “CO” là viết tắt
của "corona", "VI" viết tắt của "virus", "D" là viết tắt của "disease" (bệnh) và "19" là
viết tắt của năm "2019", vì dịch bệnh lần đầu tiên được xác định vào cuối tháng 12
năm 2019 [6].

Coronavirus có cấu trúc là một hình cầu với đường kính khoảng 125nm. Đặc
điểm nổi bật nhất của coronavirus các protein bề mặt lồi ra thành các gai. Bên trong vỏ
của virion là nucleocapsid sợi đơn dương đối xứng xoắn ốc.
Các hạt virus Coronavirus chứa bốn protein cấu trúc chính. Đây là các protein
spike (S), màng (M), vỏ (E) và nucleocapsid (N), tất cả đều được mã hóa trong đầu 3′
của bộ gen virus. Protein S có trọng lượng khoảng 150 kDa đa số gồm hai tiểu phần S1
hình cầu ở đầu và S2 là phần cuống, tạo nên cấu trúc gai đặc biệt trên bề mặt của virus
và có vai trị trung gian gắn vào thụ thể chủ của tế bào vật chủ. Protein M là protein
cấu trúc chính của màng virus khiến virion có hình cầu. Protein E (8 -12 kDa) nằm
trên vỏ virus và có vai trị chính trong việc lắp ráp và giải phóng virus. Protein N tồn
tại trong nucleocapsid và có vai trị liên kết bộ gen virut thành cấu trúc kiểu chuỗi hạt
để đóng gói bộ gen thành các hạt virus. Ngồi 4 protein chính trên, cịn có protein phi
cấu trúc hemagglutinin-esterase (HE), có vai trị tăng cường sự xâm nhập của virus
qua trung gian protein S và giúp virus xâm nhập vào tế bào niêm mạc. Các protein phi
cấu trúc khác có vai trị trong đảm bảo các hoạt động của virus [7].
1.1.2. Cơ chế nhân lên trong vật chủ của SARS-CoV-2 [8-10]
Khi xâm nhập vào vật chủ, protein S gắn vào thụ thể của nó trên bề mặt màng tế
bào niêm mạc đường hô hấp của vật chủ. Đa số các coronavirus sử dụng peptidase làm
thụ thể tế bào của chúng. SARS-CoV và HCoV-NL63 sử dụng men chuyển

4


angiotensin 2 (ACE2) làm thụ thể của chúng, còn MERS-CoV dùng peptidase 4
(DPP4) để làm thụ thể xâm nhập vào tế bào người. Sự thay đổi di truyền virus làm
thay đổi khả năng gắn kết thụ cảm thể và thay đổi vật chủ của chúng.
Bước tiếp theo sau khi xâm nhập tế bào vật chủ là dịch mã gen sao chép từ
RNA gen của virion. Đầu tiên chúng tổng hợp ra sợi ARN thơng tín để tổng hợp ra các
protein cấu trúc và phi cấu trúc để đảm bảo các hoạt động tiếp của virus, tiếp đó chúng
tạo ra một sợi ARN âm đóng vai trị khn mẫu để tổng hợp tiếp cái sợi ARN dương

con. Sau quá trình sao chép và tổng hợp RNA thế hệ con, các protein cấu trúc virut S,
E và M được chuyển vào lưới nội bào (ER) và di chuyển vào khoang trung gian
reticulum-Golgi (ERGIC). Ở đó, bộ gen của virut được bao bọc bởi protein N thành
các Nucleocapsid. Protein M phối hợp với protein E tích hợp vào màng của ERGIC
thành lớp vỏ virus gắn bọc lấy Nucleocapsid tạo ra các hạt giống virus (VLP). Sau đó
protein S gắn vào lớp màng của VLP thành các hạt virion trưởng thành.
Sau khi lắp ráp, virion được vận chuyển đến bề mặt tế bào trong các túi và được
giải phóng bởi exocytosis. Trong một số trường hợp protein S không được gắn vào
màng virion đưa đến bề mặt tế bào nên khơng trình diện kháng nguyên để tạo miễn
dịch. Điều này dẫn đến sự hình thành của các tế bào đa nhân khổng lồ, cho phép virus
lây lan và tồn tại trong cơ thể bị nhiễm bệnh mà không bị hệ miễn dịch phát hiện hoặc
bị vơ hiệu hóa bởi các kháng thể đặc hiệu.
1.1.3. Thời gian ủ bệnh, thời gian sống và lây lan covid-19 [11-13]
Đối với coronavirus, các chủng virus Corona chẳng hạn như MERS và SARS
có thời gian ủ bệnh khoảng 2-11 ngày. Giống như các bệnh về đường hô hấp khác, sau
khi hết giai đoạn ủ bệnh, người nhiễm Coronavirus sẽ xuất hiện các triệu chứng gồm
sổ mũi, đau họng, ho và sốt… Bệnh có thể diễn tiến nặng ở một số người khi gây ra
viêm phổi cấp. Nguy hiểm hơn, Covid-19 có thể nhanh chóng gây tử vong cho đối
tượng nguy cơ cao như người già, người mắc bệnh mạn tính (tiểu đường, tim mạch,
ung thư, viêm phổi tắc nghẽn mãn tính COPD…).
Đối với chủng mới, viêm đường hơ hấp cấp do virus Corona chủng mới có thể
xuất hiện các triệu chứng sau thời gian ủ bệnh kéo dài từ 2 đến 14 ngày, trung bình là
5 ngày. Trong thời gian này, virus vẫn có thể truyền bệnh cho người khác. Mặc dù
vậy, nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, sẽ có một số ít trường hợp thời gian ủ bệnh
Sars-Cov 2 có thể kéo dài hơn 14 ngày.

5


Thời gian ủ bệnh được Tổ chức Y tế Thế giới ước tính từ 2 đến 10 ngày, và 2

đến 14 ngày bởi Trung tâm Kiểm sốt và Phịng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) [14].
Tùy theo môi trường, nhiệt độ, độ ẩm mà virus Corona có khả năng sống khác
nhau. Các nghiên cứu cho thấy ở 40C, virus Corona có khả năng sống khoảng 1 tháng.
Từ 20-250C virus sẽ yếu dần, sống được khoảng 5-7 ngày. Từ 330C trở lên, virus
Corona suy yếu nhanh, ít có khả năng gây bệnh. Tia cực tím UV và các dung dịch khử
trùng y tế thơng thường có thể diệt được virus trong vịng 60 phút.
Virus Corona có thể tồn tại ở các giọt nước lơ lửng trong khơng khí ở nhiệt độ
bình thường lên đến 3 tiếng sau khi bắn ra từ một cái ho. Virus Corona sống lâu nhất
trên chất liệu nhựa và thép, tồn tại đến khoảng 3 ngày, tuy nhiên lượng virus bám trên
bề mặt sẽ giảm dần theo thời gian.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng cách thức lây nhiễm chủ yếu của SARS-CoV-2 là
thông qua tiếp xúc với dịch hô hấp mang virus gây bệnh theo ba đường (giọt bắn, tiếp
xúc và khơng khí).
(1) Lây truyền qua đường giọt bắn
Dịch hô hấp từ người được phát tán ra mơi trường bên ngồi trong q trình thở
ra (nói chuyện, hát, tập thể dục, ho, hắt hơi) dưới dạng các giọt bắn với nhiều kích cỡ
khác nhau. Người đứng gần với người bệnh trong phạm vi 2m có thể bị các giọt bắn
này văng vào niêm mạc mắt, mũi, miệng thơng qua các hoạt động như ăn uống, nói
chuyện, …
(2) Lây truyền qua đường tiếp xúc
Lây truyền qua đường tiếp xúc là phương thức lây truyền phổ biến nhất. Các
giọt nước bọt hoặc dịch chảy ra từ mũi người bệnh có thể bám vào tay người bệnh rồi
tiếp tục bám vào các vị trí khác như tay nắm cửa, tay vịn cầu thang, nút bấm thang
máy, xe đẩy… Virus sẽ bám vào tay người khác nếu người đó chạm vào các vị trí mà
tay người bệnh chạm vào. Virus từ bàn tay xâm nhập vào niêm mạc miệng, mắt, mũi
nếu người tiếp xúc đưa tay lên mặt.
(3) Lây truyền qua đường khơng khí
Khi người bệnh ho hoặc hắt hơi, bắn ra những giọt đờm và dịch nhầy mang
virus với kích thước lớn nhỏ khác nhau. Những hạt aerosol có kích thước quá nhỏ để
lắng xuống theo trọng lực nên những hạt này được các dịng khơng khí mang đi và

phát tán nhờ vào sự khuếch tán và nhiễu loạn khơng khí. Các giọt lớn lắng đọng ở

6


đường hô hấp trên rồi bị đào thải qua dịch tiết mũi hoặc nhờ vào lớp biểu mô rung của
niêm mạc đường hơ hấp để đào thải ra ngồi hoặc nuốt xuống họng. Ngược lại, những
hạt siêu nhỏ có thể xâm nhập vào sâu trong phổi và lắng đọng tại phế nang.
1.1.4. Dấu hiệu và triệu chứng [15]
Những người bị nhiễm bệnh có thể khơng có triệu chứng hoặc có các triệu
chứng cơ năng từ nhẹ đến nặng, như sốt, ho và khó thở. Tiêu chảy hoặc các triệu
chứng ở đường hơ hấp trên (ví dụ như hắt hơi, sổ mũi, đau họng) ít gặp hơn. Một số
trường hợp ở Trung Quốc ban đầu chỉ xuất hiện với đau ngực và đánh trống ngực. Vào
tháng 3 năm 2020, các báo cáo nổi lên chỉ ra rằng mất khứu giác có thể là triệu chứng
phổ biến ở những người mắc bệnh nhẹ, mặc dù không phổ biến như báo cáo ban đầu.
Tuy nhiên, theo Trung tâm Kiểm sốt và Phịng ngừa dịch bệnh Mỹ (CDC), 25% số
người bệnh có thể khơng có triệu chứng gì hoặc triệu chứng khơng rõ ràng.
Các triệu chứng được báo cáo gồm sốt trong 90% trường hợp mắc bệnh, mệt
mỏi và ho khan trong 80% trường hợp, 20% bị khó thở và suy hơ hấp chiếm 15%. Xquang ngực đã tiết lộ các dấu hiệu ở cả hai phổi. Dấu hiệu sống nhìn chung là ổn định
vào thời điểm nhập viện của những bệnh nhân. Các xét nghiệm máu thường cho thấy
số lượng bạch cầu thấp (giảm bạch cầu và giảm bạch cầu lympho). Nhiều bệnh nhân
cịn có thể gặp các biểu hiện ngồi da, đặc biệt là ở các ngón chân.
Một số người có thể gặp phải một loạt các triệu chứng mới hoặc tiếp diễn có thể
kéo dài hàng tuần hay hàng tháng kể từ lần đầu tiên bị nhiễm vi-rút gây bệnh COVID19. Không giống như một số loại hội chứng hậu COVID khác có xu hướng chỉ xảy ra
ở những người đã bị bệnh nặng, những triệu chứng này có thể xảy ra với bất kỳ ai đã
bị COVID-19, ngay cả khi bị bệnh nhẹ, hoặc nếu họ khơng có triệu chứng ban đầu.
Mọi người thường báo cáo rằng họ có các triệu chứng khác nhau sau đây:


Khó thở hoặc hụt hơi




Mệt mỏi hay chóng mặt



Các triệu chứng sẽ trầm trọng hơn sau các hoạt động thể chất hoặc tinh thần
(hay còn gọi là tình trạng khó chịu sau khi gắng sức)



Khó suy nghĩ hay tập trung (đơi khi cịn được gọi là "sương mù não")



Ho



Đau ngực hoặc dạ dày



Đau đầu

7





Tim đập nhanh hoặc đập thình thịch (cịn được gọi là trống ngực)



Đau cơ hay khớp



Cảm giác tê râm ran



Tiêu chảy



Gặp vấn đề về giấc ngủ



Sốt



Chóng mặt khi đứng dậy (chống váng)



Phát ban




Thay đổi tâm trạng



Thay đổi về vị giác và khứu giác



Thay đổi về chu kỳ kinh nguyệt.

1.1.4. Chẩn đốn [6]
WHO đã cơng bố một số giao thức xét nghiệm cho SARS-CoV-2 . Phương
pháp xét nghiệm cơ bản là sử dụng phương pháp phản ứng tổng hợp chuỗi polymerase
thời gian thực kết hợp phản ứng sao chép ngược (rRT-PCR), thường cho kết quả từ vài
giờ cho đến hai ngày. Xét nghiệm có thể được thực hiện trên mẫu dịch hơ hấp hoặc
máu. Kết quả thường có trong vịng một vài giờ đến vài ngày. Các nhà khoa học Trung
Quốc đã phân lập được một chủng coronavirus và công bố trình tự gen để các phịng
thí nghiệm trên tồn thế giới có thể độc lập phát triển các phương thức xét nghiệm
PCR để phát hiện các trường hợp nhiễm virus.
Hướng dẫn chẩn đoán được phát hành bởi Bệnh viện Trung Nam của Đại học
Vũ Hán đã đề xuất các phương pháp phát hiện nhiễm virus dựa trên các đặc điểm lâm
sàng và rủi ro dịch tễ học. Những bệnh nhân này liên quan đến việc xác định bệnh
nhân có ít nhất hai trong số các triệu chứng sau đây ngoài tiền sử có đi du lịch đến Vũ
Hán hoặc tiếp xúc với các bệnh nhân bị nhiễm khác: sốt, các đặc điểm của viêm phổi,
số lượng bạch cầu bình thường hoặc giảm hoặc giảm số lượng tế bào lympho.
Một số phương pháp cận lâm sàng để chẩn đoán Covid-19:
(1) Chẩn đoán bằng xét nghiệm sinh học phân tử

Xét nghiệm phân tử (molecular tests), thường sử dụng là phản ứng chuỗi
polymerase sao chép ngược thời gian thực rRT-PCR (real-time reverse transcription
polymerase chain reaction), giúp phát hiện virus ở người bị nhiễm được dựa trên việc
phát hiện RNA của SARS-CoV-2 lấy từ dịch tiết mũi họng.

8


Xét nghiệm phân tử có khả năng giúp phát hiện những người bị nhiễm SARSCoV-2, kết quả dương tính được xem là bị nhiễm virus này và có khả năng truyền
bệnh, nếu kết quả âm tính là khơng bị nhiễm SARS-CoV-2 hoặc có thể đã khỏi bệnh.
Xét nghiệm phân tử là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán SARS-CoV-2. Tuy nhiên, xét
nghiệm này khơng cho biết một người có miễn dịch với nhiễm virus trong quá khứ hay
chưa bị phơi nhiễm và vẫn cịn nguy hiểm.
(2) Chẩn đốn bằng xét nghiệm kháng thể chống SARS-CoV-2 IgM và IgG
Các xét nghiệm phát hiện miễn dịch dựa trên phát hiện định tính IgM và IgG
được cơ thể tạo ra trong đáp ứng với nhiễm SARS-CoV-2. Xét nghiệm nhanh sắc ký
miễn dịch (rapid immunochromatography test) được chế tạo để phát hiện định tính
(qualitative) kháng thể đặc hiệu chống SARS-CoV-2. IgM và IgG có trong máu, huyết
thanh hoặc huyết tương của người bị nhiễm SARS-CoV-2.
Xét nghiệm kháng thể trong bệnh COVID-19 không xác nhận sự hiện diện của
virus trong cơ thể, chúng chỉ cho biết bệnh nhân đang hoặc đã từng bị nhiễm với
SARS-CoV-2. Do đó, xét nghiệm này chỉ nên được sử dụng để sàng lọc và nên được
sử dụng cùng với với xét nghiệm phân tử để xác định tình trạng bệnh COVID-19 một
cách tồn diện.
(3) Chẩn đốn bằng xét nghiệm kháng ngun
Xét nghiệm phát hiện kháng nguyên mới của SARS-CoV-2 dựa trên nguyên tắc
miễn dịch gắn enzym kháng thể kép (double antibody sandwich enzyme-linked
immunoassay). Xét nghiệm kháng nguyên hiện chưa có các sản phẩm cho sử dụng lâm
sàng.
1.1.5. Dự phòng và điều trị COVID-19

Các tổ chức y tế trên toàn Thế giới đã cơng bố các biện pháp phịng ngừa để
giảm nguy cơ bị lây nhiễm SARS-CoV-2. Các khuyến nghị tương tự như các khuyến
nghị được công bố cho các virus corona khác và bao gồm: rửa tay thường xuyên bằng
xà phòng và nước; không chạm vào mắt, mũi hoặc miệng bằng tay chưa rửa sạch; và
thực hành vệ sinh đường hô hấp tốt, giữ khoảng cách với người có biểu hiện ho, hắt
hơi. Những người nghĩ rằng mình có khả năng đang mang virus nên đeo khẩu trang
phẫu thuật và tìm kiếm trợ giúp y tế bằng cách gọi cho bác sĩ hơn là đến cơ sở y tế
[16].

9


Để ngăn ngừa lây truyền, CDC khuyến nghị những người nhiễm bệnh nên ở
nhà, ngoại trừ cần được chăm sóc y tế; gọi điện trước khi đến nơi cung cấp dịch vụ
chăm sóc sức khỏe; đeo khẩu trang (đặc biệt là ở nơi công cộng); che chắn miệng khi
ho và hắt hơi bằng cách gập khuỷu tay lại hoặc dùng khăn giấy; thường xuyên rửa tay
bằng xà phòng và nước; tránh dùng chung vật dụng cá nhân. Người bị nhiễm virus và
những người chăm sóc cho bệnh nhân nhiễm virus buộc phải mang khẩu trang theo
quy định, nhưng không yêu cầu với người bình thường trong cộng đồng [16].
Khuyến cáo phòng ngừa dịch bệnh của Bộ Y tế Việt Nam: [17]
- Duy trì vệ sinh sạch sẽ hàng ngày: lau nền nhà, bề mặt dụng cụ, tay nắm cửa
bằng chất sát khuẩn thông thường.
- Không tổ chức hoạt động đông người tại gia đình, nơi lưu trú.
- Khơng đi du lịch đến vùng có dịch bệnh. Hạn chế đến nơi đơng người, nếu
cần thiết thì đeo khẩu trang, rửa tay thường xuyên và đúng cách.
- Che miệng và mũi khi ho hoặc hắt hơi, tốt nhất bằng khăn vải hoặc khăn tay
hoặc ống tay áo để giảm phát tán các dịch tiết đường hô hấp. Không khạc nhổ bừa bãi
nơi công cộng. Tránh chạm tay vào mắt, mũi, miệng sau khi ho hoặc hắt hơi.
- Tăng cường thơng khí nhà ở.
- Tránh mua bán tiếp xúc với các loài động vật hoang dã.

- Giữ ấm cơ thể, ăn thức ăn đã được nấu chín kỹ, đủ chất, nghỉ ngơi, sinh hoạt
hợp lý, rèn luyện thể thao, tăng cường vệ sinh cá nhân. rửa tay bằng nước rửa tay 30s
một lần, một lần rửa tay kéo dài tối thiểu 20 giây.
- Nếu có bất kỳ hiện tượng, triệu chứng bất thường xảy ra ở cơ thể giống như
triệu chứng của bệnh, hãy lập tức đến ngay cơ sở y tế uy tín để được khám và cách ly
kịp thời. Chú ý khai báo thành khẩn lịch trình di chuyển trong vịng 14 ngày vừa qua
để các bác sĩ nắm được.
SARS-CoV-2 chưa có thuốc điều trị hoặc vacxin đặc hiệu, mặc dù những nỗ lực
để phát triển chúng đang được tiến hành. Cơng ty sinh học Vir có trụ sở tại San
Francisco đang đánh giá xem các kháng thể đơn dòng (mAbs) được xác định trước đó
có hiệu quả chống lại virus hay không.
Gilead Science khuyến cáo dùng các loại thuốc kháng virus để điều trị covid 19,
bao gồm remdesivir, indinavir, saquinavir, lopinavir/ritonavir và interferon beta.

10


1.2. Thực trạng
1.2.1. Thực trạng COVID-19 [6]
Căn bệnh này lần đầu tiên được xác định bởi các cơ quan y tế tại thành phố Vũ
Hán, thủ phủ của tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc, trong số những bệnh nhân bị viêm phổi
khơng rõ ngun nhân. Nó đã gây ra sự báo động do khơng có bất kỳ loại vắc-xin hiệu
quả cũng như bất kỳ liệu pháp điều trị bằng thuốc chống virus nào và sự lây lan tương
đối nhanh chóng của nó trên tồn cầu, từ lần phát hiện đầu tiên vào đầu tháng 1 năm
2020. Tỷ lệ tử vong ca bệnh được ước tính vào khoảng 1-3%.
Tổ chức Y tế Thế giới đã tuyên bố dịch viêm phổi do virus corona mới (NCP)
là một tình huống khẩn cấp y tế toàn cầu (PHEIC) kể từ ngày 30 tháng 1 năm 2020 và
là một đại dịch kể từ ngày 11 tháng 3 năm 2020,[11] dựa trên các tác động của virus
đối với các nước nghèo, những nơi có cơ sở hạ tầng chăm sóc sức khỏe yếu kém hơn.
Các ca nhiễm virus đã được báo cáo trên khắp thế giới phương Tây và châu Á-Thái

Bình Dương, chủ yếu là các du khách có nguồn gốc từ Trung Quốc đại lục, với sự
truyền bệnh tại địa phương cũng được báo cáo ở các quốc gia như Đức. Tính tới hết
tháng 12 năm 2020, thế giới đã ghi nhận 82 triệu trường hợp nhiễm COVID-19 được
ghi nhận tại 220 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Những ca tử vong đã được
báo cáo ở hầu hết các nước trên thế giới. Kể từ ngày 29 tháng 12 năm 2020, biến thể
mới của SARS-CoV-2 VUI - 202012/01 đã lần đầu được phát hiện tại Đức và nhanh
chóng được ghi nhận ở 8 nước châu Âu [1].
Theo WHO, tính đến ngày 30/9/2021 đã có hơn 215 quốc gia, vùng lãnh thổ
trên thế giới đã ghi nhận ca mắc COVID-19. Thế giới có 234.157.620 người nhiễm
COVID-19 là, số ca bị tử vong là 4.790.062 người, 18.415.627 đang điều trị (90.529
ca diễn biến nặng) và số bệnh nhân được điều trị khỏi là 210.951.931 người (WHO,
2021). Quốc gia chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất là Mỹ với gần 744.398 ca tử vong
trong tổng số 45,968,940 triệu ca mắc. Tiếp đó là Ấn Độ với trên 459.873 ca tử vong
trong số 34.333.754 ca mắc. Brazil đứng thứ 3 với 608.235 ca tử vong trong số
21.835.785ca mắc. Trung Quốc có số ca nhiễm là 126.471 người, với 5.696 ca tử
vong. Tại Việt Nam, tính đến cuối tháng 9 năm 2021 dịch COVID-19 lan ra hầu hết
các tỉnh, thành phố. Kể từ đầu mùa dịch đến nay Việt Nam có 790.755 ca nhiễm, đứng
thứ 44/223 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong khi với tỷ lệ số ca nhiễm/1 triệu dân, Việt
Nam đứng thứ 154/223 quốc gia và vùng lãnh thổ (bình qn cứ 1 triệu người có 8.034

11


ca nhiễm). Đại dịch này gây ra mối đe dọa lớn đến sức khỏe thể chất và tinh thần của
con người và tác động đáng kể đến cuộc sống hàng ngày với những tác động tâm lý xã
hội trên phạm vi toàn cầu. [2].
1.2.2. Hậu quả, ảnh hưởng của COVID-19
Ảnh hưởng về tâm lý có thể được gây nên bởi cảm giác bị mắc kẹt trong vụ
dịch, bị hạn chế đi lại và bị cô lập [18]. Vào cuối tháng 1 năm 2020, Ủy ban Y tế Quốc
gia Trung Quốc đã cơng bố hướng dẫn cho tồn quốc về việc can thiệp khủng hoảng

tâm lý cho SARS-CoV-2, chăm sóc sức khỏe tâm lý cho những người bị ảnh hưởng
hoặc có liên hệ chặt chẽ với SARS-CoV-2, những người bị cô lập tại nhà, gia đình và
bạn bè của những người bị ảnh hưởng, nhân viên y tế và công chúng [18] [19]. Một
vài nghiên cứu gần đây đã điều tra tác động của COVID-19 lên tâm lý và xã hội của
các cá nhân và các nhóm. Zhang và cộng sự đã điều tra tác động xã hội, tác động sức
khỏe tâm thần và chất lượng cuộc sống ở một tỉnh của Trung Quốc [4]. Tác động căng
thẳng nhẹ đã thấy trên các người dân sau một tháng bị cách ly xã hội. Tuy nhiên, họ đã
báo cáo rằng sự hỗ trợ xã hội gia tăng từ các thành viên gia đình và bạn bè, cũng như
sự gắn kết xã hội gia tăng giữa gia đình, đồng nghiệp và cá nhân [4]. Một nghiên cứu
khác cho thấy chất lượng cuộc sống tồi tệ của hành khách và thành viên phi hành đồn
trong du thuyền Diamond Princess khi bị cách ly vì sự lây lan của COVID-19 [2]. Tác
động tâm lý khi bị cách ly là vì sợ bị lây nhiễm và chăm sóc y tế khơng đầy đủ cho phi
hành đồn và hành khách trên du thuyền. Hơn nữa, một nghiên cứu của Singapore cho
thấy các nhân viên y tế đã báo cáo trầm cảm, lo lắng, rối loạn căng thẳng sau chấn
thương và các triệu chứng căng thẳng ở giữa đợt bùng phát COVID-19 [5]. Các triệu
chứng nghiêm trọng hơn ở nhân viên không thuộc nghành y tế. Nhân viên y tế là lực
lượng tuyến đầu chiến đấu với COVID-19. Họ có thể là nhóm người dễ bị tổn thương
nhất về mọi mặt sức khỏe khi họ phải đối mặt với khủng hoảng mỗi ngày.
Bởi vì tác động của COVID-19 đang diễn ra, nên thiếu tài liệu bao quát cho
thấy các tác động tâm lý và xã hội của việc giãn cách hoặc cách ly trên toàn cầu. Hơn
nữa, các nghiên cứu về COVID-19 về tác động tâm lý nhằm mục đích điều tra tác
động ngắn hạn của con người. Theo hiểu biết của chúng tôi cho đến nay, không có
nghiên cứu nào đánh giá tác động của các cá nhân đối với các vấn đề liên quan đến sức
khỏe, đặc biệt là sự sợ hãi đại dịch đối với người dân tại Việt Nam. Ngồi ra, có thể có
các mức độ khác nhau của đại dịch và các biện pháp phòng ngừa được áp dụng trên

12


khắp các thành phố hoặc cộng đồng, làm thế nào chúng có thể đánh giá sự ảnh hưởng

tác động đến sức khỏe của COVID-19.
1.3. Ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 đến sức khỏe và sự sợ hãi
1.3.1. Sức khỏe [20]
Theo WHO, sức khỏe là trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất, tinh thần và
xã hội và không phải chỉ bao gồm có tình trạng khơng có bệnh hay thương tật.
Các yếu tố chính quyết định đến sức khỏe như môi trường kinh tế và xã hội,
môi trường vật lý, và đặc điểm và ứng xử của mỗi cá nhân. Cụ thể hơn, các yếu tố
chính đã được phát hiện là có ảnh hưởng đến sức khỏe bao gồm:
- Thu nhập và địa vị xã hội
- Mạng lưới hỗ trợ xã hội
- Giáo dục và biết chữ
- Tình trạng việc làm
- Môi trường xã hội
- Môi trường vật lý
- Chăm sóc sức khỏe và kỹ năng ứng phó
- Phát triển của trẻ tốt
- Sinh học và di truyền
- Dịch vụ chăm sóc sức khỏe
- Giới tính
- Văn hóa
Trong nghiên cứu này, khi đề cập đến sức khỏe, nhóm nghiên cứu quan tâm đến
tất cả mọi yếu tố quyết định đến sức khỏe của đối tượng nghiên cứu theo khuyến nghị
của WHO.
Cùng với mối đe dọa từ COVID-19, những thay đổi có tác động sâu sắc đến các
cá nhân về mặt về sức khỏe và các vấn đề khác liên quan đến sức khỏe. Trong thời
gian cách ly, những điều chỉnh trong hành vi sức khỏe, bao gồm những thay đổi trong
thói quen ăn uống và hoạt động thể chất [21]. Người ta cho rằng căng thẳng liên quan
đến đại dịch và thay đổi lối sống có thể góp phần vào tăng nguy cơ tim mạch [22]. Một
nghiên cứu đã phát hiện ra các triệu chứng tồi tệ hơn ở những người mắc bệnh
Parkinson trong khi phong tỏa [22]. Ngoài ra, đã có sự gia tang bằng chứng cho thấy


13


nỗi sợ mắc phải COVID-19 khiến bệnh nhân tránh đến thăm các đơn vị khẩn cấp và
dẫn đến tang tử vong [21].
1.3.2. Sự sợ hãi [23]
Sợ hay sợ hãi là cảm xúc tiêu cực xuất hiện từ việc nhận thức các mối đe dọa.
Đây là một cơ chế tồn tại cơ bản xảy ra trong phản ứng với một kích thích cụ thể,
chẳng hạn như đau hoặc đe dọa nguy hiểm đe dọa. Nói ngắn gọn, sợ là khả năng nhận
ra nguy hiểm và chạy trốn khỏi nó hoặc chiến đấu chống lại.
Sợ hãi liên quan chặt chẽ đến sự lo lắng cảm xúc, xảy ra như là kết quả của các
mối đe dọa được coi là không thể kiểm sốt hoặc khơng thể tránh khỏi. Phản ứng sợ
hãi phục vụ sự sống còn bằng cách thực hiện các phản ứng hành vi thích hợp, vì vậy
nó đã được bảo tồn trong suốt q trình tiến hóa. Nghiên cứu xã hội học và tổ chức
cũng cho thấy rằng các cá nhân, nỗi sợ hãi không chỉ phụ thuộc vào bản chất của họ
mà cịn được định hình bởi các mối quan hệ xã hội và văn hóa của họ, hướng dẫn sự
hiểu biết của họ về thời điểm và mức độ sợ hãi.
Trong nghiên cứu này, khi đề cập đến sự sợ hãi, nhóm nghiên cứu quan tâm đến
tất cả mọi yếu tố gây nên sự sợ hãi của đối tượng nghiên cứu tuy nhiên sẽ tập trung
chủ yếu vào yếu tố dịch bệnh COVID-19 tác động đến tâm lý sợ hãi của người dân.
Các biện pháp hạn chế về sức khỏe cộng đồng và nỗi sợ hãi liên quan đến đại
dịch cũng có thể ảnh hưởng đến tinh thần của mỗi cá nhân. Ở giai đoạn đầu của đại
dịch, một số nghiên cứu đã được thực hiện để kiểm tra tác động tâm lý và xã hội của
COVID-19. Nghiên cứu đã báo cáo mức độ căng thẳng gia tăng liên quan đến đóng
cửa của các quốc giá [24]. Các chính sách như phân chia xã hội, sử dụng khẩu trang và
trở lại làm việc cũng đã được phát hiện có liên quan đến mức độ căng thẳng khác nhau
và [24]. Một nghiên cứu ở một tỉnh của Trung Quốc cho thấy rằng đại dịch có tác động
căng thẳng nhẹ đối với các cá nhân nhưng cũng báo cáo sự hiện diện của sự hỗ trợ xã
hội ngày càng tăng và tăng cường sự gắn kết xã hội [25]. Đồng thời nghiên cứu cũng

chỉ ra rằng chất lượng cuộc sống bị suy giảm ở người dân trong thời gian cách ly, do
họ sợ bị lây nhiễm và thiếu sự chăm sóc y tế là những yếu tố chính [25].
1.4. Khung nghiên cứu
Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng tình trạng sức khỏe và sự sợ hãi của người dân
bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid 19 [22], nhưng cơ chế cơ bản vẫn chưa được biết rõ.
Một số học thuyết hành vi có thể được áp dụng để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến

14


sức khỏe và sự sợ hãi trong đại dịch. Học thuyết về động cơ bảo vệ được phát triển bởi
R.W. Rogers vào năm 1975 [23]. Theo học thuyết này, đại dịch COVID-19 có thể tạo
ra những phản ứng để đánh giá mối đe dọa và đối phó với những đe dọa đó [24].
Người dân sẽ cảm thấy khơng an tồn và trở nên rất lo lắng về các triệu chứng thể
chất, giống như các triệu chứng được mô tả khi nhiễm COVID-19. Do mối đe dọa và
tác động của đại dịch, người dân sẽ trở nên lo lắng rằng họ khơng có đủ thơng tin sức
khỏe để tự bảo vệ mình. Và để đối phó với vấn đề này, họ sẽ tìm kiếm thơng tin sức
khỏe để nâng cao hiểu biết về đại dịch và thực hiện các biện pháp để giảm nguy cơ bị
bệnh [25]. Trong một nghiên cứu gần đây, Amanzio và cộng sự (2020) đã đề xuất
khung lý thuyết để giải thích mối liên hệ giữa thơng tin sức khỏe, tác động tâm lý của
đại dịch, các triệu chứng thể chất và tình trạng sức khỏe đối với bệnh truyền nhiễm
[26]. Trong đại dịch COVID-19, có nhiều thơng tin sức khỏe trái chiều và đơi khi
khơng chính xác (ví dụ, lời khuyên mâu thuẫn về việc sử dụng khẩu trang) có thể dẫn
đến tâm lý hoang mang và tiêu cực [27], cuối cùng dẫn đến nảy sinh các vấn đề về sức
khỏe đặc biệt là sức khỏe tâm thần [28]. Như vậy, các triệu chứng thể chất tương tự
như nhiễm COVID-19 sẽ nảy sinh nhu cầu tìm kiếm thông tin sức khỏe, ảnh hưởng
đến nhận thức, tâm lý sợ hãi và cuối cùng là ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân.
Dựa trên lý luận trên, trong nghiên cứu này chúng tơi tìm hiểu mối liên quan giữa các
biểu hiện thực thể giống triệu chứng mắc Covid19 tác động đến kiến thức của người
dân về đại dịch từ đó gây tâm lý sợ hãi lo lắng và ảnh hưởng đến sức khỏe của người

bệnh.
Nhu cầu về
thông tin sức
khỏe

Nhận thức về tác
động của đại dịch

Các triệu
chứng thể chất
giống như
nhiễm
COVID-19

Sợ hãi, lo lắng và
những bất lợi về
sức khỏe

Sơ đồ 1.1. Khung lý thuyết của nghiên cứu

15


Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu:
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Người dân Việt Nam trưởng thành/
2.1.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn
- Người đồng ý tham gia nghiên cứu
- Có quốc tịch Việt Nam

- Người có thể hiểu, nói tiếng Việt
2.1.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Người tham gia có vấn đề tâm thần, thể chất khiến không thể giao tiếp trực
tiếp hoặc không thể giao tiếp qua điện thoại
2.1.2. Thời gian nghiên cứu
- Từ tháng 7/2020 đến tháng 3/2021
2.1.3. Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế
Đánh giá
Hiệu chỉnh

Lựa

bộ công cụ

chọn đối

từ tiếng

tượng

Anh sang

nghiên

tiếng Việt

cứu


Thuyết phục
đối tượng

ảnh hưởng
của COVID-

tham gia
nghiên cứu

19 đến sức
khỏe và sự
sợ hãi của
người dân

Sơ đồ 2.1. Sơ đồ qui trình nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành qua 2 giai đoạn
- Giai đoạn 1: Hiệu chỉnh bộ công cụ từ tiếng Anh sang tiếng Việt áp dụng quy
trình dịch ngược và đánh giá độ tin cậy, độ đặc hiệu của bộ công cụ
+ Bước 1: Dịch bộ công cụ sang tiếng Việt bởi 2 người độc lập biết cả tiếng
Anh và tiếng Việt.

16


+ Bước 2: Thống nhất bản tiếng Việt
+ Bước 3: Dịch ngược bản tiếng Việt sang tiếng Anh bởi người thông thạo cả
tiếng Anh và tiếng Việt và chưa từng được biết đến bản tiếng Anh của bộ công cụ
+ Bước 4: Đối chiếu 2 bản tiếng Anh. Qua đối chiếu, khơng có sự khác biệt nào
về nội dung của 2 bản tiếng Anh. Qua đó, chúng tơi đã có được một phiên bản gần

cuối cùng
+ Bước 5: Phiên bản tiếng Việt này đã được đánh giá bởi 5 đối tượng ở độ tuổi
từ 18 tuổi trở lên. Sau khi đồng ý, họ đã tự hoàn thành bộ câu hỏi với phiên bản gần
cuối và sau đó họ được phỏng vấn về sự rõ ràng và liên quan của các mục trong bảng
câu hỏi. Các đối tượng này đều đánh giá hầu hết nội dung bộ câu hỏi rõ ràng, dễ hiểu
và thuận tiện cho việc trả lời câu hỏi. Tuy nhiên câu hỏi số 2 và số 8 của thước đo sự
sợ hãi thì cách diễn đạt gần như nhau khiến đối tượng nghiên cứu khó phân biệt. Dựa
trên góp ý đó, nhóm nghiên cứu đã chỉnh sửa và hoàn thiện phiên bản cuối cùng bằng
tiếng Việt.
+ Bước 6: Đánh giá độ đặc hiệu của bộ công cụ bản tiếng Việt trên cơ sở xin ý
kiến đánh giá của chuyên gia. Bộ công cụ sau khi dịch đã được gửi đến 6 chuyên gia
để xin ý kiến gồm: 2 chuyên gia công tác tại CDC, 2 chuyên gia công tác tại y tế
phường, 2 chuyên gia công tác tại bệnh viện. CVI bằng 1.0.
+ Bước 7: Đánh giá độ tin cậy của những phần trong bộ công cụ phiên bản
tiếng Việt sử dụng thang đo Likert trên cơ sở thu thập thông tin từ 30 đối tượng nghiên
cứu lấy ngẫu nhiên tại phường Vị Xuyên, thành phố Nam Định. Giá trị Cronbach
Alpha của các bộ công cụ trong bộ câu hỏi đều lớn hơn là 0.8.
- Giai đoạn 2: Thực hiện nghiên cứu mô tả cắt ngang
+ Bước 1: Lựa chọn đối tượng nghiên cứu theo tiêu chuẩn chọn mẫu
+ Bước 2: Cung cấp thơng tin, mục đích nghiên cứu, lấy xác nhận tham gia
nghiên cứu thông qua trang web có bộ câu hỏi
+ Bước 3: Lấy thơng tin từ đối tượng tham gia nghiên cứu về ảnh hưởng của
COVID-19 đến sức khỏe và sự sợ hãi thông qua trang web có bộ câu hỏi trong khoảng
30 phút. Từ đó xác định thực trạng ảnh hưởng của COVID-19 đến sức khỏe và nỗi sợ
hãi.
+ Bước 4: Đánh giá thực trạng ảnh hưởng của COVID-19 đến sức khỏe và sự
sợ hãi của người dân.

17



2.2.2. Mẫu và phương pháp chọn mẫu
- Chọn mẫu thuận tiện: Tất cả những đối tượng đáp ứng tiêu chuẩn lựa chọn, loại trừ
đều được mời tham gia vào nghiên cứu
- Trong thời gian thu thập dữ liệu từ tháng 7/2020 đến tháng 12/2020 thu thập được
383 đối tượng nghiên cứu cung cấp câu trả lời. Vậy cỡ mẫu là 383.
2.2.3. Phương pháp và công cụ thu thập số liệu
2.2.3.1. Phương pháp thu thập số liệu
- Số liệu đã được thu thập thơng qua bộ câu hỏi có sẵn, đối tượng nghiên cứu
trả lời bộ câu hỏi trực tuyến.
- Thời gian để đối tượng nghiên cứu hoàn thành bộ câu hỏi khoảng 30 phút
* Các bước thu thập số liệu
- Bước 1: Nhóm nghiên cứu cung cấp và giới thiệu về bộ câu hỏi trên các trang
thông tin mạng xã hội như zalo, facebook.
- Bước 2: Khi các đối tượng nghiên cứu truy cập vào trang web đã có sẵn nội
dung giới thiệu về nghiên cứu. Nếu đồng ý tham gia nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu
chọn ngôn ngữ phù hợp để cung cấp thông tin.
2.2.3.2. Công cụ thu thập số liệu
Bộ công cụ thu thập số liệu được thiết kế sẵn gồm phần:
- Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu gồm 18 câu hỏi về nhân khẩu học,
tình trạng xã hội, tình trạng mang thai (nếu có) và quy mơ hộ gia đình, tiền sử bệnh.
- Kiến thức về COVID-19: gồm 06 câu được đánh giá theo thang Likert 7 (1 =
Rất kém, đến 7 = Rất tốt). Mức độ kiến thức được tính bằng tổng điểm trên các câu
hỏi, tổng điểm càng cao thì mức kiến thức càng cao. Tổng điểm từ 30 điểm trở lên
được coi là có kiến thức tốt về COVID-19, dưới 30 điểm được coi là có kiến thức chưa
tốt.
- Tình trạng COVID-19: gồm 3 câu với 4 đáp án trả lời (Có, đã xác nhận / Có,
nhưng chưa được xác nhận / Không / không biết)
- Lối sống gồm 6 câu hỏi về những thói quen sinh hoạt trong cuộc sống hàng
ngày của đối tượng nghiên cứu

- Yếu tố sợ hãi gồm 11 câu hỏi được đáng giá dựa trên thang đo Likert 11 điểm
(từ 0-thấp nhất đến 10-cao nhất). Mức độ sợ hãi được tính bằng tổng điểm trên các câu
hỏi, tổng điểm càng cao thì mức độ sợ hãi càng cao

18


×