![]() TRƯỜNG
TRƯỜNG
 ĐẠI
 HỌC
 NGOẠI
 THƯƠNG 
KHOA
 KINH
 TẾ
 NGOẠI
 THƯƠNG 
FOREIGN
 TRAI*
 UNIVERSI1Y 
KHỎA LUẬN TỐT NGHIỆP 
ĐỀ TÀI: 
NGÂN HÀNG
 -
 BẢO
 HIỀM 
XU
 HƯÓNG PHÁT
 TRIỂN
 TRÊN THỈ
 TRƯỞNG
 THẾ
 GIỎI 
VÀ
 ỨNG DỤNG
 TẠI
 VIỆT
 NAM 
Sinh
 viên
 thực hiện
 :
 Lưu
 Thị
 Mỹ
 Vân 
Lớp
 :
 AU -
 K40D
 -
 KTNT 
Giáo viên
 hướng
 dẫn
 :
 TS.
 Trịnh Thị
 Thu
 Hương 
L\l
 OOlẾé 
L
 Mĩ 
Hà
 Nội -
 2005 
MỤC LỤC 
Lời mở đầu Ì 
Chương
 ĩ:
 Tổng
 quan
 về
 Ngân hàng
 -
 Bảo
 hiểm
 3 
ì.
 Khái
 niệm
 Ngân hàng
 -
 Bảo
 hiểm
 3 
1.
 Khái
 niệm
 3 
1.1.
 Định
 nghĩa
 3 
Ì .2.
 Đạc
 điểm
 rút
 ra từ
 định
 nghĩa
 4 
2.
 Khái quát
 về sự
 ra đời
 và phát
 triển
 Ngân hàng
 -
 Bảo
 hiểm
 8 
2.1.
 Quá
 trình
 ra đời
 và
 phát
 triển
 Ngân hàng
 -
 Bảo
 hiểm
 8 
2.2.
 Nguyên nhân
 ra đời
 Ngân
 hàng
 - Bảo
 hiểm
 9 
3.
 Đặc
 điểm
 của
 Ngân hàng
 -
 Bảo
 hiểm
 12 
4.
 Lợi
 ích
 của
 Ngân hàng
 -
 Bảo
 hiểm
 15 
n. Nội
 dung
 hoạt
 động
 Ngân hàng
 -
 Bảo
 hiểm
 17 
Ì.
 Các hình
 thậc
 cùa Ngân hàng
 -
 Bảo
 hiểm
 17 
2.
 Các kênh phân
 phối
 của
 Ngân hàng
 -
 Bảo
 hiểm
 19 
2.1.
 Các
 đại
 ư
 chuyên
 nghiệp
 (Career
 Agents)
 19 
2.2.
 Các
 nhà tư vẩn đạc
 biệt
 20 
2.3.
 Các
 đại
 lí
 được
 trả
 lương
 (Salaried
 agents)
 20 
2.4.
 Các nhân
 viên
 bán hàng
 tại
 ngân hàng
 21 
2.5.
 Thành
 lập
 /
 Mua
 lại
 các
 đại
 lí
 hoặc
 các
 công
 ty
 môi
 giới
 22 
2.6.
 Bán hàng
 trực
 tiếp
 22 
2.7.
 Bán hàng
 qua
 Internet
 22 
2.8.
 Môi
 giới
 điện
 tử
 23 
3.
 Các
 mô
 hình phân
 phối
 của
 Ngân hàng
 -
 Bảo
 hiểm
 24 
3.1.
 Mô
 hình
 thống
 nhất
 (còn
 gọi
 là
 Mô
 hình
 chung)
 24 
3.2.
 Mô
 hình
 chuyên
 nghiệp
 25 
3.3.
 Mô
 hình
 kế
 hoạch
 tài
 chính
 25 
in.
 Các nhân
 tố
 ảnh
 hưởng
 tới
 Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 26 
1.
 Tên
 tuổi,
 thương
 hiệu
 và uy
 tín của
 ngân hàng
 26 
2.
 Hệ
 thống
 phân
 phối
 27 
3.
 Kỹ
 thuật
 công
 nghệ
 27 
4.
 Van hóa
 .„ „ '.
 28 
Chương
 li:
 THỰC TRẠNG VÀ xu HƯỚNG
 PHÁT
 TRIỂN
 NGÂN HÀNG -
BẢO
 HIỂM
 TRÊN
 THẾ
 GIỚI
 30 
ì.
 Tính
 tất
 yếu của xu
 huống
 phát
 triển
 Ngân hàng
 -
 Bảo
 hiểm
 trên
 thế
 giới
 30 
n. Sự
 phát
 triển
 Ngân
 hàng
 -
 Bảo hiểm
 trên
 thị
 trường
 một
 số
 nước
 Qiâu Âu
 và Mỹ 
 31 
1.
 Ngân hàng
 -
 Bảo
 hiểm
 tại
 Châu
 Âu 31 
1.1.
 Ngân hàng
 -
 Bảo
 hiểm
 phát
 triển
 đầu
 tiên
 và
 nhanh
 chóng
 tại
 Châu
 Âu. 31 
Ì .2.
 Châu
 Âu
 có
 nhiều
 động
 lực
 để
 phát
 triển
 Ngân hàng
 -
 Bảo
 hiểm
 32 
1.3.
 Chiến
 lược
 phát
 triển
 Ngân hàng
 -
 Bảo
 hiểm của
 Châu
 Âu 32 
Ì .4.
 Tiết
 kiệm
 chi
 phí
 là
 ưu
 điểm
 nổi bật của
 Ngân
 hàng
 -
 Bảo hiểm
 ở
 Châu
 Âu.
 34 
Ì .5.
 Ngân hàng
 -
 Bảo
 hiểm chiếm
 un
 thế
 so vái
 các kênh bán
 bảo hiểm
 khác 
tại
 Châu
 Âu 35 
Ì .6.
 Đóng góp
 của
 Ngân hàng
 -
 Bảo
 hiểm
 vào
 mức
 tang
 trưởng
 ngành bảo 
hiểm
 ở Chau
 Âu .„ 37 
2.
 Ngân hàng
 -
 Bảo
 hiểm
 tại
 Mỹ 38 
2.1.
 Động
 lực
 phát
 triển
 Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 38 
2.2. Chiến
 lược
 phát
 triển
 Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 tại
 Mỹ 39 
2.3.
 Khách hàng mục
 tiêu
 của
 Ngân hàng
 -
 Bảo
 hiểm
 tại
 Mỹ 40 
2.4.
 Các
 sản
 phẩm
 bảo hiểm
 được
 phân
 phối nhiều
 qua
 kênh Ngân hàng
 -
 Bảo 
hiểm
 tại
 Mỹ 41 
2.5.
 Bảo
 hiểm
 thanh
 toán
 phí một
 lẩn
 được
 ưa chuộng
 tại
 Mỹ 42 
2.6.
 Ngân hàng
 -
 Bảo
 hiểm
 phát
 triển tại
 Mỹ
 tạo
 nguồn
 thu
 từ
 tiền
 hoa
 hồng 
bán
 bảo hiểm cho các
 ngân hàng
 45 
2.7.
 Ngân hàng
 -
 Bảo
 hiểm
 tại
 Mỹ
 chú
 trọng
 tệi đội
 ngũ
 nhân
 viên
 và các
 nhà 
quản
 lí
 46 
HI.
 Sự
 phát
 triển
 Ngân hàng
 -
 Bảo
 hiểm
 ở
 các
 nưệc Châu
 Á 49 
Ì.
 Động
 lực
 phát
 triển
 Ngân hàng
 -
 Bảo
 hiểm
 tại
 Châu
 Á 49 
2.
 Ánh
 hưởng
 của vấn
 đề pháp
 lí
 tệi
 sự
 phát
 triển
 Ngân hàng
 -
 Bảo
 hiểm
 tại 
Châu
 Á „ „
 52 
3.
 Danh
 mục
 sản
 phẩm bảo
 hiểm
 được phân
 phối
 qua kênh Ngân hàng
 -
Bảo
 hiểm
 tại
 Châu
 Á 56 
4.
 Ngân hàng
 -
 Bảo
 hiểm
 ở
 Châu
 Á
 -
 một kênh bổ
 sung cho
 kênh
 đại
 lí 
truyền
 thống
 59 
5. Các hình
 thức
 Ngân hàng
 -
 Bảo
 hiểm
 ở
 Châu
 Á 61 
6. Vai trò
 quan
 trọng
 của
 các công
 ty
 nưệc ngoài
 đối
 vệi
 phát
 triển
 Ngân 
hàng
 -
 Báo
 hiểm
 tại
 Châu
 Á 61 
7.
 Tiết
 kiệm
 chi
 phí
 -
 ưu
 điểm
 nổi
 bật
 của
 Ngân
 hàng
 -
 Bảo
 hiểm
 tại
 Châu
 Á 63 
8. Tiềm
 năng phát
 triển
 Ngân hàng
 -
 Bảo
 hiểm
 tại
 Châu
 Á 63 
Chương
 IU:
 ÚNG
 DỤNG
 NGÂN HÀNG
 - BẢO
 HIỂM
 TẠI VIỆT
 NAM 66 
ì.
 Khả nâng úng
 dụng
 Ngân hàng - Bảo
 hiểm nói chung
 tại
 Việt
 Nam 66 
1.
 Khái quát
 về
 quá
 trình phát
 triển
 ngành
 bảo hiểm và
 ngành ngân hàng
 Việt
 Nam 66 
2.
 Xu
 hưệng
 phát
 triển
 của
 thị
 Hường
 bảo hiểm và
 thị
 trường
 tài
 chính (ngân
 hàng) 
 12 
3.
 Môi trường pháp
 lí
 77 
4.
 Trình độ
 nhận
 thức
 của người
 dân
 78 
n.
 Thực
 tế
 ứng
 dụng
 Ngàn hàng
 -
 Bào
 hiểm
 tại
 Việt
 Nam 78 
1.
 Hoạt
 động Ngân hàng
 -
 Bảo
 hiểm
 tại
 Việt
 Nam 78 
2.
 Bảo
 hiểm
 tiền
 gửi
 -
 Sự
 gắn
 kết
 phổ
 biến nhất giữa
 ngành ngân hàng và 
ngành bảo
 hiểm
 ở
 Việt
 Nam 83 
m.
 Một số
 kiên
 nghị
 nhằm thúc
 đẩy
 úng
 dụng
 Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 tại
 việt
 Nam 
 84 
1.
 Giải
 pháp
 về
 Luật
 pháp và chính sách
 của
 Nha nưệc
 85 
2.
 Các
 giải
 pháp
 về
 nhận
 thức
 85 
3.
 Các
 giải
 pháp về chính sách
 của
 công
 ty hoạt
 động Ngân hàng
 -
 Bảo 
hiểm 
 87 
Kết luận
 ỌQ 
Tài
 liệu
 tham khảo ỹ
 Ì 
Mưu
 <Jkị
 Jtặ
 <Vàn
 di4
 OC40<T)
 OtQQlG 
LỜI
 MỞ ĐẦU 
Ngành bảo
 hiểm
 cũng
 như ngành ngân hàng
 là
 hai
 trong
 số
 những
 ngành
 kinh
 tế 
then
 chốt
 không
 thể
 thiếu
 đối với
 mỗi
 quốc
 gia.
 Hiện nay,
 trong
 bối
 cảnh
 nền 
kinh
 tế
 thế
 giới
 ngày càng
 hội
 nhập
 theo
 xu
 hướng
 tự
 do
 hóa,
 toàn cầu
 hóa,
 hợp 
tác
 giữa
 ngành ngân hàng và ngành bảo
 hiểm là
 một
 trong
 những
 thay đổi lớn
 lao 
cạa
 thị
 trường
 tài
 chính
 thế
 giới
 giai
 đoạn
 gần
 đây.
 Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 đã
 trở 
thành một xu
 thế
 phát
 triển tất
 yếu
 trên
 thị
 trường
 thế giới. 
Ngân hàng - Bảo
 hiểm là
 một
 hoạt
 động hợp
 tác
 đem
 tới lợi
 ích
 cho cả
 phía ngân 
hàng và phía bảo
 hiểm,
 hơn
 thế
 nữa khách hàng
 cũng
 được
 hưởng
 lợi.
 Với
 các 
mõ hình phân
 phối
 khác
 nhau
 phù hợp
 với
 hoàn
 cảnh
 cụ
 thể cạa
 từng
 quốc
 gia, 
hoạt
 động Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 đã
 hết
 sức
 thành công trên
 thị
 trường các nước 
phát
 triển
 và hứa hẹn sẽ
 mang
 lại
 nhiều
 thành
 tựu
 đáng kể cho các nước đang 
trên
 đường
 ứng
 dụng
 Ngàn hàng - Bảo
 hiếm. 
Xét
 thấy
 khả nâng ứng
 dụng
 và phát
 triển
 hoạt
 động Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 tại 
Việt
 Nam, và
 nhận
 thức
 sâu
 sắc
 về
 những
 thành công mà các nước
 tiên
 phong
 trên 
thế
 giới
 đã
 đạt
 được,
 Việt
 Nam đang nỗ
 lực
 thúc đẩy quá trình hợp tác
 giữa
 ngân 
hàng và công
 ty
 bảo
 hiểm.
 Cho đến nay
 hoạt
 động Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 cạa 
Việt
 Nam đã
 đạt
 được một
 số
 bước
 phát
 triển
 nhất
 định. 
Tuy
 nhiên,
 những
 gì
 hoạt
 động Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 đã làm được
 đối với
 ngành 
bảo hiểm,
 ngành ngân hàng nói riêng
 cũng
 như nền
 kinh
 tế
 Việt
 Nam nói
 chung 
vẫn
 còn
 rất
 khiêm
 tốn,
 chưa
 hội
 nhập
 được
 với
 tốc
 độ phát
 triển
 nhanh
 cạa Ngân 
hàng - Bảo
 hiểm
 trên
 thế giới.
 Việc
 giải
 quyết
 những
 vướng
 mắc,
 tồn
 tại
 nhằm ứng 
dụng
 Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 một cách
 hiệu
 quả
 trong
 thời
 gian
 tới
 đang là một 
công
 tác
 quan
 trọng
 cạa
 Nhà
 nước,
 các
 doanh
 nghiệp
 và nhân dân
 Việt
 Nam. 
Chính
 vì
 thế,
 em đã
 lựa
 chọn
 để
 tài
 nghiên
 cứu
 mang
 tên:
 "Ngân hàng - Bảo
 hiểm -
Xu
 hướng
 phát
 triển
 trên
 thị
 trường
 thê
 giói
 và ứng
 dụng
 tại
 Việt
 Nam." 
Ì 
Mưu
 <Jkị
 Jtặ
 <Vàn
 di4
 OC40<T)
 OtQQlG 
Ngoài
 những
 phần
 như mục
 lục,
 phụ
 lục,
 tài
 liệu
 tham
 khảo,
 đề
 tài
 được
 chia
 làm 
3
 phẩn
 chính như
 sau: 
Chương
 Ì -
 Tổng
 quan
 về
 Ngân hàng - Bảo
 hiểm 
Chương 2 -
 Thực
 trạng
 và xu
 hướng
 phát
 triển
 Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 trên
 thị 
trường
 thế
 giới 
Chương 3
 -
 Khả năng ứng
 dụng
 Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 tại
 Việt
 Nam 
Em xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ vô cùng quí báu cốa Tiến sĩ Trịnh Thị Thu 
Hương,
 người
 đã
 tận
 tình
 hướng
 dẫn,
 giúp đỡ em
 trong
 suốt
 quá trình
 tiến
 hành 
nghiên
 cứu
 đề
 tài
 này. 
Vì
 thời
 gian
 và
 điều
 kiện
 hạn
 chế, việc
 đi sâu đi sát
 thực
 tế
 nhằm tìm
 ra
 hướng 
giải
 quyết
 thỏa
 đáng cho vấn đề còn gặp
 nhiều
 khó
 khăn,
 nên
 chắc
 chắn
 đề tài 
nghiên cứu còn
 nhiều
 hạn
 chế. Rất
 mong
 sẽ
 nhận
 được ý
 kiến
 đóng góp
 cốa
 các 
cơ
 quan
 ban
 ngành,
 các nhà nghiên
 cứu,
 các
 thầy
 cô giáo và đông đảo độc
 giả
 để 
đề
 tài
 nghiên
 cứu
 được hoàn
 thiện
 hơn. 
2 
Mưu
 <Jkị
 Jtặ
 <Vàn
 di4
 OC40<T)
 OtQQlG 
Chương
 ì: 
TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG - BẢO HIỂM 
ì. KHÁI NIỆM NGÂN HÀNG - BẢO HIỂM 
1. Khái niệm 
1.1. Định nghĩa 
Bắt nguồn
 từ
 tiếng
 Pháp ghép từ 2 từ
 "bank"
 và
 "assurance",
 thuật
 ngữ 
"Bancassurance"
 mà
 trong tiếng Việt
 gọi
 là Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 trước đây 
được
 định
 nghĩa
 là "một
 chiến
 lược do các ngân hàng và công
 ty
 bảo
 hiểm
 thực 
hiện với
 mục đích
 vận
 hành
 thị
 trường
 dịch
 vụ
 tài
 chính
 theo
 một phương
 thấc
 ít 
nhiều
 mang
 tính
 hội
 nhập
 hơn."
 ' 
Ngày nay, có thể định
 nghĩa
 Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 là
 "việc
 ngân hàng và công 
ty
 bảo
 hiểm
 hợp tác
 với
 nhau
 để phát
 triển
 và phân
 phối
 một cách
 hiệu
 quả các 
sân phẩm ngân hàng và bảo
 hiểm
 thông qua
 việc
 cung
 cấp các sản phẩm cho 
cùng một cơ
 sở
 khách hàng."
 2
 Tấc
 là,
 Ngân hàng - Bảo
 hiểm là
 việc
 các công
 ty 
bào
 hiểm
 bán sản phẩm bảo
 hiểm
 thông qua hệ
 thống
 ngân
 hàng,
 là một kênh; 
bán hàng bổ
 sung
 cho
 những
 mạng
 lưới
 phân
 phối truyền
 thống của
 các
 đại lí
 và. 
môi
 giới
 bảo
 hiểm,
 đồng
 thời
 là một
 dịch
 vụ tài chính
 trọn
 gói mà ngân hàng 
cung
 cấp cho khách hàng bao gồm
 dịch
 vụ ngân hàng và
 dịch
 bảo
 hiểm.
 Ngân 
hàng - Bảo
 hiểm
 không
 chỉ
 bán bảo
 hiểm
 cho khách hàng của ngân
 hàng,
 mà 
còn
 khai
 thác một cách
 triệt
 để
 nhất
 sự
 hợp tác
 từ
 hai
 phía,
 cũng
 như
 những
 the 
mạnh
 sẵn có của
 hai
 bên đế
 đạt
 được
 những
 lợi
 ích
 chung
 và riêng
 nhất
 định, 
đổng
 thời
 thỏa
 mãn nhu
 cầu của cả
 ngành ngân hàng và ngành bảo
 hiểm. 
1
 Định
 nghĩa
 năm 1992 cùa công
 ty
 tái
 bào
 hiểm
 toàn
 cầu Swiss
 Re 
2
 Theo
 bài
 viết
 cùa tác
 giả
 Lương Xuân Trường
 trẽn
 Thòi báo
 kinh tế Việt
 Nam ngày 8/8/2005 
3 
Mưu
 <Jkị
 Jtặ <Vàn di4 OC40<T) OtQQlG 
1.2.
 Đặc điểm rút ra từ định nghĩa 
ỉ.2.1.
 Người bảo hiếm 
Người
 bảo
 hiếm
 trong
 Ngân hàng - Bào
 hiểm
 là công
 ty
 bảo
 hiểm
 kí hợp đồng 
phân
 phối
 qua ngân hàng, là công
 ty
 bảo
 hiểm
 và ngân hàng
 trong
 trường hợp 
liên
 doanh
 hay hợp tác
 chiến
 lược,
 hoặc
 là công
 ty
 hoạt
 động Ngân hàng - Bảo 
hiểm
 được thành
 lập mới.
 Các công
 ty
 này
 nhận
 trách
 nhiệm
 về
 rủi ro,
 được 
hường
 phí bảo hiểm
 và
 phải bồi
 thường
 cho người
 được bảo
 hiểm
 khi
 có
 tổn
 thất, 
mất
 mát
 với
 đối
 tượng bảo
 hiểm
 do
 những
 rủi
 ro
 được bảo
 hiểm
 gây
 ra.
 Người 
bảo hiểm
 trong
 Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 có
 thể
 là
 công
 ty
 của
 nhà nước hay
 của
 tư 
nhân,
 công
 ty nội
 đầa
 hay công
 ty
 nước ngoài. 
Các công
 ty
 này có
 nghĩa
 vụ công
 khai
 tuyên bố các quy
 tắc,
 thể
 lệ,
 điều
 kiện, 
giá cả bảo
 hiểm
 cho
 người
 được bảo
 hiểm
 biết;
 bồi
 thường đầy đủ và
 nhanh 
chóng
 cho người
 được bảo
 hiểm
 khi
 có
 tổn
 thất
 thuộc
 trách
 nhiệm
 bảo
 hiểm;
 bảo 
vệ
 quyền
 lợi
 cho
 người
 được bảo
 hiểm đối với người thứ ba;
 áp
 dụng
 các
 biện 
pháp đề
 phòng,
 ngăn
 ngừa,
 hạn
 chế
 tổn
 thất. 
Quyển
 lợi
 của các công
 ty
 này là được
 người
 được bảo
 hiểm
 thông báo mọi
 tin 
tức
 về
 đối
 tượng bảo
 hiểm,
 về sự
 thay
 đổi
 hoặc
 tăng thêm
 rủi
 ro;
 được
 nhận
 phí 
bảo hiểm
 đầy đủ, đúng
 hạn;
 được
 người
 được bảo
 hiểm
 thông báo
 khi
 có
 tổn 
thất. 
1.2.2. Người được bảo hiếm 
Người
 được bảo
 hiểm
 trong
 Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 là
 người
 có tên
 trong
 hợp 
đồng
 bảo
 hiểm
 được phân
 phối
 qua ngân
 hàng,
 có
 thể
 là
 những
 khách hàng cũ 
của
 công
 ty
 bảo
 hiểm
 trước
 đây mua bảo
 hiểm
 qua các kênh
 truyền
 thống,
 có
 thể 
là
 những
 khách hàng đã có mối
 quan
 hệ
 với
 ngân hàng nhưng trước đây chưa 
tham
 gia
 bảo
 hiểm,
 cũng
 có
 thể
 là
 những
 khách mới hoàn
 toàn.
 Mục tiêu của 
Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 là
 gia
 tăng lượng
 người
 được bảo
 hiểm
 thuộc
 đối
 tượng 
khách hàng
 của
 ngân
 hàng,
 vì
 đây
 là
 tầng
 lớp
 dân chúng
 trung
 lưu đầy
 tiềm
 năng 
mà chưa được
 khai
 thác. Các khách hàng này là
 những
 người
 có
 lợi
 ích bảo 
4 
Mưu
 <Jkị
 Jtặ
 <Vàn
 di4
 OC40<T)
 OtQQlG 
hiểm,
 những
 người
 bị
 thiệt
 hại khi
 rủi
 ro xảy
 ra,
 phải
 nộp phí bảo
 hiểm
 và được 
người
 bảo
 hiểm bổi
 thường
 những
 tổn
 thất,
 mất mát
 với
 đối
 tượng bảo
 hiểm
 do 
rủi
 ro
 được bảo
 hiểm
 gây
 ra. 
Các khách hàng này có
 nghĩa
 vụ bảo
 quản
 đối
 tượng bảo
 hiểm;
 thông báo mọi 
tin
 tầc
 về
 đối
 tượng bảo
 hiểm,
 về sự
 thay
 đổi
 hoặc
 tăng thêm
 rủi
 ro
 cho
 người 
bảo hiểm
 biết;
 nộp phí bảo
 hiểm
 đầy
 đủ,
 đúng
 hạn; khi
 có
 tổn
 thất
 phải
 thông 
báo
 cho người bảo hiểm
 biết
 hoặc
 đại diện
 của
 họ
 tại
 địa
 phương gần
 nhất
 và yêu 
cẩu
 giám định
 trong
 thời
 gian
 sớm
 nhất, khai
 báo
 ngay
 với
 cơ
 quan
 chầc
 trách 
địa
 phương để xử
 lí
 và
 lập
 biên
 bản
 theo
 luật
 lệ
 hiện
 hành,
 áp
 dụng
 các
 biện
 pháp 
ngăn
 ngừa,
 đề phòng, hạn chế
 tổn
 thất,
 lập
 các
 chầng
 từ
 cần
 thiết
 và bảo lưu 
quyển
 khiếu
 nại đối với người thầ ba,
 báo cho
 người
 bảo
 hiểm
 biết
 để làm các 
thủ
 tục tổn
 thất
 chung. 
Quyền
 lợi
 của
 các khách hàng này
 là
 được
 người
 bảo
 hiểm
 bồi
 thường đẩy đủ và 
nhanh
 chóng
 khi
 có
 tổn
 thất
 thuộc
 trách
 nhiệm
 bảo
 hiểm;
 được
 người
 bảo
 hiểm 
công
 khai
 thông báo về các quy
 tắc,
 thể
 lệ,
 điều
 kiện,
 giá cả bảo
 hiểm;
 được 
người
 bảo
 hiểm
 bảo vệ
 quyền
 lợi
 đối với người thầ ba;
 được mời cơ
 quan
 giám 
định
 tổn
 thất
 trong
 trường hợp đã thông báo
 tổn
 thất
 cho
 người
 bảo
 hiểm
 nhưng 
người
 bảo
 hiểm
 chậm
 trễ
 tới
 giám
 định. 
Ị.23. Đôi tương bảo hiểm 
Do Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 giống
 như
 một
 kênh mới phân
 phối
 sản
 phẩm bảo
 hiểm 
cùa công
 ty
 bảo
 hiểm qua
 ngân
 hàng,
 nên các
 sản
 phẩm
 bảo hiểm
 Ngân hàng - Bảo 
hiểm
 cung
 cấp là
 rất
 đa
 dạng.
 Vì
 vậy, đối
 tượng bảo
 hiểm
 của Ngân hàng - Bảo 
hiểm
 bao gồm
 tất
 cả các
 đối
 tượng bảo
 hiểm
 có
 thể
 có,
 hay nói cách khác bao gồm 
tất
 cả
 các
 tài sản
 và
 lợi
 ích mà
 người
 được bảo
 hiểm
 mang
 ra
 bảo
 hiểm
 trong
 hoạt 
động
 phân
 phối
 bảo hiểm qua
 các kênh
 truyền
 thống
 trước
 đây. Đối
 tượng
 bảo hiểm 
có
 thể
 là tài
 sản,
 con người
 hoặc
 trách
 nhiệm
 đối với
 người
 thầ
 ba. 
Như đã nói ở
 trên,
 khách hàng mục tiêu
 của
 Ngân hàng - Bảo
 hiểm là
 các khách 
hàng ngân
 hàng,
 nên
 những
 đối
 tượng bảo
 hiểm
 thường gặp
 trong
 Ngân hàng -
5 
Mưu
 <Jkị
 Jtặ
 <Vàn
 di4
 OC40<T)
 OtQQlG 
Bảo
 hiểm là tài sản
 mà các khách hàng này
 vay
 tiền
 ngân hàng để mua, và
 là con 
người
 trong
 trường hợp các khách hàng
 trung
 lưu
 bắt
 đầu nâng cao
 nhận
 thức 
được
 lợi
 ích
 của
 bảo
 hiểm
 và mua bảo
 hiểm
 nhân
 thọ. 
1.2.4. Giá tri bảo hiềm 
Giống
 với
 cách tính giá
 trị
 bào
 hiểm
 trong
 hoạt
 động phân
 phối
 bảo
 hiểm
 theo 
kiểu truyền
 thống,
 giá
 trị
 bảo
 hiểm
 trong
 Ngân hàng - Bảo
 hiểm đối với
 bảo 
hiểm
 tài sản là giá
 trị
 của
 đối
 tượng lúc
 bắt
 đầu bảo
 hiểm
 cộng
 thêm phí bảo 
hiểm
 và các
 chi
 phí có liên
 quan
 khác.
 Đối với
 bảo
 hiểm
 con
 người,
 giá
 trị
 bảo 
hiểm
 được
 thỏa
 thuận.
 Còn giá
 trị
 bảo
 hiểm
 đối
 với
 bảo
 hiểm
 trách
 nhiấm
 dân sự 
là
 theo
 luật
 định.
 Giá
 trị
 bảo
 hiểm ghi
 trên hợp đồng bảo
 hiểm
 là
 giới
 hạn trách 
nhiấm
 cao
 nhất
 mà
 người
 bảo
 hiểm
 nhận
 trách
 nhiấm
 bổi
 thường
 đối
 với
 một vụ 
tổn
 thất
 xảy
 ra
 với
 đối
 tượng bảo
 hiểm. 
Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 là một kênh phân
 phối
 tiết
 kiấm chi phí,
 do đó
 nhiều 
công
 ty
 hoạt
 động Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 có khả năng
 giảm
 tỉ lấ
 phí bảo
 hiểm, 
tạo
 nên một
 lợi
 ích được
 giảm
 phí bảo
 hiểm
 cho các khách
 hàng.
 Bù
 lại,
 khi
 có 
tổn
 thất
 xảy
 ra,
 giá
 trị
 bảo
 hiểm -
 mức
 giới
 hạn trách
 nhiấm
 mà
 người
 bảo
 hiểm 
phải
 bồi
 thường
 -
 cũng
 giảm,
 nhờ
 thế
 công
 ty hoạt
 động Ngân hàng - Bảo
 hiểm 
sẽ chịu
 trách
 nhiấm
 bồi
 thường
 ít
 hơn. 
Để
 bảo vấ
 quyền
 lợi
 của
 người
 bảo
 hiểm
 cũng
 như
 người
 được bảo
 hiểm
 trong 
viấc
 tính toán
 chi
 phí và đồng
 thời
 tránh
 những
 tranh
 chấp
 không cần
 thiết
 xảy 
ra,
 cần
 xác định giá
 trị
 bảo
 hiểm
 một cách chính xác. 
ì .2.5. Sô tiền bảo hiềm 
Trong bảo hiểm người
 ta bồi
 thường
 bằng
 tiền,
 vì vậy
 mỗi đơn
 vị
 bảo
 hiểm
 đều
 ghi 
số
 tiền
 bảo
 hiểm
 để làm cơ sở cho
 viấc
 bổi
 thường.
 Cũng
 giống
 như số
 tiền
 bảo 
hiểm
 được quy
 định
 trong
 hoạt
 động phân
 phối
 bảo
 hiểm
 theo
 kiểu truyền
 thống,
 số 
tiền
 bảo
 hiểm
 trong
 Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 là toàn bộ hay một
 phẩn
 giá
 trị
 bảo 
hiểm
 do
 người
 được bảo
 hiểm
 yêu cầu và được bảo
 hiểm,
 và
 chỉ
 có
 thể
 nhỏ hơn 
6 
Mưu
 <Jkị
 Jtặ
 <Vàn
 di4
 OC40<T)
 OtQQlG 
hoặc
 bằng
 giá
 trị
 bảo
 hiểm.
 Nói cách
 khác,
 số
 tiền
 bảo
 hiểm là
 mức
 bồi
 thường
 tối 
đa
 trong
 trường
 hợp
 tổn
 thất
 toàn
 bộ,
 được xác
 định
 trên
 cơ
 sở số
 tiền
 bảo hiểm. 
Nếu
 số
 tiền
 bảo
 hiểm
 bằng
 giá
 trị
 bảo
 hiểm
 (mua
 bảo hiểm
 tới
 giá
 trị),
 thì
 khi
 bổi 
thưuờng,
 tổn
 thất
 bao nhiêu
 bồi
 thường bấy
 nhiêu,
 với
 điều
 kiện
 là
 tổn
 thất
 do 
các
 rựi
 ro
 được
 thỏa
 thuận
 gây nên. 
Nếu số
 tiền
 bảo
 hiểm
 nhỏ hơn giá
 trị
 bảo
 hiểm
 (mua bảo
 hiểm dưới
 giá
 trị),
 tức 
là người
 bảo
 hiểm
 tự
 bảo hiểm
 lấy
 một
 phần,
 thì người
 bảo
 hiểm
 bồi
 thường căn 
cứ
 vào
 tỷ lệ
 giữa
 số
 tiền
 bảo
 hiểm
 và giá
 trị
 bảo
 hiểm
 nhưng
 chỉ
 trong
 phạm
 vi
 số 
tiền
 bảo
 hiểm. Trong
 trường hợp
 tổn
 thất
 bộ
 phận,
 người
 bảo
 hiểm sẽ
 bồi
 thường 
theo
 tỷ
 lệ
 giữa
 số
 tiền
 bảo
 hiểm
 và giá
 trị
 bảo
 hiếm. 
Nếu số
 tiền
 bảo
 hiểm lớn
 hơn giá
 trị
 bảo
 hiểm,
 thì
 phần
 lớn
 hơn đó không được 
thừa
 nhận,
 không được
 bồi
 thường dù có
 thu phí bảo hiểm. 
Việc
 tiết
 kiệm
 chi
 phí nhờ sử
 dụng
 kênh Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 để phân
 phối 
bảo hiểm
 có
 thể
 làm
 giảm
 phí bảo
 hiểm,
 từ
 đó giá
 trị
 bảo
 hiểm
 cũng
 giảm,
 và số 
tiền
 bảo
 hiểm giảm
 theo
 do luôn nhỏ hơn
 hoặc
 bằng
 giá
 trị
 bảo
 hiểm.
 Có
 thể
 xác 
định
 số
 tiền
 bào
 hiểm
 bằng
 cách công
 ty
 hoạt
 động Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 và 
khách hàng
 trên
 cơ
 sở kiểm
 tra
 đối
 tượng bảo
 hiểm
 và các
 giấy
 tờ,
 sổ sách có liên 
quan
 sẽ
 thỏa
 thuận
 về số
 tiền
 bảo
 hiểm,
 hay áp
 dụng
 bảo
 hiểm
 theo
 giá
 trị trung 
bình
 hoặc
 giá
 trị
 tối
 đa. 
Khi
 có
 tổn
 thất,
 nếu phát
 hiện
 thấy
 số
 tiền
 bảo
 hiểm
 thấp
 hơn số
 tiền
 cần
 thiết 
phải
 bỏ
 ra
 theo
 yêu
 cẩu
 bảo
 hiểm, thì
 tiên
 bồi
 thường
 theo
 hợp đồng bảo
 hiểm
 sẽ 
giảm đi
 theo
 tỉ
 lệ
 giữa
 số
 tiền
 bảo hiểm
 với
 giá
 trị
 thực
 tế
 cựa
 đối
 tượng
 bảo hiểm 
khi
 xảy
 ra tổn
 thất. 
/.2.6. Phí bảo hiếm 
Phí bảo
 hiểm
 trong
 Ngân hàng - Bảo
 hiểm là
 một
 khoản
 tiền
 nhỏ mà các khách 
hàng
 phải
 nộp cho công
 tỵ
 hoạt
 động Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 để được
 bổi
 thường 
khi
 có
 tổn
 thất.
 Mức
 phí bảo hiểm
 thường do công
 ty
 hoạt
 động Ngân hàng - Bảo 
hiểm
 định
 ra
 trên cơ sở tính toán xác
 suất
 xảy ra
 rựi
 ro
 hoặc
 trên cơ sở
 thống
 kê 
7 
Mưu
 <Jkị
 Jtặ <Vàn di4 OC40<T) OtQQlG 
tổn thất,
 nhằm đảm bảo số phí
 thu
 về đù để
 bổi
 thường và bù đắp các
 chi
 phí 
khác đồng
 thời
 có
 lãi.
 Số
 thu
 về phí bảo
 hiểm
 trong khi
 chưa
 bổi
 thường là một 
nguồn
 vốn để công
 ty
 bảo
 hiểm,
 ngân hàng hay công
 ty hoạt
 động Ngân hàng -
Bảo
 hiểm
 mới thành
 lập
 đẩu tư
 sang
 những
 lĩnh
 vực
 kinh
 doanh
 khác. 
Viợc thanh
 toán phí bảo
 hiểm của
 hoạt
 động phân
 phối
 bào
 hiểm qua
 Ngân hàng 
- Bảo
 hiểm
 có
 thể
 tiến
 hành một
 lần
 khi
 kí
 kết
 hợp đồng
 hoặc
 nhiều
 lẩn.
 Tùy 
từng
 nước mà hình
 thức thanh
 toán phí bảo
 hiểm
 một
 lần
 hay
 nhiều lần
 được ưa 
chuộng
 hơn.
 Nhìn
 chung,
 mặc dù
 tỉ lợ
 hoa
 hồng
 đối
 với
 bảo
 hiểm
 thanh
 toán phí 
nhiều lẩn
 cao hơn bảo
 hiếm
 thanh
 toán phí một
 lần,
 nhưng
 với
 mục tiêu
 ngấn
 xu 
hướng
 bán bảo
 hiểm
 thường thiên
 về
 bán bảo
 hiểm
 thanh
 toán phí một
 lẩn
 hơn vì 
có
 thể
 mang
 lại
 ngay
 một
 nguồn
 thu
 nhập
 lớn.
 Tuy
 nhiên,
 xét về mục tiêu dài 
hạn,
 bảo
 hiểm
 thanh
 toán phí
 nhiều
 lẩn
 có khả năng
 sinh
 lợi
 nhuận
 tốt
 hơn do 
xác
 suất
 rủi
 ro
 ít
 hơn,
 không
 chịu
 ảnh
 hưởng
 từ
 những
 biến
 động về
 tỉ lợ
 lãi
 suất. 
Các khách hàng
 phải
 nộp phí bảo
 hiểm
 đúng
 thời
 hạn,
 nếu không
 thì
 ngoài
 viợc 
công
 ty
 hoạt
 động Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 hủy bỏ hợp đồng bảo
 hiểm,
 khách 
hàng
 sẽ vẫn
 phải
 nộp
 số phí cho
 thời
 gian
 đã
 bảo hiểm
 cộng
 thêm một
 khoản
 tiền 
lãi
 theo
 tỉ lợ
 lãi
 suất
 vay ngân hàng quá hạn
 của
 số phí
 phải thanh
 toán cho
 thời 
gian
 chậm
 trả,
 dù có
 bị
 tốn
 thất
 hay không. 
So
 với
 các kênh phân
 phối truyền thống,
 tỉ lợ
 phí bào
 hiểm
 nhờ ứng
 dụng
 Ngân 
hàng - Bảo
 hiểm ít hơn,
 nên phí bảo
 hiểm
 được tính
 bằng
 công
 thức
 số
 tiền
 bảo 
hiểm
 nhân
 với
 tỉ lợ
 phí bảo hiểm
 cũng
 giảm.
 Rõ ràng đây
 là
 một
 lợi
 ích dành cho 
khách
 hàng,
 cho
 thấy
 các khách hàng
 muốn
 mua bảo
 hiểm
 nên quân tâm hơn
 tới 
kênh Ngán hàng - Bảo
 hiểm. 
2. Khái quát về sự ra đòi và phát
 triển
 Ngán hàng - Bảo
 hiểm 
2.1.
 Quá
 trình
 ra đời và
 phát
 triển
 Ngân hàng - Bảo hiểm 
Ngân hàng - Bảo hiểm đã xuất hiợn cách đây khoảng 35 năm tại Pháp. Châu Âu 
là khu vực đẩu tiên
 thiết
 lập
 một hợ
 thống
 Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 vững
 chắc, 
đóng
 vai
 trò làm
 người
 tiên
 phong
 cho các khu vực khác hòa cùng xu
 thế
 tất
 yếu 
8 
Mưu
 <Jkị
 Jtặ
 <Vàn
 di4
 OC40<T)
 OtQQlG 
này. Thành công của
 những
 hoạt
 động Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 tại
 Châu Âu đã 
khơi mào cho một làn sóng mua
 lại
 và sáp
 nhập
 giữa
 các ngân hàng và các công
 ty 
bảo
 hiểm
 khắp
 các châu
 lục.
 Nhiều
 khu vực
 khác
 nhau
 trên
 thế
 giới
 hiện
 đang nỗ
 lực 
để
 đạt
 được
 những
 thành công bước
 đẩu
 của
 hoạt
 động Ngân hàng - Bảo
 hiểm. 
Cho đến nay Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 được công
 nhận
 là một
 trong
 những
 kênh 
phân
 phối
 bảo
 hiểm
 hiệu
 quả trên
 thế
 giới.
 Đối
 với
 các
 quốc
 gia
 chưa phát
 triển 
hợp
 tác Ngân hàng - Bảo
 hiểm,
 giấ
 đây đã
 tới
 lúc
 hội
 nhập
 mình vào thiên niên 
kỷ
 mới
 của
 hoạt
 động phân
 phối
 sản
 phẩm bảo
 hiểm. 
2.2. Nguyên nhân ra đời Ngân hàng - Bảo hiểm 
Việc
 các
 dịch
 vụ bảo
 hiểm
 xuất hiện
 ấ ngân hàng là sự phát
 triển tất
 yếu
 tại
 thị 
trưấng
 tất
 cả
 các nước trên
 thế
 giới.
 Có
 nhiều
 nguyên nhân dẫn
 tới
 việc
 các ngân 
hàng và các công
 ty
 bảo
 hiểm
 đã xem xét
 tới
 hợp tác Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 một 
cách nghiêm túc. 
2.2.1. Hợp tác đế tân dúm thế manh riêng từ đó cùng phát triển 
Các ngân hàng và các công ty bảo hiểm với những thế mạnh riêng từ trước đến nay 
vẫn
 đảm
 nhận
 rất
 nhiều vai
 trò
 trên
 thị
 trưấng
 dịch
 vụ
 tài
 chính.
 Tuy
 nhiên,
 cả
 ngân 
hàng
 lẫn
 công
 ty
 bảo
 hiểm
 đều
 không
 thể
 một mình gây
 dựng
 được
 hoạt
 động Ngân 
hàng - Bảo
 hiểm.
 Hợp
 tác
 chính
 là
 giải
 pháp để
 vận
 hành kênh phân
 phối
 mới
 này. 
Trong
 mối
 quan
 hệ hợp tác, các ngân hàng
 cung
 cấp
 nhiều
 thế
 mạnh.
 Một
 trong 
những
 điểm
 quan
 trọng
 nhất
 là họ có một cơ sở khách hàng
 lớn
 mà đa
 phần 
thuộc tầng lớp trung
 lưu.
 Thêm vào
 đó,
 họ có
 thể tận
 dụng
 được tên
 tuổi,
 thương 
hiệu
 và uy tín
 của
 mình ở
 cấp địa
 phương,
 cấp khu
 vực. Nhiều
 ngân hàng
 lớn
 có 
khả
 năng
 quản
 lí
 rất tốt
 nhiều
 kênh phân
 phối.
 Tuy
 vậy,
 phẩn
 lớn
 các ngân hàng 
lại
 thiếu
 kinh
 nghiệm
 trong
 một
 số
 lĩnh
 vực
 thiết
 yếu
 để có được một
 chiến
 lược 
hợp tác
 Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 thành
 công,
 đặc
 biệt
 là
 lĩnh
 vực
 phát
 triển
 các sản 
phẩm báo
 hiểm
 và
 quản
 lí
 các
 sản
 phẩm bảo
 hiểm
 dài hạn. 
9 
Mưu
 <Jkị
 Jtặ
 <Vàn
 di4
 OC40<T)
 OtQQlG 
Những nhược
 điểm
 nói trên của các ngân hàng
 lại
 chính là
 những
 ưu
 điểm
 của 
các công
 ty
 bảo
 hiểm.
 Hầu
 hết
 các công
 ty
 bảo
 hiểm
 đều có
 kinh
 nghiệm
 phát 
triển
 sản
 phẩm bảo
 hiểm
 và
 là
 chuyên
 gia
 về
 quản
 lí
 đầu
 tư.
 Nhưng mặt
 khác,
 họ 
lại
 thiếu
 kinh
 nghiệm
 và khả năng
 trong
 các
 lĩnh
 vực mà ngân hàng
 chiếm
 ưu 
thế.
 Các công
 ty
 bảo
 hiểm
 không có
 kinh
 nghiệm
 quản
 lí
 các kênh phân
 phối chi 
phí
 thấp;
 họ
 thiếu
 tên
 tuổi,
 thương
 hiệu
 và uy
 tín đối
 với
 đẻa
 phương và
 khu vực; 
và họ
 hầu
 như không
 tiếp
 cận
 với đối
 tượng
 khách hàng
 thu
 nhập
 trung
 bình. 
2.2.2. Nguồn thu nháy cho các ngân hàng và các cóng ty bảo hiếm tăng nhờ 
hoai
 đông bì sân hàng - Bảo hiểm 
Trước đây khi hoạt động riêng lẻ, nguồn thu nhập của các ngân hàng và các công 
ty
 bảo
 hiểm là
 kết
 quả
 của sự cung cấp
 những
 sản
 phẩm,
 dẻch
 vụ
 tài
 chính
 mang 
đặc
 trưng
 của
 ngành.
 Ngân hàng thường đóng
 vai
 trò là
 một
 trung gian
 tín
 dụng, 
thực
 hiện
 chức
 năng huy động
 vốn
 nhàn
 rỗi
 trong
 nền
 kinh tế
 và cho
 vay. Trong 
khi
 đó,
 bảo
 hiểm vẫn
 thường được nhìn
 nhận
 là
 các quỹ dự
 trữ,
 được
 lập ra
 để dự 
phòng cho
 những
 bất
 trắc, rủi
 ro
 có
 thể
 xảy ra
 trong
 tương
 lai.
 Đối
 với
 các ngân 
hàng,
 nguồn thu
 nhập
 có được
 từ
 hoạt
 động bán các sản phẩm,
 dẻch
 vụ ngân 
hàng
 thu lãi
 suất,
 hoạt
 động đầu tư
 vốn; trong khi
 thu
 nhập
 của
 các công
 ty
 bảo 
hiểm
 chù
 yếu là
 doanh
 thu
 phí bảo hiểm
 nhờ bán các
 sản
 phẩm bảo
 hiểm. 
Tuy nhiên, sự
 cạnh
 tranh
 ngày càng gay gắt trên thẻ trường đã làm ảnh
 hưởng 
nghiêm
 trọng
 tới
 lợi
 nhuận
 của
 các ngân
 hàng,
 đổng
 thời rủi
 ro
 tín
 dụng
 luôn
 là
 mối 
lo
 hàng
 đầu.
 Do
 đó,
 các ngân hàng ngày càng
 mong
 muốn
 có được
 tiền
 hoa
 hồng 
thu từ
 hoạt
 động bán các
 sản
 phẩm bảo
 hiểm
 để bổ
 sung
 vào
 thu
 nhập
 chính.
 Đây 
cũng là
 một
 biện
 pháp
 hạn chế
 rủi
 ro tín
 dụng
 trong
 hoàn
 cảnh
 các ngân hàng
 tỏ
 ra 
thận
 trọng
 hơn
 khi
 cho vay vì
 tính
 bất
 ổn của nền
 kinh tế thế
 giới
 đang
 gia
 tăng. 
Sự ra đời của Ngân hàng - Bảo hiểm là một lựa chọn mới mẻ, hấp dẫn cho các 
ngân hàng và các công
 ty
 bảo
 hiểm.
 Các ngân hàng và các công
 ty
 bảo
 hiểm
 xem 
Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 như một
 hoạt
 động
 hiệu
 quả và có khả năng
 sinh lợi 
nhuận
 bổ
 sung cho
 những
 nghiệp
 vụ
 sẵn
 có
 của họ. 
10 
Mưu
 <Jkị
 Jtặ
 <Vàn
 di4
 OC40<T)
 OtQQlG 
2.2.3.
 Ngăn hàng - Bảo hiểm
 tiết kiêm
 chi
 phí hơn,
 nâng cao năns
 suất
 hơn so 
với
 phương
 thức
 bán bảo hiềm
 truyền thống 
Theo
 cách
 truyền
 thống,
 các sản phẩm bảo
 hiểm
 được bán qua các đại lí bán bảo 
hiểm,
 các
 đại lí
 này
 sẽ
 nhận
 tiền
 hoa
 hổng
 từ
 các
 công
 ty
 bảo
 hiểm.
 Vị
 thế
 gần
 như 
độc
 quyền
 trong
 hệ
 thống
 phân
 phối
 các sản phẩm bảo
 hiểm
 đã giúp các
 đại
 lí 
hoạt
 động
 hiệu
 quả.
 Nhưng kênh phân
 phối
 này
 là
 một kênh
 đắt
 đỏ,
 năng
 suất
 lại 
không
 cao
 do các
 đại lí phải
 bỏ
 ra nhiều
 thữi
 gian
 để thăm dò
 thị
 trưững,
 tìm được 
đúng
 đối
 tượng
 khách hàng và
 kí
 kết
 hợp đồng bảo
 hiểm
 với
 các khách hàng đó. 
Trong khi đó, các ngân hàng có thể cung cấp cho các công ty bảo hiểm một hệ 
thống
 phàn
 phối với
 giá cả hợp
 lí
 hơn,
 năng
 suất
 cao hem. Ngân hàng không mất 
thữi
 gian
 thăm dò và tìm
 kiếm
 thị
 trưững.
 Nhữ tên
 tuổi,
 thương
 hiệu,
 uy tín và 
những
 quan
 hệ khách hàng
 hiện
 có;
 các ngân hàng có
 khả
 năng
 cung
 cấp
 một
 thị 
trưững
 sẵn có cho các công
 ty
 bảo
 hiểm.
 Khách hàng thưững có xu
 hướng
 tin 
tưững
 các ngân hàng hơn
 là
 tin
 tưởng
 các công
 ty
 bảo
 hiểm.
 Vì
 vậy,
 hợp tác
 với 
các ngân hàng
 sẽ
 giúp các công
 ty
 bảo
 hiểm
 tận
 dụng
 được
 sự
 tin
 tưởng
 đó. 
2.2.4. Sư bãi bò các quy đinh han chế về hôi nháy tài chính trên thế giới 
Việc nới lỏng các quy định hạn chế và xu thế hội nhập tài chính ngày càng cao 
trên
 thế
 giới
 đã
 tạo
 nên động
 lực
 mới
 cho
 hợp
 tác
 Ngân hàng - Bảo
 hiểm.
 Những 
tiến
 bộ mà công
 cuộc
 hội
 nhập
 và toàn cẩu hóa
 thị
 trưững
 tài
 chính đem
 lại
 đòi 
hỏi
 các nhà cầm
 quyền
 phải
 có cái nhìn
 thực
 tiễn
 hơn
 khi
 giám sát
 điều
 chỉnh 
các
 hoạt
 động hợp
 tác,
 dẫn
 tới
 xóa bỏ bức
 tưững
 ngăn cách trước đây đã
 vạch 
đưững
 ranh
 giới
 rõ ràng
 giữa
 các
 tổ
 chức tài
 chính ở
 nhiều
 nước.
 Các
 thị
 trưững 
mà
 trước
 đây Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 không được công
 nhận
 hợp pháp đã
 bắt
 đầu 
có
 quan
 điểm
 dễ
 dãi
 hơn
 đối với
 việc
 phân
 phối
 các
 sản
 phẩm
 bảo
 hiểm
 qua
 ngân 
hàng,
 các quy định đã bát đầu được
 điều
 chỉnh
 lại. 
li 
Mưu
 <Jkị
 Jtặ
 <Vàn
 di4
 OC40<T)
 OtQQlG 
2.2.5. Tính
 phức
 tay
 ngày càng
 tăng
 của
 khách
 hàng 
Dân số thế
 giới
 đang gia tăng. Tại các
 quốc
 gia nơi mà chính phủ còn
 thiếu
 hụt 
các chính sách
 trợ
 cấp ưu đãi
 đối
 với
 người dân,
 khách hàng có xu
 hướng
 thiên 
về
 mua các sản phẩm đầu
 tư.
 Tâm
 lí
 của khách hàng
 hiện
 nay
 mong
 muốn
 có 
thêm
 nhiều lựa
 chọn
 và
 nhiều
 loại
 sản
 phẩm
 tài
 chính,
 và có khả năng
 lĩnh
 hội 
nhanh
 hơn
 đối với
 các kênh phân
 phối
 mới. 
Tính phức tạp ngày càng tăng của khách hàng đã thúc giục các công ty bảo hiịm 
phải
 tập
 trung
 hơn vào
 quan
 hệ khách
 hàng,
 đẩy
 mạnh
 nhu cầu phát
 triịn
 năng 
lực
 cạnh
 tranh
 thông qua
 cung cấp
 những
 dịch
 vụ cá nhân
 tối
 ưu. Nhiều
 công
 ty 
bảo hiịm
 muốn
 hợp tác
 với
 các ngân hàng đị
 tận
 dụng
 hệ
 thống
 phân
 phối
 của 
ngân
 hàng,
 đị có được
 trợ
 giúp về vốn nhằm phát
 triịn
 các sản phẩm phù hợp 
nhu cầu
 khách hàng hơn. 
3. Đặc điểm của Ngân hàng - Bảo hiểm 
Mặc dù ra đời
 muộn
 hơn so với các kênh phân
 phối
 bảo
 hiịm
 truyền
 thống, 
nhưng sự
 xuất hiện
 của Ngân hàng - Bảo
 hiịm
 với
 các đặc
 điịm
 nổi
 bật,
 đồng 
thời
 là ưu
 điịm
 lớn
 của
 nó,
 đã được
 thực tế
 ứng
 dụng
 chứng minh
 rằng
 đây là 
kênh phân
 phối
 bảo
 hiếm
 có năng
 lực
 cạnh
 tranh
 vượt
 trội. 
3.1. Ngán hàng - Bảo hiểm - một kênh phân phối ổn định, đáng tin cậy và rộng khắp 
Một
 trong
 những
 đặc
 điịm
 của bán bảo
 hiịm
 qua ngân hàng là tính ổn
 định.
 Thứ 
nhất,
 các ngân hàng có
 thế cung
 cấp một kênh bán hàng
 lớn
 mạnh,
 hầu như 
không
 chịu
 ảnh
 hưởng
 từ
 những
 biến
 động
 của
 thị
 trường (như các dao động về 
giá). Khi chỉ
 số giá cổ
 phiếu
 giảm,
 lượng
 quỹ đầu tư được bán qua các công
 ty 
chứng
 khoán
 cũng giảm
 nhưng
 lượng
 quỹ đầu tư được bán qua các ngân hàng 
vẫn
 gia
 tăng.
 Thứ
 hai,
 ngân hàng có một cơ sở khách hàng
 lớn
 và ổn định nên 
Ngân hàng - Bảo
 hiịm
 có
 khả
 năng phân
 phối
 bảo
 hiịm
 ổn định cho các khách 
12 
Mưu
 <Jkị
 Jtặ
 <Vàn
 di4
 OC40<T)
 OtQQlG 
hàng
 này.
 Thứ
 ba,
 các hợp đồng bảo
 hiểm
 được
 kí
 kết
 qua ngân hàng
 rất
 ít khi
 bị 
hủy
 trước
 thời
 hạn. 
Đặc
 điểm
 đáng tin cậy của Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 thể
 hiện
 ở chỗ hách hàng mua 
bảo hiểm
 tại
 các ngân hàng
 sẽ
 có câm giác
 tin
 tưởng
 hơn
 so
 với
 mua
 bảo hiểm
 tại 
các
 đại lí
 bán bảo
 hiểm nhờ
 vào
 tên
 tuụi,
 thương
 hiệu
 và uy
 tín của
 ngân hàng mà 
khách hàng đã
 biết
 đến
 từ
 trước.
 Ngân hàng bao lâu nay đã lưu
 trữ
 và
 quản
 lí
 các 
thông
 tin
 về khách
 hàng,
 nấm
 vững
 tình
 trạng
 tài
 chính
 của
 khách
 hàng.
 Do đó, 
các
 dịch
 vụ tư
 vấn
 mua bảo
 hiểm
 cho khách hàng
 của
 hợp tác Ngân hàng - Bảo 
hiểm
 trở
 nên đáng
 tin
 cậy
 hơn bao
 giờ
 hết,
 khách hàng có
 thể
 tin
 tưởng
 rằng
 các 
sản
 phẩm bảo
 hiểm
 mà họ mua
 thực sự
 phù hợp
 với
 nhu
 cẩu. 
Bẽn
 cạnh
 đó, Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 có
 mạng
 lưới
 phân
 phối
 rộng khắp.
 Ngân 
hàng luôn
 là
 một định
 chế
 tài
 chính
 quan
 trọng,
 có ảnh
 hưởng
 đến
 mọi hoạt
 động 
kinh tế
 và
 toàn bộ
 nền
 kinh tế
 vì hầu
 hết
 các
 giao
 dịch
 đều
 liên
 quan
 tới
 hệ
 thống 
ngân hàng.
 Mạng
 lưới
 ngân hàng
 rộng khắp
 và
 phục
 vụ khách hàng vô số các 
dịch
 vụ tài
 chính,
 nên thông qua các
 dịch
 vụ đó có
 thể kết
 hợp phân
 phối
 sản 
phẩm bảo
 hiểm
 qua ngàn hàng một cách
 tiết
 kiệm
 và
 tiện
 lợi.
 Nhờ
 vậy,
 hợp tác 
Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 được thành
 lập
 sẽ
 tận
 dụng
 được
 điều
 kiện
 vô cùng
 thuận 
lợi
 về
 mạng
 lưới
 phân
 phối,
 giảm bớt sự
 lệ
 thuộc
 hoàn toàn
 của
 ngành bảo
 hiểm 
vào các
 đại lí
 bán bảo
 hiểm
 truyền
 thống đắt
 đỏ. 
3.2. Thế mạnh vê đội ngũ nhăn viên bán hàng của Ngăn hàng - Bảo hiểm 
Nhờ quan hệ hợp tác giữa các ngân hàng và các công ty bảo hiểm, mà Ngân 
hàng - Bảo
 hiểm
 có
 thể
 huy động được một
 lực
 lượng
 dụi
 dào các nhân viên bán 
hàng lành
 nghề thuộc
 cả
 hai
 lĩnh
 vực ngân hàng và bảo
 hiểm.
 Những nhân viên 
này có đù khả năng và
 kinh
 nghiệm
 làm
 việc
 để thích ứng
 với
 bất
 cứ dự án hợp 
tác Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 nào. 
Về phía nhân viên ngân hàng, hầu hết đã ít nhiều gãy dựng được mối quan hệ với 
các
 khách hàng thường xuyên
 lui
 tới
 các
 chi
 nhánh ngân
 hàng,
 đồng
 thời
 đã có
 kinh 
13 
Mưu <Jkị
 Jtặ
 <Vàn di4 OC40<T) OtQQlG 
nghiệm
 làm
 việc với
 các
 đối
 tượng
 trước
 đây
 là
 khách hàng
 tiếp
 nhận
 các dịch
 vụ
 tài 
chính
 của
 ngân
 hàng,
 giờ
 lại
 trở
 thành khách hàng mua
 bảo hiểm qua
 ngân hàng. 
Về phía nhân viên công ty bảo
 hiểm,
 họ có
 kiến
 thức
 chuyên môn về các sản 
phẩm bảo
 hiểm
 nên có
 thể
 tư
 vỏn
 hiệu
 quả cho các khách hàng
 muốn
 mua bảo 
hiểm.
 Chính nhờ hỗ
 trợ
 từ
 các nhân viên công
 ty
 bảo
 hiểm,
 nên
 ngay từ
 đẩu 
không đòi
 hỏi
 quá
 nhiều
 nỗ
 lực
 của
 các phòng
 ban
 Nghiên cứu & Phát
 triển
 phải 
tạo ra
 những
 sản
 phẩm bảo
 hiểm
 mới đáp ứng nhu
 cầu
 khách
 hàng,
 mà
 trước
 hết 
có
 thể
 phát huy
 hết
 hiệu
 quả
 của
 những
 sản
 phẩm bảo
 hiểm sẩn
 có do các công 
ty
 bảo
 hiểm cung cỏp. 
3.3. Ngân hàng - Bảo hiếm huy động được nguồn vốn dồi dào 
Vốn là một
 trong
 những
 yếu tố cơ bản để
 tiến
 hành sản
 xuỏt
 kinh
 doanh.
 Ngân 
hàng thường có
 nguồn vốn
 dổi
 dào và
 khả
 năng huy động
 vốn
 linh
 hoạt vì
 ngoài 
nghiệp
 vụ cỏp tín
 dụng,
 ngân hàng còn
 phải
 có
 vốn
 để
 thực
 hiện
 các
 nghiệp vụ
 sử 
dụng
 vốn khác như đầu tư
 chứng
 khoán,
 bảo
 lãnh,
 chiết
 khỏu,
 cho vay
 trung
 và 
dài
 hạn Khi
 hợp
 tác
 với
 công
 ty
 bảo
 hiểm
 nhằm
 thực
 hiện
 thêm
 nghiệp
 vụ bảo 
hiểm,
 ngân hàng
 với
 nguồn
 vốn
 dồi
 dào và uy
 tín sẩn
 có
 của
 mình
 chắc chắn
 sẽ 
thu
 hút được
 nhiều
 khách hàng do khách hàng
 tin
 tưởng
 vào thương
 hiệu
 và
 thực 
lực
 của
 ngân hàng đó. 
3.4. Ngăn hàng - Bảo hiểm cung cấp một danh mạc sản phẩm đa dạng 
Khi ngân hàng hoạt động độc lập, bên cạnh nghiệp vụ "đi vay để cho vay", ngân 
hàng còn
 cung
 cỏp
 nhiều
 sản
 phẩm
 tài
 chính
 khác.
 Trong
 mối
 quan
 hệ hợp tác 
với
 công
 ty
 bảo
 hiểm,
 ngân hàng
 lại
 càng đa
 dạng
 hóa thêm về sản phẩm, mở 
rộng
 danh
 mục sản phẩm
 với
 các sản phẩm bảo
 hiểm
 mang
 tính bảo
 vệ,
 tiết 
kiệm,
 đáu
 tư 
 Các ngân hàng và các công
 ty
 bảo
 hiểm
 đang hợp tác
 hướng
 tới 
cung
 cỏp một
 lượng
 sản phẩm
 lớn,
 tạo ra
 một "cửa hàng một
 cửa"
 nơi khách 
hàng có
 thể thế
 chỏp tài
 sản, gửi
 tiết
 kiệm
 và mua các
 sản
 phẩm bảo
 hiểm. 
14 
Mưu
 <Jkị
 Jtặ
 <Vàn
 di4
 OC40<T)
 OtQQlG 
Do có
 những
 đặc
 điểm
 thuận
 lợi
 về
 đội
 ngũ nhân viên bán
 hàng,
 về
 nguồn vốn
 và 
về danh
 mục
 sản
 phẩm,
 lại
 là
 một kênh phân
 phối
 hoạt
 động ổn
 định,
 đáng
 tin
 cậy 
và
 rộng
 khắp;
 Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 có đẩy đủ các
 điều
 kiờn
 cân
 thiết
 để ngày 
càng phát
 triển
 và
 chiếm
 được
 thị
 phần
 lớn
 hơn
 trên
 thị
 trường bảo
 hiểm
 toàn
 cầu. 
4. Lợi ích của Ngân hàng - Bảo hiểm 
Ngân hàng - Bảo hiểm mang lại lợi ích cho cả ngân hàng, công ty bảo hiểm, 
cũng
 như khách
 hàng.
 Trong
 xu
 thế
 toàn
 cầu
 tiến tới
 sự
 tự
 do hóa và mức độ
 hội 
nhập
 ngày càng cao của các
 dịch
 vụ tài
 chính,
 những
 lợi
 ích mà Ngân hàng -
Bảo
 hiểm
 đem
 lại
 là những
 đóng góp
 quan
 trọng
 đối với
 sự
 phát
 triển
 kinh
 tế thế 
giới
 nói
 chung,
 và
 sự
 tiến
 bộ
 của
 ngành ngân hàng và ngành bảo
 hiểm
 nói riêng; 
đổng
 thời
 đáp ứng được
 tốt
 hơn nhu
 cầu của mọi
 đối
 tượng
 khách hàng. 
4.1. Lợi ích đối với ngân hàng 
-
 Hưởng
 hoa
 hổng,
 tăng
 doanh
 thu (đặc
 biờt
 có lợi
 trong
 hoàn
 cảnh
 lãi
 suất 
cho vay
 đang
 giảm
 dẩn và
 cạnh
 tranh
 gay
 gắt); 
- Đảm bảo có một
 nguồn
 thu
 nhập
 bổ
 sung
 ổn
 định,
 giảm
 sự
 phụ
 thuộc
 vào 
các
 khoản
 chênh
 lờch
 lãi
 suất
 như
 nguồn
 thu
 nhập
 chính; 
- Đa
 dạng
 hóa các
 sản
 phẩm
 cung
 cấp,
 các
 hoạt
 động
 của
 ngân hàng; 
- Góp
 phần
 vào
 chiến
 dịch
 hỗ
 trợ
 khách hàng; 
- Có thêm khách hàng mới (khách hàng
 của
 các công
 ty
 bảo
 hiểm); 
- Tăng uy
 tín (do
 đáp ứng thêm
 nhiều
 nhu
 cẩu của
 khách
 hàng); 
- Tăng
 hiờu
 quả
 kinh
 doanh,
 tăng
 tổng
 suất
 sinh
 lời
 của tài sản (RŨA); 
- Nâng
 cao
 năng
 lực
 cạnh
 tranh
 của
 ngân hàng; 
- Phân tán và
 giảm
 thiểu
 rủi ro
 cho
 từng
 hoạt
 động
 tín dụng; 
-
 Tiếp
 cận được các
 nguồn
 lực
 là ưu
 thế
 của
 các công
 ty
 bảo
 hiểm, chẳng 
hạn
 như các mức
 thuế
 ưu đãi; 
- Tạo cơ
 hội
 cho
 đội
 ngũ nhân viên ngân hàng
 khai
 thác
 những kĩ
 năng bán 
hàng và thích
 nghi
 với
 môi trường
 kinh
 doanh
 đang
 chuyển
 đổi. 
15 
Mưu
 <Jkị
 Jtặ
 <Vàn
 di4
 OC40<T)
 OtQQlG 
4.2. Lợi
 ích đối với
 công
 ty
 bảo hiểm 
- Tiếp cận cơ sờ khách hàng mới của ngân hàng; 
- Giảm
 chi
 phí phân
 phối
 (chi
 phí
 tuyển
 dụng,
 lựa
 chọn
 và duy
 trì đại
 lí,
 chi 
phí đào
 tạo
 nhân
 công,
 hoa
 hồng
 cho
 một hợp đổng bảo
 hiểm ít
 hơn
 so với 
kênh
 truyền
 thống); 
- Có thêm khách hàng mới (khách hàng
 của
 các ngân
 hàng); 
-
 Khai
 thác phân
 đoạn
 thị
 trường khách hàng
 thuộc tệng lớp
 trung
 lưu, 
khách hàng ở nông thôn; 
- Đa
 dạng
 hóa kênh phân
 phối,
 giảm
 bớt
 sự phụ
 thuộc
 vào các
 đại lí
 bán 
hàng
 truyền
 thống; 
- Tận
 dụng
 được tên
 tuổi,
 uy tín (giúp
 giảm
 chi
 phí
 quảng
 cáo),
 nguồn
 vốn 
dồi
 dào (giúp nâng cao khả năng
 thanh
 toán và mở
 rộng
 kinh
 doanh), 
mạng
 lưới
 phân
 phối rộng
 khắp
 của
 ngân hàng; 
- Tăng
 doanh
 thu, lợi
 nhuận,
 hiệu quả
 kinh
 doanh
 (do
 giảm
 chi
 phí
 thu
 phí ); 
- Phát
 triển
 các
 sản
 phẩm
 tài
 chính mới
 hiệu quả
 hơn nhờ thông
 tin
 về
 khách 
hàng được ngân hàng
 cung
 cấp; 
- Nhân viên ngân hàng không
 chạy
 theo
 sô
 lượng
 hợp đồng như các
 đại lí, 
nên họ có
 thể
 tư vấn cho khách hàng một cách chu đáo và
 tận
 tình,
 tạo 
niềm
 tin
 cho
 khách hàng. 
4.3. Lợi ích đôi vói khách hàng 
- Được
 cung
 cấp một
 dịch
 vụ tài chính
 tổng
 thể, dẫn tới
 tiết
 kiệm
 được
 thời 
gian
 và
 tiền
 bạc, thỏa
 mãn
 nhiều
 nhu
 cệu tài
 chính; 
- Thêm một kênh để
 tiếp
 cận sản phẩm, mở
 rộng
 khả năng
 lựa
 chọn
 kênh 
phân
 phối; 
-
 Thanh
 toán phí đơn
 giản
 (có
 thể
 nộp các
 khoản
 phí
 phải
 đóng định kỳ 
thông qua hệ
 thống tài
 khoản
 của
 ngân hàng một cách dễ
 dàng); 
- Mua
 sản
 phẩm giá
 thấp
 hơn mà
 chất
 lượng
 tốt
 hơn,
 thời
 gian thủ tục kí kết 
hợp
 đồng
 nhanh
 chóng
 thuận
 tiện; 
16 
Mưu
 <Jkị
 Jtặ
 <Vãn
 di4
 OC4ƠT) OtQOlQ 
Được
 thỏa
 mãn nhu
 cầu
 tốt
 hơn
 nhờ các sản
 phẩm mới được phát
 triển; 
Được
 cung cấp
 thông
 tin
 và được
 cung cấp
 thêm một
 số
 dịch
 vụ; 
Mua
 tại
 một
 nơi
 (kết
 hợp ngân hàng và
 dịch
 vụ bảo
 hiểm); 
Khi
 sự
 kiện
 bảo
 hiểm
 xây
 ra,
 nếu có
 tranh
 chấp,
 ngân hàng có
 thể
 sẽ
 thay 
mẫt cho
 khách hàng
 giải
 quyết
 với
 công
 ty
 bảo
 hiểm
 để
 đảm
 bảo
 quyền
 lợi 
cho
 khách hàng. 
Những
 lợi
 ích cụ
 thể
 được nêu trên đây phân ánh rõ Ngân hàng
 -
 Bảo
 hiểm
 là 
một
 kênh phân
 phối hiệu
 quả
 đối với
 cả
 hai
 bên
 đối
 tác là ngân hàng và công
 ty 
bảo hiểm.
 Không
 chỉ
 hấp dẫn
 đối với
 các ngân hàng và các công
 ty
 bảo
 hiểm, 
khách hàng
 cũng
 là
 những
 người
 được
 hưởng
 lợi.
 Vì
 vậy,
 rõ ràng các nước trên 
thế giới
 cẩn
 phát
 triển
 hoẫc
 phát
 triển
 hơn nữa hợp
 tác
 Ngân hàng
 -
 Bảo
 hiểm
 để 
không bò
 lỡ
 cơ
 hội thu
 về
 lợi
 ích
 cho
 tất
 cả
 mọi người. 
n.
 NỘI
 DUNG
 HOẠT
 ĐỘNG
 NGAN HẢNG
 - BÁO HIÊM 
1.
 Các hình
 thức
 của
 Ngân hàng
 -
 Bảo
 hiểm 
T
 H ư VI
 (ỉ
 N 
Lưtĩít 
•
 ỉísr 
Về cơ
 bản,
 ngân hàng đóng
 vai
 trò như một
 trung
 gian
 giới
 thiệu
 và
 hưởng
 hoa 
hổng.
 Các công
 ty
 bảo
 hiểm
 mua không
 gian
 của
 ngân hàng để bán các
 sản
 phẩm 
bảo hiểm
 cho
 những
 khách hàng có nhu cầu
 mua
 bảo
 hiểm.
 Khách hàng có
 thể 
trực
 tiếp
 mua
 bảo
 hiểm
 ở
 các
 chi
 nhánh ngân hàng
 thay
 vì
 phải
 đến công
 ty
 bảo 
hiểm.
 Xu
 hướng
 hợp tác
 của
 các ngân hàng và các công
 ty
 bảo
 hiểm
 hiện
 nay là 
hợp tác
 theo
 hướng
 ngày càng
 hội
 nhập
 để
 chiếm
 lĩnh
 các
 thị
 trường
 tài
 chính. 
Các ngân hàng thường hợp tác với các công ty bảo hiểm theo bốn hình thức 
chính bao gồm: kí
 kết
 các hợp đồng phân
 phối,
 hợp tác
 chiến
 lược,
 liên
 doanh 
hoẫc
 thành
 lập
 các
 tổ
 chức
 tài
 chính có tính
 hội
 nhập
 cao (xếp
 theo
 trình
 tự
 mức 
độ
 hội
 nhập
 tăng
 dần). 
Kí
 kết
 các hợp đồng phân
 phối
 là
 các ngân hàng và các công
 ty
 bảo
 hiểm
 kí
 kết 
hợp
 đồng phân
 phối
 ràng
 buộc
 hai
 bên
 đối
 tác
 dưới
 dạng
 độc
 quyền
 hoẫc
 không 
17 
Mưu
 <Jkị
 Jtặ
 <Vàn
 di4
 OC40<T)
 OtQQlG 
độc
 quyền.
 Sau
 khi
 kí
 kết,
 các ngân hàng sẽ phân
 phối
 các
 sản
 phẩm bảo
 hiểm 
(bán riêng
 lẻ
 hoặc
 bán cùng các
 sản
 phẩm ngân
 hàng)
 để
 nhận nguồn
 thu từ
 phí 
bảo
 hiểm.
 Hình
 thức
 Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 này không cần
 phải
 có một
 nguồn 
vốn
 đẩu
 tư
 lớn,
 hai
 bên
 ít
 hoặc
 không
 chia
 sẻ
 cơ
 sở
 khách hàng. 
Hình
 thức
 hợp tác
 chiến
 lược là
 hai
 bên hợp tác
 trong việc
 phát
 triển
 sản
 phẩm, 
và có
 thể
 là
 trong việc chia
 sẻ thông
 tin
 khách
 hàng.
 Tuy
 nhiên,
 cả
 hai
 bên đều 
đòi
 hịi phải
 có
 sự đầu tư
 vào công
 nghệ
 thông
 tin
 và nhân viên bán hàng. 
Một
 hình
 thức
 khác
 là
 các ngân hàng và các công
 ty
 bảo
 hiểm
 thành
 lập
 công
 ty 
liên
 doanh
 mà
 hai
 bên cùng góp
 vốn
 và
 chia
 sẻ trách
 nhiệm quản
 lí.
 Trong
 một 
số
 trường
 hợp,
 bền
 chiếm
 ưu
 thế
 hơn
 sẽ chịu
 trách
 nhiệm điều
 hành công
 ty
 liên 
doanh.
 Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 dưới
 hình
 thức
 này
 cung cấp cho
 cả ngân hàng
 lẫn 
công
 ty
 bảo
 hiểm quyền sở hữu chung về
 các
 sản
 phẩm và khách
 hàng.
 Do
 đó,
 rõ 
ràng có sự
 chia
 sẻ cơ sở khách hàng
 giữa hai
 bên.
 Điểm
 khác
 biệt
 là liên
 doanh 
đòi
 hịi phải
 có
 sự
 cam
 kết
 chắc chắn
 và lâu dài
 từ hai
 phía ngân hàng và công
 ty 
bảo hiểm. 
Hình
 thức
 có tính
 hội
 nhập
 cao
 nhất
 là
 ngân hàng thành
 lập
 một
 chi
 nhánh bảo 
hiểm,
 có
 thể
 thông qua mua
 lại
 sáp
 nhập hoặc
 thành
 lập mới.
 Ngày
 nay,
 sáp
 nhập 
công
 ty
 bảo
 hiểm
 và ngân hàng
 là
 một hình
 thức
 thường
 gặp,
 nhung
 nó
 đòi
 hịi
 cả 
hai
 bên
 phải
 cam
 kết
 phát
 triển
 một công
 ty
 hợp
 tác,
 một
 chiến
 lược hợp
 tác
 mới 
hoàn
 toàn.
 Sau
 khi
 tổ chức
 tài chính mới được thành
 lập,
 các
 hoạt
 động và hệ 
thống
 vận hành cùa ngàn hàng và công
 ty
 bảo
 hiểm
 có
 thể hội
 nhập
 hoàn toàn, 
tận
 dụng
 được cơ sở khách hàng
 hiện
 có của cả
 hai
 bên. về mặt
 cung
 cấp sản 
phẩm, các sản phẩm có tính
 hội
 nhập
 hoàn
 toàn,
 đồng
 thời
 tạo
 cho khách hàng 
cơ
 hội
 hưởng
 tất
 cả các
 dịch
 vụ
 tài
 chính
 tại
 một nơi. 
Ngân hàng - Bảo hiểm khai thác được những tiềm năng bảo hiểm còn chưa được 
các kênh
 truyền
 thống
 khai
 phá,
 từ
 đó góp
 phần
 làm tăng
 doanh thu
 phí bảo 
hiểm.
 Phương
 tiện
 để
 khai
 thác
 những
 tiềm
 năng đó là
 tạo
 ra những
 sản phẩm 
mới
 phù hợp
 những
 nhu
 cầu của
 khách hàng trước đây chưa được
 quan
 tâm đến, 
hay
 đơn
 giản
 chỉ
 là thông qua
 khai
 thác các phân
 đoạn
 thị
 trường mà các
 đại
 lí 
18 
Mưu
 <Jkị
 Jtặ
 <Vàn
 di4
 OC40<T)
 OtQQlG 
chưa
 tiếp
 cận.
 Bên
 cạnh đó,
 các ngân hàng và các công
 ty
 bảo
 hiểm
 không quên 
phát
 triển
 các
 biện
 pháp để
 thỏa
 mãn nhu
 cầu của
 khách hàng
 hiện có, tận
 dụng 
và đào
 tạo
 thêm
 đội
 ngũ nhân viên
 sẩn
 có, tổ
 chức
 lại
 hệ
 thống
 bán hàng
 hiện
 tại 
và
 giới
 thiệu
 những
 chiến
 lưắc bán hàng phù hắp
 (lựa
 chọn
 kênh phân
 phối,
 mô 
hình phân
 phối
 đúng
 đắn),
 những
 biện
 pháp mới hỗ
 trắ
 bán hàng. 
2. Các kênh phân phôi của Ngân hàng - Bảo hiểm 
Ngân hàng - Bảo hiểm về cơ bản giống như một kênh phân phối các sản phẩm 
bảo hiểm
 qua ngân
 hàng.
 Tuy
 nhiên,
 bản thân Ngân hàng - Bảo
 hiểm cũng
 bao 
gồm
 nhiều
 kênh phân
 phối
 bán bảo
 hiểm
 mà để có
 thể
 thành công, các kênh 
phân
 phối
 bộ
 phận
 này
 phải
 cùng
 vận
 hành
 với
 nhau. Nhiều người
 cho
 rằng
 các 
chiến
 lưắc phát
 triển
 Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 hiệu
 quả
 nhất phải lệ thuộc
 vào 
khách hàng và các kênh phân
 phối,
 chứ
 không phụ
 thuộc
 vào
 sản
 phẩm. 
Theo
 cách
 truyền thống,
 ở hầu hết các
 nước,
 các sản phẩm bảo
 hiểm
 đưắc
 quảng 
cáo và đưắc bán chủ yếu thông qua các
 đại lí.
 Cùng
 với
 sự phát
 triển
 của
 công 
nghệ,
 sự
 nâng
 cao
 trình độ
 nhận
 thức
 của
 khách hàng và các rào
 cản
 pháp
 lí
 đang 
dần
 đưắc bãi
 bỏ;
 nhiều
 kênh phân
 phối
 mới đã phát
 triển
 nhanh
 và
 mạnh
 trong 
những
 năm
 gần
 đây. 
2.1. Các đại lí chuyên nghiệp (Career Agents) 
Các đại lí chuyên nghiệp là nhũng người bán bảo hiểm có kí hắp đồng đại lí. Họ 
thường
 đưắc
 coi
 như
 những
 nhà
 thầu hoạt
 động độc
 lập,
 tức
 là
 công
 ty
 kí
 hắp đồng 
với
 họ
 chỉ
 quản
 lí
 những
 hoạt
 động
 của
 đại lí
 đưắc nêu rõ
 trong
 hắp
 đồng.
 Mặc dù 
phạm
 vi
 quản
 lí
 có
 hạn,
 nhưng các
 đại lí
 chuyên
 nghiệp
 là những người
 bán bảo 
hiểm
 đưắc đào
 tạo
 chuyên môn, nên nếu có động
 lực
 phù hắp và đưắc giám sát 
hắp
 lí
 thì
 họ
 sẽ
 hoạt
 động cho năng
 suất cao,
 sử
 dụng
 hiệu
 quả
 chi
 phí.
 Hơn nữa, 
do cung cấp dịch
 vụ khách hàng
 tốt
 sẽ nhận
 đưắc các
 khoản
 thưởng hắp
 đồng,
 nên 
chất
 lưắng
 dịch
 vụ khách hàng
 của
 các
 đại lí
 chuyên
 nghiệp
 thường
 cao. 
19 
Mưu
 <Jkị
 Jtặ
 <Vàn
 di4
 OC40<T)
 OtQQlG 
Tuy
 nhiên,
 một
 số
 công
 ty hoạt
 động Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 tránh kênh phân
 phối 
này
 vì
 nghĩ
 rằng
 các
 đại lí
 thường
 chạy
 theo số
 lượng
 nên cố bán được càng
 nhiều 
sản
 phẩm càng
 tốt,
 mà không chú
 trọng
 đến
 chất
 lượng.
 Nhược
 điểm
 đó không phát 
sinh
 từ
 bản
 chất
 của kênh phân
 phối
 này, mà nguyên nhân là do một số
 đại
 lí 
thường
 lợi
 dụng
 kiếm
 lời từ
 những
 quy
 định
 chưa
 chứt chẽ về
 thù
 lao
 và
 tiền
 thưởng. 
2.2. Các nhà tu vấn đặc biệt 
Các nhà tư vấn đức
 biệt
 là
 những
 nhân viên có trình độ chuyên môn cao, thường là 
nhân viên của bên
 đối
 tác bảo
 hiểm
 - bên phân
 phối
 các
 sản
 phẩm bảo
 hiểm
 cho 
các khách hàng cùa ngân
 hàng.
 Các ngân hàng thường
 chuyển
 nhũng
 yêu
 cẩu
 phức 
tạp
 liên
 quan
 tới
 bảo
 hiểm
 tới
 các nhà
 tư
 văn đức
 biệt
 này để
 giải
 quyết.
 Đối
 tượng 
khách hàng
 của
 các nhà
 tư vấn đức
 biệt
 chủ yếu
 bao gồm
 những
 người
 đòi
 hỏi
 dịch 
vụ chất
 lượng
 cao và đáp ứng các nhu câu cá
 nhãn.
 Thông thường các nhà tư vấn 
đức
 biệt
 được
 nhận
 thù
 lao
 và
 tiền
 thường
 dựa theo
 doanh
 số sản
 phẩm bán
 được. 
2.3. Các đại lí được trả lương (Salaried agents) 
Các đại lí được trả lương là các đại lí nằm dưới sự quản lí và giám sát của công ty 
hoạt
 động Ngân hàng - Bảo
 hiểm.
 Bán
 bảo hiểm
 qua kênh các
 đại
 lí
 được
 trả
 lương 
có
 thuận
 lợi
 là
 họ
 thực hiện
 đúng
 nhiệm
 vụ và mục tiêu của công
 ty
 quản
 lí.
 Kênh 
phân
 phối
 các
 đại
 lí
 được
 trả
 lương
 của
 Ngân hàng - Bảo
 hiểm
 gần
 giống với
 kênh 
các
 đại
 lí
 của
 công
 ty bảo hiểm
 truyền
 thống
 và có
 đức
 điểm
 chung
 với
 kênh các
 đại 
lí
 chuyên
 nghiệp.
 Điểm
 khác
 biệt
 duy
 nhất là
 họ được
 trả
 lương,
 trong
 khi
 các
 đại lí 
chuyên
 nghiệp
 được
 nhận
 tiền
 thuồng dựa
 trên
 doanh
 số sản
 phẩm bán
 được. 
Một số công ty hoạt động Ngân hàng - Bảo hiểm bị ảnh hưởng bởi những kết 
quả
 tiêu cực đo các
 đại lí
 chuyên
 nghiệp
 quá
 tập
 trung
 chạy
 theo
 doanh
 số,
 mà 
không chú
 trọng
 tới
 chất
 lượng
 dịch
 vụ khách
 hàng,
 nên đã
 chuyển
 đổi
 hệ
 thống 
bán hàng cùa họ thành các
 đại
 lí
 được
 trả
 lương. 
20 
Mưu
 <Jkị
 Jtặ
 <Vàn
 di4
 OC40<T)
 OtQQlG 
2.4.
 Các nhãn viên bán hàng
 tại
 ngân hàng 
Các nhân viên bán hàng tại ngân hàng là những nhân viên ngân hàng được bố trí 
ngay
 tại
 các ngân hàng để
 giới
 thiệu
 khách hàng
 tới
 gặp
 những
 người đại
 diện 
cho
 công
 ty
 bảo
 hiểm
 trong
 ngân
 hàng.
 Nhân viên bán hàng
 tại
 ngân hàng có
 thể 
là
 nhân viên
 thu
 ngân
 hoặc
 một
 trợ lí
 về
 nghiệp
 vụ ngân
 hàng;
 còn
 người
 đại
 diện 
cho
 công ty bảo
 hiểm
 trong
 ngân hàng có
 thể
 là một nhân viên ngân hàng 
chuyên trách
 hoặc
 một
 đại
 diện
 đến
 từ
 công
 ty
 bảo
 hiểm
 đối
 tác. 
Tại một số ngân hàng, các nhân viên bán hàng có sự trợ giúp của các nhà tư vấn 
tài
 chính
 trong
 ngân
 hàng.
 Các nhân viên ngân hàng
 thiết
 lứp
 quan
 hệ
 với
 khách 
hàng để bán các
 sản
 phẩm
 giản
 đơn;
 còn
 những
 khách hàng
 quan
 trọng
 hơn,
 các 
sản
 phẩm
 phức
 tạp
 hơn
 thuộc
 phạm
 vi
 đảm
 nhứn của
 các nhà
 tư vấn
 tài
 chính
 trong 
ngân
 hàng.
 Các nhà
 tư vấn
 tài
 chính thường bán bảo
 hiểm
 ngay
 tại
 chi
 nhánh ngân 
hàng;
 nhưng một
 số
 ngân hàng
 cũng
 thành
 lứp lực
 lượng
 bán bảo
 hiểm
 cơ
 động. 
Các nhân viên bán hàng tại ngân hàng thường bán những sân phẩm bảo hiểm đơn 
giản.
 Nhưng
 hiệu
 quả
 bán hàng
 của
 các nhân viên ngân hàng chưa
 cao
 do
 thời
 gian 
họ
 dành
 cho
 việc
 bán
 bảo
 hiểm chỉ
 hạn
 chế
 trong giờ
 làm
 việc
 cùa ngân
 hàng,
 và họ 
còn
 phải
 đảm
 nhứn những
 nhiệm
 vụ
 khác
 trong
 ngân
 hàng.
 Ngoài
 ra,
 thị
 trường
 mục 
tiêu
 của họ
 chỉ
 giới
 hạn
 ở
 những
 khách hàng
 tới
 ngân hàng
 trong giờ
 làm
 việc. 
Nếu các nhân viên bán hàng tại ngân hàng chỉ đóng vai trò như đội ngũ bán bảo 
hiểm
 "thụ
 động"
 (không chủ động tìm
 kiếm
 khách
 hàng),
 thì sẽ cản
 trở
 nghiêm 
trọng tiềm
 năng
 của
 hoạt
 động Ngân hàng - Bảo
 hiểm.
 Do
 đó, cẩn
 phải
 tứn
 dụng 
được
 các nhân viên bán hàng
 trở
 thành các
 trung
 tâm "chủ
 động"
 giới
 thiệu 
khách hàng
 tới
 các
 đại lí
 chuyên
 nghiệp,
 các nhà tư
 vấn
 đặc
 biệt,
 các
 đại lí
 được 
trả
 lương.
 Có như
 vứy,
 số
 lượng
 sản phẩm bảo
 hiểm
 bán được mới cao và
 thu 
nhiều
 lợi
 nhuứn cho
 công
 ty hoạt
 động Ngân hàng - Bảo
 hiểm. 
21