TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 58/2022
71
PHÁT TRIỂN DU LỊCH THÔNG MINH – CƠ HỘI VÀ
THÁCH THỨC ĐỐI VỚI DU LỊCH VIỆT NAM
Phùng Thị Hạnh, Nguyễn Tá Nam
Trường Đại học Thủ Đơ Hà Nợi
Tóm tắt: Du lịch thơng minh là du lịch được phát triển dựa trên nền tảng ứng dụng thành
tựu khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin truyền thông nhằm
đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của khách du lịch. Hiện nay, nhiều thành phố lớn trên thế
giới đã bắt đầu ứng dụng công nghệ thông tin để phục vụ khách du lịch như việc đặt các
dịch vụ tại khách sạn- nhà hàng, xin cấp visa, mua vé máy bay, tìm đường, lựa chọn điểm
du lịch… Du lịch thông minh đang là xu hướng phát triển tất yếu của du lịch thế giới nói
chung và ngành du lịch Việt Nam nói riêng. Trong bài viết này tác giả tập trung phân tích
cơ hợi và mợt số khó khăn, thách thức khi phát triển du lịch thơng minh ở Việt Nam.
Từ khóa: Du lịch thông minh, điểm đến thông minh, cách mạng công nghiệp 4.0.
Nhận bài ngày 5.2.2022; gửi phản biện, chỉnh sửa, duyệt đăng ngày 25.3.2022
Liên hệ tác giả: Phùng Thị Hạnh; Email:
1. MỞ ĐẦU
Thuật ngữ “du lịch thông minh” mới xuất hiện ở Việt Nam trong khoảng một vài năm
trở lại đây, được nhắc đến nhiều khi cuộc cách mạng cơng nghiệp 4.0 chính thức diễn ra ở
nước ta. Trong những năm gần đây, công nghệ thông minh đã thực sự bùng nổ trong lĩnh
vực du lịch. Đặc biệt là sự ra đời của các doanh nghiệp thuần túy công nghệ và liên kết mạnh
mẽ với các doanh nghiệp lữ hành, nhà hàng, khách sạn,... Với du khách, ai cũng có điện thoại
thơng minh để tra cứu thơng tin và thực hiện các giao dịch. Có thể nói, cách mạng công
nghiệp 4.0 đã tác tộng rất lớn đến ngành du lịch Việt Nam. Khi công nghệ được ứng dụng
vào du lịch đã thay đổi khá nhiều phương thức du lịch. Khách du lịch giờ đã độc lập hơn, họ
tự đăng ký tour trên các trang web, mạng xã hội. Họ đã tự tổ chức đi và đặt yêu cầu thông
qua dịch vụ kỹ thuật số tại điểm đến. Hơn nữa, cách họ truy cập Internet đã thay đổi từ máy
tính để bàn, máy tính xách tay đến các thiết bị di động (điện thoại thơng minh và máy tính
bảng). Các công cụ này không chỉ được sử dụng để giao tiếp giữa các cá nhân mà còn quản
lý trao đổi thông tin với các đối tượng giao tiếp lẫn nhau. Điều này mở ra vô số cơ hội để
lượng khách hàng gia tăng, vượt ra khỏi biên giới của một quốc gia.
72
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
Đặt dịch vụ du lịch trực tuyến đang là xu hướng của giới trẻ. Theo thống kê, đến 70%
người trẻ dùng internet dưới 35 tuổi và đây là đối tượng thường xuyên sử dụng smartphone.
Đây cũng sẽ là đối tượng sử dụng dịch vụ du lịch trực tuyến tiềm năng trong thời gian tới.
Đón đầu xu hướng này, một số doanh nghiệp đã triển khai ứng dụng công nghệ thông tin
trong dịch vụ đặt phịng trực tuyến. Khơng cần mang ví, khách hàng cũng có thể mua tour
và trả tiền qua chiếc điện thoại thông minh. Những cơ hội mới đặt ngành du lịch trước yêu
cầu chuyển đổi số phù hợp với xu hướng phát triển du lịch thông minh. Đây là mô hình du
lịch dựa trên nền tảng của công nghệ và truyền thông, cùng với sự phát triển đồng bộ của hệ
thống hạ tầng phục vụ du lịch, nhằm giúp du khách dễ dàng tiếp cận thơng tin một cách
nhanh chóng và đa dạng nhất. Đồng thời, đảm bảo sự tương tác kịp thời, kết nối chặt chẽ
giữa cơ quan quản lý - doanh nghiệp - khách du lịch nhằm nâng cao chất lượng phục vụ
khách, và giúp cho việc quản lý thuận tiện hơn. Du lịch thông minh trở thành một một xu
hướng phát triển tất yếu của du lịch thế giới nói chung và du lịch Việt Nam nói riêng. Để
phát triển du lịch thông minh bên cạnh những cơ hội thuận lợi thì Việt Nam cũng gặp một
số những khó khăn và thách thức.
2. NỢI DUNG
2.1. Du lịch thơng minh
Theo Lê Quang Đăng (2018), Cách mạng công nghiệp 4.0 và tiến trình phát triển du
lịch thông minh tại Việt Nam cho rằng: Du lịch thông minh là du lịch được phát triển trên
nền tảng ứng dụng những thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt là công
nghệ thông tin truyền thông nhằm tạo ra những giá trị, lợi ích và dịch vụ tốt nhất, đáp ứng
nhu cầu đa dạng của khách du lịch, doanh nghiệp du lịch, cơ quan quản lý du lịch và cộng
đồng. Xoay quanh thuật ngữ “du lịch thông minh”, hiện ở Việt Nam tồn tại rất nhiều quan
điểm, cách hiểu khác nhau. Có thể khái lược một số cách nhìn nhận về du lịch thông minh
tại Việt Nam như sau:
Cách hiểu sơ khai : Du lịch thông minh = Smart Travel, là trào lưu du lịch mới, khác
với những tour du lịch truyền thống trong đó người ta chú trọng đến lợi ích của du khách
nhưng lại có mức chi phí thấp và an toàn. Hiểu theo cách này, du lịch thơng minh ở đây
chính là “đi du lịch thơng minh”, ám chỉ việc khách du lịch chủ động, tính tốn, lên kế hoạch
cụ thể cho chuyến du lịch một cách thông minh nhất để đạt được giá trị trải nghiệm tối đa
trong khi chi phí lại ở mức tối thiểu. Cách hiểu hiện nay: Du lịch thông minh = Smart
Tourism, là du lịch có sự kết hợp của yếu tố cơng nghệ. Trong đó: Du lịch thơng minh là
phương tiện, công cụ hỗ trợ du lịch. Hiểu theo cách này, công nghệ được ứng dụng để tạo ra
các phương tiện, công cụ thông minh hỗ trợ cho các hoạt động du lịch, như: Các phần mềm
quản lý thông minh hỗ trợ các cơ quan quản lý và doanh nghiệp du lịch, các ứng dụng và tiện
ích thơng minh hỗ trợ khách du lịch. Ví dụ tiện ích thuyết minh tự động, phần mềm quản lý hành
chính điện tử, phần mềm quản lý hướng dẫn viên du lịch, phần mềm đặt vé trực tuyến, tiện ích
chỉ đường và tìm kiếm khách sạn, khu vui chơi giải trí,…
Du lịch thơng minh là một loại hình du lịch mới, bổ sung vào hệ thống phân loại các
TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 58/2022
73
loại hình du lịch ở Việt Nam (du lịch tham quan, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch thể thao, du
lịch MICE, du lịch thăm thâ, du lịch chữa bệnh, du lịch nông thôn, du lịch đô thị,… du lịch
thông minh). Du lịch thông minh là sản phẩm du lịch mới, bao gồm các dịch vụ trải nghiệm
được tạo ra bằng việc ứng dụng các công nghệ tiên tiến cung cấp cho khách du lịch. Ví dụ:
tour du lịch thực tế ảo, phim 3D – 3600, các trị chơi giải trí cơng nghệ,… Du lịch thông minh
bao gồm nhiều thành phần và lớp thông minh được công nghệ thông tin - truyền thông hỗ
trợ. Du lịch thông minh – xu thế của thời đại cho rằng du lịch thơng minh bao gờm 3 thành
phần chính: Điểm đến thông minh: Là điểm đến du lịch sáng tạo, được xây dựng trên cơ sở
hạ tầng công nghệ tiên tiến, đảm bảo sự phát triển bền vững các khu vực du lịch, có thể tiếp
cận được với mọi người, tạo thuận lợi cho sự tương tác của khách truy cập và hội nhập vào
môi trường xung quanh, làm tăng chất lượng của trải nghiệm tại điểm đến, cải thiện chất
lượng cuộc sống của người dân. Kinh nghiệm thông minh: Là những trải nghiệm du lịch qua
trung gian công nghệ và sự tăng cường trao đổi thông tin qua việc cá nhân hóa, nhận thức bối cảnh
và theo dõi thời gian thực. Hệ sinh thái kinh doanh thông minh: Là hệ sinh thái kinh doanh
phức tạp tạo ra và hỗ trợ việc trao đổi các nguồn lực du lịch kết hợp với kinh nghiệm du lịch.
Người tham gia mô hình này cũng là những du khách thông minh. Họ khơng chỉ tiêu thụ mà
cịn chia sẻ và tạo ra trải nghiệm, có vai trị quản lý và giám sát để đảm bảo sự hoàn hảo cho
những hành trình tiếp theo của mình và những du khách khác. Theo Phạm Thùy Linh, 2020,
du lịch thông minh là xu hướng tất yếu của du lịch thế giới nói chung và du lịch Việt Nam
nói riêng. Trong bài báo này tác giả chỉ tập trung phân tích những điều kiện, cơ hội, thách
thức trong phát triển mô hình du lịch thông minh ở Việt Nam, từ đó đề xuất một số giải pháp
cụ thể.
2.2. Những cơ hội và thách thức của du lịch Việt Nam khi phát triển du lịch thông minh
2.2.1. Cơ hội
2.2.1.1. Thể chế, chính sách mở đường cho phát triển du lịch thông minh
Trong những năm qua, Đảng và Chính Phủ Việt Nam đã nhận thức rõ “cơng nghệ thông
tin là một trong các động lực quan trọng nhất của sự phát triển, cùng với một số ngành công
nghệ cao khác đang làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của thế giới hiện
đại”. Vì thế, phải đẩy mạnh “ứng dụng và phát triển cơng nghệ thơng tin ở nước ta nhằm
góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của tồn dân tợc, thúc đẩy cơng
c̣c đởi mới, phát triển nhanh và hiện đại hoá các ngành kinh tế”. Bộ Chính trị chủ trương:
“Mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế, văn hố, xã hội, an ninh, quốc phịng đều phải ứng dụng
công nghệ thông tin để phát triển”. Nghị quyết số 36-NQ/TW năm 2014 tiếp tục khẳng định:
“công nghệ thông tin phải được ứng dụng rộng rãi và trở thành mợt ngành kinh tế có tác
đợng lan tỏa trong phát triển kinh tế – xã hội”. Nghị quyết số 26/2015/NQ-CP cũng nhấn
mạnh: “Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin truyền thông trong tất cả các ngành, các
lĩnh vực nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của cơ quan nhà nước, cải
thiện môi trường kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh”. Khi cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ tư bùng nổ và tác động mạnh mẽ tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thì việc đẩy
74
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐƠ HÀ NỘI
mạnh ứng dụng cơng nghệ thông tin truyền thông cho các ngành, các lĩnh vực ngày càng trở
nên cấp thiết. Trước bối cảnh đó, Thủ tướng Chính phủ ban hành chỉ thị số 16/2017/CT-TTg
về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Thủ tướng đề
nghị các Bộ, ngành “Xây dựng chiến lược chuyển đổi số, nền quản trị thông minh, ưu tiên
phát triển công nghiệp công nghệ số, nông nghiệp thông minh, du lịch thông minh, đô thị
thơng minh”. Có thể nói, hệ thống văn bản của Đảng và Chính phủ đã mở ra định hướng
chiến lược quan trọng để triển khai thực hiện ứng dụng công nghệ tiên tiến cho phát triển
kinh tế – xã hội nói chung và du lịch nói riêng.
Ngày 16/01/2017, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 08-NQ/TW, khẳng định quan điểm:
“Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn là định hướng chiến lược quan trọng
để phát triển đất nước”. Để phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn cần phải
thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó, tất yếu phải đẩy mạnh ứng dụng khoa học cơng
nghệ hiện đại. Nghị quyết 08-NQ/TW Bộ Chính trị có nêu ba khía cạnh ứng dụng khoa học
cơng nghệ với các hoạt động du lịch, gồm: xúc tiến quảng bá du lịch, đào tạo nguồn nhân
lực du lịch và quản lý nhà nước về du lịch. Luật du lịch năm 2017 cũng khẳng định “nhà
nước có chính sách trong việc khuyến khích hỗ trợ các hoạt động ứng dụng khoa học, công
nghệ hiện đại phục vụ quản lý và phát triển du lịch” (Khoản 4, Điều 5). Để tạo bước đột phá
trong việc thu hút khách quốc tế đến Việt Nam, năm 2017, Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 07/2017/NĐ-CP và Nghị quyết số 124/2017/NQ-CP quy định trình tự, thủ tục thực hiện
thí điểm cấp thị thực điện tử (e-visa) cho người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam. Đặc biệt,
trong chỉ thị số 16/2017/CT-TTg, lần đầu tiên thuật ngữ “du lịch thông minh” được nhắc đến
trong một văn bản pháp quy của Việt Nam: “…ưu tiên phát triển công nghiệp công nghệ số,
nông nghiệp thông minh, du lịch thông minh, đô thị thông minh”.
2.2.1.2. Du lịch thông minh là thị trường tiềm năng lớn cho du lịch Việt Nam
Theo thống kê của WeAreSocial (wearesocial.com) năm 2018, toàn thế giới có 4,02 tỷ
người dùng Internet (chiếm 53%), gần 3,2 tỷ người dùng mạng xã hội, hơn 5,1 tỷ người dùng
điện thoại di động (chiếm 68%) trong đó chủ yếu là điện thoại thơng minh có kết nối và sử
dụng Internet. Ở Việt Nam với gần 100 triệu dân thì có đến 64 triệu người sử dụng Internet
(chiếm 67% dân số), 55 triệu người dùng mạng xã hội (chiếm 57%), hơn 70 triệu người dùng
điện thoại di động (chiếm 73%). Điều này cho thấy, tỷ lệ người dân sử dụng Internet và thiết
bị thông minh trên thế giới và ở Việt Nam là rất lớn. Đây là tiền đề lớn để Việt Nam phát
triển du lịch thông minh. Theo thống kê của Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam
(VECOM), tỷ lệ khách du lịch trong nước đặt phòng khách sạn trực tuyến và đặt tour trực
tuyến đạt hơn 60%; tỷ lệ khách du lịch quốc tế sử dụng hai dịch vụ này đạt hơn 75%. Một
khảo sát khác với khách du lịch quốc tế đến Việt Nam cho thấy, có tới 71% du khách tham
khảo thơng tin điểm đến trên Internet; 64% đặt chỗ và mua dịch vụ trực tuyến trong chuyến
đi đến Việt Nam. Như vậy có thể thấy, khách du lịch sử dụng Internet, các tiện ích thông
minh, các thiết thông minh để tìm kiếm thông tin du lịch, tham khảo điểm đến, so sánh và
lựa chọn các dịch vụ du lịch hợp lý, thực hiện các giao dịch mua tour, đặt phòng, mua vé
máy bay, thanh toán trực tuyến… ngày càng có xu hướng gia tăng. Họ đang trực tiếp trở
TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 58/2022
75
thành những vị “khách du lịch thông minh” tiềm năng của du lịch Việt Nam. (Lê Quang
Đăng 2018).
Mặc dù với loại hình du lịch mới này, khách hàng tiềm năng lớn nhưng thị trường du
lịch trực tuyến tại Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Các cơng ty lữ hành online thương hiệu
tồn cầu như Agoda.com, booking.com, Traveloka.com, Expedia.com đang độc chiếm thị
trường với khoảng 80% thị phần. Trong khi đó, chỉ có khoảng 10 doanh nghiệp Việt Nam kinh
doanh du lịch trực tuyến như Ivivu.com, chudu24.com, mytour.vn, tripi.vn, vntrip.vn,… Vì vậy,
du lịch thông minh sẽ là “thị trường màu mỡ”cho các đơn vị kinh doanh du lịch Việt Nam.
2.2.1.3. Sự chủ động và tích cực tiếp cận Du lịch thông minh của ngành Du lịch
Thứ nhất, các cơ quan quản lý du lịch tại Việt Nam đã phối hợp với các cơ quan, tổ
chức, đơn vị trong và ngoài nước tổ chức các hội thảo, hội nghị, tọa đàm với quy mô cấp
tỉnh, cấp ngành, cấp quốc gia và cấp quốc tế xoay quanh chủ đề này.
Thứ hai, việc hỗ trợ cung cấp thông tin du lịch. Hình thức cung cấp thông tin du lịch
phổ biến nhất hiện nay là thông qua các hệ thống website, cổng thông tin, trang thông tin
điện tử, báo điện tử. Hiện 100% cơ quan quản lý du lịch và hầu hết các doanh nghiệp du lịch
Việt Nam đã có website riêng. Ngày nay, với sự phát triển của công nghệ lập trình web, cho
phép các nhà lập trình thiết kế, tích hợp nhiều tính năng, tiện ích đa dạng trên nền tảng web
hỗ trợ các hoạt động du lịch như: Bản đồ du lịch điện tử, chức năng booking online, thanh
toán trực tuyến, tư vấn trực tuyến, chăm sóc khách hàng trực tuyến, các chức năng quy đổi
tiền tệ, dự báo thời tiết,… thậm chí có thể tạo ra sự tương tác trực tiếp của khách du lịch như
góp ý, phản ánh, bình luận về các sự kiện du lịch. Bên cạnh các hệ thống website, mạng xã
hội cũng là một trong những kênh quan trọng trong việc chia sẻ thơng tin, trải nghiệm du
lịch và góp phần quảng bá du lịch.
Thứ ba, việc sử dụng nhiều phần mềm, tiện ích thơng minh. Các địa phương du lịch
cũng đang phối hợp tích cực với các tập đồn viễn thông để triển khai những dự án du lịch
thông minh, sản xuất các phần mềm, tiện ích thơng minh cho ngành Du lịch như tiện ích về
bản đờ, tìm đường, trạm bus, travel guide. Đặc biệt là các thành phố lớn như Hà Nội trong
năm 2018 đã đưa vào sử dụng 2 phần mềm tiện ích thơng minh hỗ trợ du khách gồm hệ
thống thuyết minh tự động tại di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám và phần mềm hướng dẫn
tham quan Hoàng Thành Thăng Long. Đầu năm 2018, Đà Nẵng cũng đã đưa vào sử dụng
ứng dụng Chatbot “Da Nang Fantasticity”, đây là công nghệ được sử dụng đầu tiên tại Việt
Nam và Đông Nam Á (cùng với Singapore).
Thứ tư, sự tích cực tiếp cận Cách mạng công nghiệp 4.0 để theo kịp xu hướng kinh
doanh mới, đáp ứng nhu cầu du lịch đa dạng của du khách của các doanh nghiệp du lịch Việt
Nam. Nhiều doanh nghiệp đang tự làm mới mình để trở thành những doanh nghiệp thông
minh với các hoạt động kinh doanh hầu hết được triển khai trực tuyến, như: marketing, quảng
bá sản phẩm; nghiên cứu mở rộng thị trường; tư vấn, chăm sóc khách hàng; thực hiện các
giao dịch mua - bán, thanh toán,… Năm 2016, sàn giao dịch du lịch trực tuyến (Tripi) đầu
tiên xuất hiện tại Việt Nam, cho phép giao dịch các tour trọn gói, khách sạn và vé máy bay.
76
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐƠ HÀ NỘI
Đặc biệt, Tripi cịn cho phép khách hàng tìm kiếm, so sánh giá các sản phẩm du lịch và cập
nhật chính xác 24/24 tình trạng sản phẩm. IVIVU (ivivu.com) cũng là một trong những sàn
giao dịch du lịch lớn, cho phép khách du lịch tìm kiếm thông tin, so sánh, lựa chọn và thực
hiện các giao dịch đặt tour, mua vé máy bay, đặt phòng khách sạn với hơn 300 tour du lịch,
hơn 5.000 khách sạn tại Việt Nam và 345.000 khách sạn toàn thế giới để du khách lựa chọn
(Phạm Thùy Linh, 2020). Như vậy có thể thấy, du lịch thơng minh là xu hướng phát triển tất
yếu của du lịch thế giới nói chung và ngành Du lịch Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, để phát
triển du lịch thông minh, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện thể chế chính sách, xác định mô
hình và triển khai thí điểm, phát triển nguồn nhân lực có trình đợ cơng nghệ và tăng cường
hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức
về phát triển du lịch thông minh.
2.2.2. Thách thức
Ứng dụng công nghệ hiện đại với ngành du lịch và phát triển du lịch thơng minh đang
là chủ trương lớn của Đảng và Chính phủ. Trong thời gian qua, mặc dù ngành du lịch đang
rất nỗ lực trong việc triển khai các giải pháp phát triển du lịch thơng minh, tuy nhiên vẫn cịn
tờn tại rất nhiều bất cập, hạn chế. Cụ thể: Chính sách đặc thù về du lịch thông minh: Mặc dù
hiện đã có rất nhiều văn bản pháp quy về đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin truyền
thông với phát triển kinh tế – xã hội nói chung, phát triển du lịch nói riêng, nhưng đến nay
vẫn chưa có văn bản cụ thể nào quy định hay hướng dẫn triển khai phát triển du lịch thông
minh ở Việt Nam. Một số địa phương có chủ trương phát triển du lịch thơng minh nhưng
q trình triển khai cịn nhiều bất cập. Mô hình du lịch thông minh: Trong thời gian qua, đã
có nhiều địa phương triển khai các biện pháp phát triển du lịch thông minh. Tuy nhiên, các
hoạt động này diễn ra mang tính cục bộ, thiếu cơ sở khoa học, căn cứ pháp lý và đặc biệt là
thiếu “mô hình du lịch thơng minh” đảm bảo tính hiệu quả.
Điều này dẫn đến đầu tư thiếu trọng điểm, thiếu tính đồng bộ, hiệu quả mang lại chưa
cao. Nguyên nhân của vấn đề này là do du lịch thông minh đang là xu thế mới, chưa hình
thành và chưa có tiền lệ ở Việt Nam, chưa có địa phương nào xây dựng thành công để làm
mô hình học hỏi cho các địa phương khác. Mức độ sẵn sàng cho phát triển du lịch thông
minh: Du lịch thông minh được phát triển trên nền tảng ứng dụng khoa học công nghệ, công
nghệ thông tin truyền thông, đây được coi là điều kiện, tiền đề tiên quyết. Tuy nhiên, mức
độ sẵn sàng về công nghệ để phát triển du lịch thông minh ở Việt Nam chưa cao. Số liệu
thống kê từ Bộ Thông tin truyền thông, Hội tin học Việt Nam (2018), Báo cáo tóm tắt chỉ số
sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng CNTT-TT Việt Nam (VN ICT Index 2018) cho thấy: chỉ
số xếp hạng về mức độ sẵn sàng cho ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin truyền thông
của Bộ VHTT&DL trong vài năm trở lại đây xếp ở vị trí trung bình khá, từ thứ 4 đến thứ 7
trên bảng xếp hạng 19 Bộ, ngành. Trong đó, các chỉ số về hạ tầng kỹ thuật và chỉ số ứng
công nghệ thông tin nhiều năm xếp ở vị trí trung bình yếu (Bảng 1).
Bảng 1. Xếp hạng của Bộ VHTT&DL về chỉ số sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng CNTTTT
TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 58/2022
Chỉ số xếp hạng
77
Năm 2015
Năm 2016
Năm 2017
Năm 2018
Chỉ số xếp hạng chung
7
4
6
5
Chỉ số Hạ tầng kỹ thuật
11
4
11
8
Chỉ số Hạ tầng nhân lực
4
3
6
4
Chỉ số Ứng dụng CNTT
11
9
10
5
(Nguồn: Bộ Thông tin truyền thông, Hội tin học Việt Nam, năm 2018)
Đối với cấp địa phương, ngoại trừ 5 địa phương có du lịch phát triển gờm Hà Nội, Đà
Nẵng, TP.Hờ Chí Minh, Quảng Ninh, Thừa Thiên – Huế đứng đầu bảng xếp hạng về mức
độ sẵn sàng cho ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin truyền thơng (Bảng 2), rất nhiều
địa phương có du lịch phát triển nhưng chỉ số xếp hạng lại rất thấp như: Hải Phịng, Ninh
Bình, Quảng Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Khánh Hịa, Lâm Đờng, Lào Cai.
Bảng 2. Xếp hạng về chỉ số sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng CNTT-TT của 5 địa
phương có du lịch phát triển năm 2018
Chỉ số xếp
hạng chung
Xếp hạng hạ
tầng kỹ thuật
Xếp hạng hạ
tầng nhân lực
Xếp hạng Ứng
dụng CNTT
Hà Nội
3/63
4
4
9
Hải Phịng
29/63
20
22
12
Ninh Bình
39/63
51
13
26
Thanh Hóa
22/63
13
11
46
Quảng Bình
49/63
27
42
37
Khánh Hịa
15/63
9
8
29
Tỉnh/Thành
(Nguồn: Bợ Thơng tin trùn thơng, Hợi tin học Việt Nam, năm 2018)
Trình độ khoa học và công nghệ: So với các quốc gia trên thế giới, Việt Nam là quốc
gia có trình độ khoa học và cơng nghệ cịn hạn chế. Vì thế, việc nghiên cứu, sản xuất các sản
phẩm cơng nghệ ứng dụng cho du lịch vẫn cịn nhiều hạn chế. Ví dụ, Thái Lan đã nghiên
cứu ứng dụng được công nghệ thực tại ảo (VRT) để sản xuất các tour du lịch ảo và đưa vào
khai thác sử dụng tại thủ đô Bangkok từ những năm 2015, 2016; Singapore đã nghiên cứu
internet vạn vật (IoT) để thiết kế các phịng nghỉ thơng minh, quản trị khách sạn thông minh
tại một số khách sạn hiện đại từ những năm 2010; Hàn Quốc sản xuất hệ thống các phần
mềm, ứng dụng, tiện ích thơng minh cho ngành du lịch khá đầy đủ và hệ thống hay Đài Loan
đã phát triển hệ thống thẻ điện tử, vé điện tử du lịch, xây dựng nhiều trung tâm du lịch thông
minh (i-Center) và trạm thông tin du lịch thông minh để hỗ trợ khách du lịch nhưng ở Việt
Nam còn rất hạn chế. Sự tiếp cận của doanh nghiệp với du lịch thơng minh cịn yếu: Trong
các lĩnh vực kinh doanh du lịch chính như: lữ hành, lưu trú, vận tải du lịch, ăn uống, giải trí,
mua sắm,… thì khả năng tiếp cận công nghệ, phát triển du lịch thông minh chủ yếu ở một
78
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
số phân nhánh như lữ hành quốc tế, vận tải hàng không, cơ sở lưu trú cao cấp. Trong đó,
cũng chỉ có các doanh nghiệp hàng đầu, có tiềm lực mới có khả năng đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ, tiếp cận du lịch thông minh. Nguyên nhân chính do đặc điểm doanh nghiệp du
lịch Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, vốn ít, kinh doanh nhỏ lẻ nên khả năng
tài chính chi trả cho đầu tư ứng dụng công nghệ không cao; doanh nghiệp kinh doanh lữ
hành nội địa, doanh nghiệp kinh doanh lưu trú (nhà nghỉ, khách sạn 1-2 sao) chiếm số lượng
lớn, đối tượng khách phục vụ chủ yếu là khách nội địa, nhu cầu khách sử dụng các dịch vụ
thông minh, trực tuyến không lớn nên khả năng tiếp cận du lịch thông minh của các doanh
nghiệp này còn thấp.
2.3. Một số giải pháp phát triển du lịch thơng minh tại Việt Nam
Tiếp tục hồn thiện thể chế chính sách cho phát triển du lịch thơng minh
Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần có cơ chế, chính sách đặc thù và ban
hành những văn bản cụ thể, quy định, hướng dẫn chi tiết về phát triển du lịch thông minh để
định hướng cho ngành Du lịch và các địa phương trong việc triển khai thực hiện. Cơ quan
quản lý du lịch các cấp cần xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về phát triển du lịch
thơng minh, có lộ trình và bước đi phù hợp. Ngoài ra, cần hoàn thiện hơn nữa thể chế chính
sách liên quan đến ứng dụng khoa học cơng nghệ thông tin với phát triển kinh tế – xã hội
nói chung như: các chính sách về phát triển Chính phủ điện tử, thủ tục hành chính điện tử,
thương mại điện tử, phát triển giao thông thông minh, đô thị thơng minh, để đờng bộ với thể
chế chính sách về phát triển du lịch thơng minh.
Xác định mơ hình và triển khai thí điểm
Phát triển du lịch thơng minh là định hướng chiến lược nhất quán của Đảng và Chính
phủ, phù hợp với thực tiễn và xu thế phát triển chung của thế giới. Tuy nhiên, không nhất
thiết địa phương nào cũng phải phát triển du lịch thông minh. Căn cứ vào điều kiện kinh tế
– xã hội, cơ sở vật chất – kỹ thuật, kết cấu hạ tầng, trình độ công nghệ, nguồn nhân lực và
tiềm năng phát triển du lịch,… xác định một số địa phương trọng điểm triển khai thí điểm
mơ hình du lịch thơng minh. Đờng thời, gắn phát triển du lịch thông minh với các lĩnh vực
có liên quan như đơ thị thơng minh, giao thông thông minh, nông nghiệp thông minh, quản
lý năng lượng thơng minh,… Có thể lựa chọn 3 hoặc 5 địa phương có điều kiện kinh tế – xã
hội phát triển, đang đứng đầu bảng xếp hạng về mức độ sẵn sàng cho ứng dụng và phát triển
công nghệ thông tin gờm: Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hờ Chí Minh, Quảng Ninh, Thừa
Thiên – Huế làm mơ hình thí điểm cho phát triển đô thị thông minh và du lịch thông minh.
Việc xác định rõ mô hình và triển khai thí điểm sẽ giúp Trung ương và địa phương tập trung
được nguồn lực cho phát triển du lịch thông minh, tránh thực hiện dàn trải, manh mún, nhỏ
lẻ, thiếu hiệu quả và gây lãng phí ng̀n lực. Kết quả của một số mơ hình thí điểm này sẽ là
bài học kinh nghiệm quý giá để ngành du lịch và các địa phương khác học hỏi.
Chú trọng phát triển khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin – truyền thông
theo hướng ứng dụng cho ngành du lịch, tạo nền tảng cơng nghệ cho du lịch thơng minh
Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần có cơ chế, chính sách ưu tiên, khuyến
TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 58/2022
79
khích các hoạt động nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ cho ngành du lịch. Cần xác
định và ưu tiên đầu tư cho các hạng mục công nghệ quan trọng hỗ trợ phát triển du lịch thông
minh, bao gồm: xây dựng cơ sở dữ liệu ngành; đầu tư phát triển hạ tầng công nghệ; đầu tư
sản xuất các phần mềm, hệ thống, chương trình, ứng dụng, tiện ích thơng minh cho ngành
du lịch; nghiên cứu ứng dụng các công nghệ tiên tiến sản xuất các sản phẩm và dịch vụ du
lịch thông minh; nghiên cứu ứng dụng các công nghệ tiên tiến cho công tác quản lý và phát
triển điểm đến; ứng dụng công nghệ cho công tác thống kê du lịch; ứng dụng công nghệ cho
công tác bảo tồn, phục chế các giá trị di sản, di tích phục vụ du lịch.
Phát triển nguồn nhân lực có trình độ cơng nghệ và đẩy mạnh hợp tác quốc tế về
khoa học công nghệ
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ với các nước phát triển để học hỏi
kinh nghiệp, nâng cao năng lực nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ với phát triển
du lịch thông minh; hợp tác, chuyển giao công nghệ và hợp tác đầu tư phát triển cơng nghệ
cho Việt Nam. Bên cạnh đó, ngành Du lịch cần chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát
triển ng̀n nhân lực, đảm bảo ng̀n nhân lực ngồi trình độ chun mơn về du lịch phải có
khả năng đáp ứng yêu cầu sử dụng và vận hành công nghệ, sẵn sàng tiếp cận và thích ứng
với du lịch thơng minh. Thu hút nhân tài có trình độ cao về công nghệ vào làm việc trong
ngành du lịch.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về phát triển du lịch thông minh
Theo Lê Quang Đăng, 2018, nâng cao nhận thức của người dân về du lịch thông minh,
tuyên tuyền sâu rộng nâng cao nhận thức của cộng đồng về các hoạt động du lịch trực tuyến,
những ưu điểm và những tờn tại, bất cập của nó để khách du lịch và người dân hiểu, có
những hoạt động tích cực, “thơng minh”, tránh bị lợi dụng, lừa đảo. Khuyến khích các doanh
nghiệp du lịch đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ trong kinh doanh, tiếp cận du lịch
thông minh. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong hoạt động quản lý nhà nước về du lịch,
nâng cao hiệu quả quản lý, từng bước điện đại hóa ngành du lịch.
Đầu tư hoàn thiện hệ thống hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin, đây là nền
tảng để phát triển du lịch thông minh. Cần chuẩn bị đầy đủ các điều kiện về hạ tầng
mạng, hạ tầng phần cứng, hạ tầng phần mềm, hạ tầng nhân lực, vốn và công nghệ
trước khi triển khai để đảm bảo tính hợp lý và hiệu quả. Khi thế giới đang theo xu
hướng công nghệ 4.0, cơ sở vật chất phục vụ cho công tác đào tạo du lịch cũng không
thể nào trang bị như đào tạo theo hướng truyền thống, mà đòi hỏi cơ sở đào tạo phải
có trang thiết bị bắt kịp với xu thế.
3. KẾT LUẬN
Phát triển du lịch thông minh là xu hướng tất yếu của thời đại, nó sẽ tạo ra một diện mạo
mới cho ngành du lịch Việt Nam và du lịch thế giới. Tuy nhiên, để phát triển du lịch thơng
minh cần phải có những điều kiện và tiền đề nhất định – nền tảng cốt lõi là ứng dụng những
thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến của CMCN 4.0.
80
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
Trong phạm vi bài viết “ Phát triển du lịch thông minh – Cơ hội và thách thức đối với
du lịch Việt Nam” tác giả chỉ tập trung phân tích những cơ hội, thách thức trong phát triển
du lịch thông minh ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp để thúc đẩy phát
triển du lịch thông minh tại Việt Nam trong thời gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Chỉ thị số 58-CT/TW về Đẩy mạnh
ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2. Chính phủ (2015), Nghị quyết số 26/NQ-CP về việc Ban hành chương trình hành động của Chính
phủ thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW.
3. Chính phủ (2017), Nghị quyết số 124/NQ-CP về việc Bổ sung danh sách các nước có cơng dân
được thí điểm cấp thị thực điện tử.
4. Bộ Chính trị (2017), Nghị quyết số 08-NQ/TW về Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn.
5. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2014), Quyết định số 3728/QĐ-BVHTTDL về việc ban hành kế
hoạch tổng thể ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin của Bộ VHTT&DL giai đoạn 20162020.
6. Bộ Thông tin truyền thơng, Hội tin học Việt Nam (2018), Báo cáo tóm tắt chỉ số sẵn sàng cho
phát triển và ứng dụng CNTT-TT Việt Nam (VN ICT Index 2018), NXB Thông tin Truyền thông,
HN.
7. Lê Quang Đăng (2018), Cách mạng công nghiệp 4.0 và tiến trình phát triển du lịch thông minh
tại Việt Nam, Viện nghiên cứu phát triển du lịch.
8. Phạm Thị Thùy Linh (2020), Du lịch thông minh - Xu hướng phát triển tất yếu của ngành Du lịch
Việt Nam, Tạp chí Cơng thương Việt Nam.
DEVELOPING SMART TOURISM IN VIETNAM
– OPPORTUNITIES AND CHALLENGES
Abstract: Smart tourism is a type of tourism that has been developed on the basis of
applying modern scientific and technological achievements, especially information and
communication technology, in order to meet the increasing demands of tourists. Nowadays,
many big cities in the world have started to apply information technology to serve tourists
such as booking services at hotels and restaurants, applying for visas, buying air tickets,
finding routes, tourist destination selection, etc. Smart tourism is an inevitable development
trend of world tourism in general and Vietnam's tourism industry in particular. In this
article, the author focuses on analyzing the opportunities and some difficulties and
challenges when developing smart tourism in Vietnam.
Keywords: Smart travel, smart destination, industrial revolution 4.0.