Tải bản đầy đủ (.pdf) (257 trang)

Lịch sử Việt Nam: Một số chuyên đề (Tập 3) - Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.86 MB, 257 trang )

NGOẠI GIAO VIỆT NAM
TỪ 1945 ĐẾN NAY
Trần Nam Tiến(*)

Ngày 28/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh thành lập
Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gồm 15 bộ,
trong đó có Bộ Ngoại giao do Chủ tịch Hồ Chí Minh kiêm Bộ trưởng.
Từ đó, ngày 28/8 hàng năm trở thành ngày truyền thống của ngành
Ngoại giao Việt Nam. Ngoại giao Việt Nam là một mặt trận quan trọng
phối hợp nhịp nhàng với mặc trận quân sự và chính trị nhằm thực hiện
sứ mệnh cao cả nhất của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam là xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống
nhất, dân chủ và giàu mạnh. Với sự phối hợp nhịp nhàng, mặt trận
ngoại giao không những đã hỗ trợ đắc lực cho mặt trận quân sự và
chính trị mà cịn tạo ra những điều kiện quốc tế thuận lợi để đưa cách
mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên, giành nhiều thắng lợi quan trọng.
Trong suốt quá trình đó, ngoại giao Việt Nam đã vượt qua nhiều thử
thách, thơng qua đấu tranh để tự hồn thiện và trưởng thành, tạo nên
một nền ngoại giao riêng, đầy bản sắc của Việt Nam, vừa kế thừa
truyền thống dân tộc, vừa hấp thu tinh hoa của ngoại giao thế giới.
1. NGOẠI GIAO VIỆT NAM THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945 – 1954)
1.1. Thời kỳ 1945 – 1946
Sau ngày Độc lập (2/9/1945), nước Việt Nam bước vào một giai
đoạn phát triển mới. Tuy nhiên, đây là thời kỳ hết sức khó khăn, phức
tạp, có lúc vận mệnh dân tộc như “ngàn cân treo sợi tóc”. Sau khi ra
đời, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa được nước nào cơng
( )

* Phó giáo sư ‒ Tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học
Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.



227


nhận, chưa có đồng minh; kinh tế đất nước những năm đầu hầu như
khơng có gì; lực lượng qn sự mới được xây dựng phải đối phó cùng
lúc với mấy chục vạn quân nước ngoài bao gồm cả Pháp, Anh, Tưởng
(Trung Hoa Dân quốc) đang lăm le tiêu diệt chính quyền cách mạng
còn non trẻ. Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp dưới sự bảo trợ của quân
Anh đã chính thức nổ súng đánh chiếm Sài Gòn và các tỉnh thành ở
Nam Bộ nhằm xâm lược Việt Nam một lần nữa. Trong bối cảnh đó,
ngoại giao được xem là một cơng tác hết sức trọng yếu, là vũ khí của
cách mạng để chèo lái con thuyền Việt Nam vượt qua cơn thử thách.
Ngày 3/10/1945, Bộ Ngoại giao Chính phủ lâm thời đã ra thơng cáo về
chính sách đối ngoại của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khẳng
định mục tiêu phấn đấu cho nền độc lập “hoàn toàn và vĩnh viễn” của
Việt Nam, hợp tác thân thiện với các nước đồng minh và các dân tộc
láng giềng1. Nhiệm vụ chiến lược đặt ra cho ngoại giao lúc bấy giờ là:
Khai thác mâu thuẫn trong hàng ngũ địch để ta có thể tập trung mũi
nhọn vào kẻ thù chủ yếu và lâu dài; Có sách lược đấu tranh với kẻ thù
chủ yếu để tranh thủ thời gian, chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng
chiến lâu dài; Từng bước tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của bạn bè,
tìm kiếm đồng minh, nhằm thốt dần thế bị bao vây, cô lập, tiến tới
tranh thủ sự công nhận của thế giới đối với Nhà nước non trẻ.
Đối với các nước trong phe Đồng Minh chống phát xít, Việt
Nam thể hiện tinh thần thân thiện và hợp tác trên lập trường bình đẳng
tương ái”. Ngày 22/10/1945, với tư cách là Bộ trưởng Ngoại giao, Hồ
Chủ tịch gửi thư cho Ngoại trưởng Hoa Kỳ nêu bốn đề nghị cụ thể: “1–
Vấn đề liên quan đến Việt Nam phải đuợc thảo luận tại cuộc họp đầu
tiên của Hội đồng cố vấn về Viễn Đơng. 2– Đồn đại biểu Việt Nam

phải được phép phát biểu quan điểm của Chính phủ Việt Nam. 3–Một
ủy ban điều tra phải được cử đến Việt Nam. 4– Nền độc lập hoàn toàn
của Việt Nam phải được Liên Hiệp Quốc cơng nhận”2. Sau đó thay
mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng nhiều lần gửi điện, thư, cơng hàm tới Chính phủ Liên Xơ, Hoa
1. Vũ Dương Hn, “Thơng cáo 3/10/1945 về chính sách ngoại giao: Văn kiện ngoại
giao đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số
39, 2008, tr. 17 – 21.
2 Trần Hữu Đính – Lê Trung Dũng, Quan hệ Việt – Mỹ trong Cách mạng Tháng
Tám, NXB Khoa học Xã hội, 1997, tr. 118.

228


Kỳ, Trung Quốc (Quốc Dân Đảng) là những nước lớn trong phe Đồng
Minh khi đó, đề nghị thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam và
công nhận nền độc lập của Việt Nam. Cụ thể, ngày 16/2/1946, Hồ Chủ
tịch đã gởi điện cho Tổng thống Mỹ Harry Truman “Yêu cầu nước Mỹ
với tư cách là người bảo vệ và là nhà quán quân của công lý thế giới,
thực hiện một bước quyết định trong sự ủng hộ nền độc lập của Việt
Nam”1. Tuy nhiên, các nước lớn trong phe Đồng Minh đã giữ một lập
trường có lợi cho riêng mình nên đã “im lặng” trước những đề nghị
thiện chí của phía Việt Nam về thiết lập quan hệ ngoại giao và công
nhận Việt Nam.
Ngay từ những ngày đầu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường
lối ngoại giao đa phương. Tháng 9/1947, trả lời phỏng vấn của nhà báo
Mỹ về chính sách đối ngoại của Việt Nam, Hồ Chủ tịch đã đưa ra tuyên
bố bất hủ là Việt Nam muốn “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và
khơng gây thù ốn với một ai”2. Có thể nói, nhờ chính sách ngoại giao
đa phương được xác định ngay từ ngày đầu thành lập của nước Việt

Nam Dân chủ Cộng hoà mà trong khi các nước lớn cự tuyệt hoặc phớt
lờ quan hệ ngoại giao với Việt Nam, không công nhận nền độc lập của
Việt Nam, Việt Nam vẫn đạt được những thành tựu nhất định trong việc
phá thế bao vây cô lập. Cuối năm 1946 đầu năm 1947, Việt Nam đã lập
được cơ quan đại diện ngoại giao ở một số nước châu Á như có trụ sở ở
Bangkok (Thái Lan), Rangoon (Miến Điện), có quan hệ chính thức với
Thái Lan, Miến Điện, Ấn Độ, Indonesia… Việt Nam cũng lập 11 cơ
quan thông tin ở nhiều nước trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cử
nhiều đặc phái viên Chính phủ và sĩ quan liên lạc đến hơn 10 nước và
khu vực khác nhau ở châu Á, châu Âu, tới các Hội nghị thuộc Liên Hợp
Quốc ở khu vực… theo hình thái ngoại giao đa phương.
Tuy nhiên, giai đoạn 1945 – 1946, ngoại giao Việt Nam tập trung
vào nhiệm vụ chính là đối phó với Tưởng và Pháp. Trong hồn cảnh
phải đối phó với cuộc xâm lược trở lại của thực dân Pháp ở Nam Bộ,
sự uy hiếp của quân Tưởng ở ngoài Bắc nhằm lật đổ chính quyền cách
mạng, Chính phủ cùng với Hồ Chủ tịch đã vạch rõ: tránh trường hợp
một mình đối phó với nhiều kẻ thù cùng một lúc, từ đó chủ trương tạm
1. Trần Hữu Đính – Lê Trung Dũng, sđd, tr. 142.
2. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, NXB Chính trị Quốc gia, 2000, tr. 220.

229


thời hịa hỗn, tránh xung đột với qn Tưởng. Nhằm hạn chế sự phá
hoại của quân Tưởng ở miền Bắc, tại kỳ họp đầu tiên, Quốc hội khóa I
đã đồng ý nhường cho bọn tay sai theo chân quân Tưởng về Việt Nam
70 ghế trong Quốc hội cùng với 4 ghế bộ trưởng trong Chính phủ liên
hiệp, cho Nguyễn Hải Thần (lãnh tụ Việt Cách) giữ chức Phó chủ tịch
nước; đồng thời nhân nhượng cho quân Tưởng một số quyền lợi kinh
tế như: cung cấp một phần lương thực, thực phẩm, phương tiện giao

thông vận tải, nhận tiêu tiền Trung Quốc. Sau một thời gian, quân
Tưởng đã bắt tay với Pháp, ký Hiệp ước Hoa – Pháp (28/2/1946) cho
phép quân Pháp thay quân Tưởng ra Bắc giải giáp quân Nhật1.
Hiệp ước Hoa – Pháp đặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa trước sự lựa chọn một trong hai con đường: hoặc cầm súng chiến
đấu chống Pháp, không cho chúng đổ bộ lên miền Bắc; hoặc hịa hỗn,
nhân nhượng Pháp để tránh tình trạng phải đối phó một lúc nhiều kẻ
thù. Ngày 3/3/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp đã chọn
giải pháp “Hòa để tiến” đối với Pháp. Chiều ngày 6/3/1946, tại Hà Nội,
Chủ tịch Hồ Chí Minh (thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hịa) đã ký với Jean Sainteny (đại diện Chính phủ Pháp) bản Hiệp định
sơ bộ. Bản Hiệp định có các nội dung chính sau:
– Chính phủ Pháp cơng nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa
là một quốc gia tự do, có chính phủ riêng, nghị viện riêng, quân đội
riêng, tài chính riêng và là thành viên của Liên bang Đông Dương,
nằm trong khối Liên hiệp Pháp;
– Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đồng ý cho 15. 000
quân Pháp vào miền Bắc thay thế cho quân Trung Hoa Quốc dân đảng
để giải giáp quân Nhật, số quân này sẽ đóng tại những địa điểm quy
định và rút dần trong thời hạn 5 năm;
– Hai bên thực hiện ngưng bắn, giữ nguyên quân đội tại vị trí
hiện thời để đàm phán về chế độ tương lai của Đông Dương, quan hệ
ngoại giao giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hịa và nước ngồi và những
quyền lợi kinh tế và văn hóa của Pháp ở Việt Nam2.
1. Theo Hiệp ước Hoa – Pháp, Pháp sẽ trả lại các tô giới, nhượng địa của Pháp trên
đất Trung Quốc và được vận chuyển hàng hóa qua cảng Hải Phịng vào Vân Nam
khơng phải đóng thuế. Xem David G. Marr, Vietnam. State, War and Revolution
(1945 – 1946), Berkeley: University of California Press, 2013, p. 249.
2. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 4, NXB Chính trị Quốc gia, 2000, tr. 324 – 326.


230


Việc ký Hiệp định sơ bộ với Pháp giúp cho Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hịa tránh được việc phải đối đầu với nhiều kẻ thù, đẩy
20 vạn quân Tưởng cùng bọn tay sai ra khỏi Việt Nam, đồng thời có
thêm thời gian hịa bình để củng cố chính quyền cách mạng, chuẩn bị
lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Do Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa kiên quyết đấu
tranh, sau Hội nghị trù bị tại Đà Lạt (4/5/1956), Pháp buộc phải ngồi
vào đàm phán chính thức với ta từ ngày 6/7/1946 tại Fontainebleau
(Pháp). Cuộc đàm phán thất bại vì phía Pháp cố chấp khơng chịu cơng
nhận nền độc lập và thống nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa.
Trong khi đó, tại Việt Nam, qn Pháp tiến hành nhiều hoạt động quân
sự khiêu khích, khiến cho quan hệ Việt – Pháp ngày càng căng thẳng,
có nguy cơ nổ ra chiến tranh. Trước tình hình này, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đang trong thời gian viếng thăm Pháp, đã ký với Marius Moutet
– đại diện Chính phủ Pháp, bản Tạm ước ngày 14/9/1946, tiếp tục
nhân nhượng cho Pháp một số quyền lợi về kinh tế – văn hóa ở Việt
Nam. Bản Tạm ước 14/9 đã tạo điều kiện cho Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hịa kéo dài thêm thời gian hịa hỗn để xây dựng, củng
cố lực lượng, chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc chống
Pháp khơng tránh khỏi.
Thực hiện chủ trương “Hịa để tiến”, Chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hịa đã tiến hành nhiều cuộc đấu tranh ngoại giao với Pháp.
Việc ký Hiệp định sơ bộ (ngày 6/3/1946), ký Tạm ước (ngày
14/9/1946) nhằm tranh thủ thêm thời gian và lực lượng chuẩn bị cho
cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp mà Người tiên đoán
nhất định sẽ xảy ra. Hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong giai đoạn này vô

cùng phong phú và sôi động, đã trở thành mẫu mực trong đấu tranh
ngoại giao là cùng lúc đấu tranh với nhiều lực lượng đối địch, lợi dụng
mâu thuẫn trong hàng ngũ địch, có sách lược thích hợp và hịa hỗn có
ngun tắc, đồng thời ra sức tranh thủ mọi lực lượng có thể tranh thủ
được, đưa cách mạng Việt Nam từng bước tiến lên một cách vững
chắc. Do thực dân Pháp bội ước, ngày 19/12/1946, nhân dân Việt Nam
đã bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp xâm lược với
một niềm tin chiến thắng.
231


1.2. Thời kỳ 1947 – 1953
Vào những năm đầu thập niên 50 (thế kỷ XX), trên thế giới xuất
hiện một số nhân tố mới, tác động sâu sắc đến cục chiến tranh ở Đông
Dương. Hệ thống xã hội chủ nghĩa được mở rộng, nối liền từ tây sang
đông. Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời (1/10/1949) đã làm
thay đổi cơ bản tương quan lực lượng tồn cầu có lợi cho xu thế cách
mạng xã hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc trên tồn thế
giới. Thời kỳ này, Liên Xô đã đạt được những thành tựu quan trọng
trên lĩnh vực kinh tế, quân sự, qua đó cải thiện vị trí cường quốc của
mình trong quan hệ quốc tế, đứng đầu hệ thống xã hội chủ nghĩa và
cùng với các nước này trở thành chỗ dựa vững chắc của phong trào
cách mạng đang đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ trên thế giới. Lúc này, Liên Xô và cộng đồng xã hội chủ nghĩa
đã trở thành đối trọng hàng đầu của Mỹ và các nước đế quốc khác ở
phương Tây trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Ở Việt Nam, những thắng
lợi của ta trên chiến trường cả nước đã đưa đến sự thay đổi cục diện
của cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Ta đã giành lại thế chủ động chiến
trường, nhất là chiến trường chính ở phía Bắc. Với những thất bại liên
tiếp, thực dân Pháp bị đẩy vào thế bị động đối phó. Đứng trước khả

năng Pháp có thể thất bại, đồng thời lúc đó cộng sản đã thắng lợi ở
Trung Quốc, nên vào đầu năm 1950 Mỹ quyết định hỗ trợ cho Pháp ở
Đông Dương, bước đầu trực tiếp dính líu vào Việt Nam1. Quyết định
can thiệp vào cuộc chiến tranh Đơng Dương là một tính tốn trong
chiến lược toàn cầu của Mỹ, nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô
và Trung Quốc đang lan rộng ở vùng Viễn Đông cũng như lo ngại ảnh
hưởng của Việt Nam sẽ lôi kéo các nước Đông Nam Á vào trào lưu
cách mạng, tuyến phòng thủ từ xa của Mỹ nối từ Nhật Bản đến
Australia sẽ bị suy yếu.
Trước tình hình trên, từ Hội nghị cán bộ Trung ương tháng
1/1949 đến Đại hội Đảng lần thứ II (2/1951), Đảng và Nhà nước ta đã
đề ra đường lối đối ngoại và sách lược ngoại giao trong giai đoạn mới.
Qua đó, hoạt động đối ngoại trong giai đoạn này là phục vụ cho mục
tiêu lớn nhất của công cuộc kháng chiến: “Tiêu diệt thực dân Pháp và
1. George C. Hering, Cuộc chiến tranh dài ngày nhất của nước Mỹ, NXB Chính trị
Quốc gia, 1998, tr. 18.

232


đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành thống nhất độc lập hồn tồn, bảo vệ
hịa bình thế giới”1. Qua đó, đường lối đối ngoại của ta là đoàn kết chặt
chẽ và giúp đỡ hai nước Campuchia và Lào kháng chiến giành độc lập,
cùng Việt Nam giải phóng hồn tồn Đơng Dương; tích cực ủng hộ
phong trào giải phóng của các dân tộc bị áp bức; đoàn kết chặt chẽ với
Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác; góp phần
vào cơng cuộc chống đế quốc, gìn giữ hịa bình và dân chủ thế giới.
Tất cả các hoạt động này phải dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập
dân tộc, chủ quyền lãnh thổ, bình đẳng về quyền lợi, bảo vệ hịa bình
dân chủ thế giới. Trên cơ sở đó, ngày 14/1/1950, Chủ tịch Hồ Chí

Minh tun bố trước thế giới: “Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hịa là Chính phủ hợp pháp duy nhất của tồn thế nhân dân Việt
Nam… Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa sẵn sàng đặt quan hệ
ngoại giao với chính phủ nước nào tơn trọng quyền bình đẳng, chủ
quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng
nhau bảo vệ hịa bình và xây đắp dân chủ thế giới”2.
Ngày 2/1/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Trung Quốc, hội
đàm với lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc. Hai bên đi đến thỏa
thuận công nhận lẫn nhau. Ngày 15/1/1950, Việt Nam tun bố cơng
nhận Cộng hịa Nhân dân Trung Hoa. Ngày 18/1/1950, Cộng hịa nhân
dân Trung Hoa cơng bố cơng nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Ngày
30/1/1950, Liên Xô cũng tuyên bố công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa về mặt ngoại giao. Ngày 3/2/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm
Liên Xơ, hội đàm với Stalin và ban lãnh đạo Liên Xơ về tình hình Việt
Nam và Đông Dương. Sau khi Trung Quốc và Liên Xô công nhận Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, các nước dân chủ nhân dân Đông Âu, Triều
Tiên cũng lần lượt tuyên bố công nhận Việt Nam về mặt ngoại giao.
Đánh giá ý nghĩa to lớn của thắng lợi này, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng, đây là “thắng lợi to lớn nhất trong lịch sử Việt Nam… Chắc rằng
cuộc thắng lợi chính trị ấy sẽ là cái đà cho những thắng lợi quân sự”3.
Có thể nói, trong bối cảnh quốc tế thuận lợi, việc thiết lập quan
hệ ngoại giao với Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa
1. Nguyễn Phúc Luân (chủ biên), Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp giành
độc lập, tự do (1945 – 1975), NXB Chính trị Quốc gia, 2001, tr. 114.
2. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 6, NXB Chính trị Quốc gia, 2000, tr. 7 – 8.
3. Hồ Chí Minh, sđd, tập 6, tr. 81 – 82.

233



khác đã làm cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của ta gắn liền
với hậu phương lớn xã hội chủ nghĩa. Thông qua thắng lợi về ngoại
giao này, ta có điều kiện để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các
nước xã hội chủ nghĩa và sự chi viện về vật chất, khí tài rất lớn từ bên
ngồi, đặc biệt là từ Trung Quốc và Liên Xô. Với Trung Quốc, sau khi
thiết lập cơ quan sứ quán giữa hai nước, hai bên đã cử các đoàn đàm
phán về việc Trung Quốc giúp ta vật tư, khí tài và ký Hiệp định Mậu
dịch giữa hai bên. Trung Quốc còn cử chuyên gia, cố vấn quân sự,
chính trị sang giúp ta, quan hệ hữu nghị và tin cậy lẫn nhau có bước
phát triển tốt đẹp. Quan điểm của Trung Quốc là ủng hộ cuộc kháng
chiến của nhân dân Việt Nam. Điều này đã được Chủ tịch Trung Quốc
Lưu Thiếu Kỳ khẳng định: “Cuộc kháng chiến ở Việt Nam do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo rất đúng và rất hay. Đảng Cộng sản
Trung Quốc hết sức giúp đỡ Đảng Cộng sản Việt Nam hồn thành
nhiệm vụ đó”1. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Trung Quốc đã viện
trợ cho Việt Nam 1. 700 tấn gạo; 3. 600 viên đạn 105mm cùng 24 khẩu
pháo; 1 tiểu đoàn DKZ 75mm, 1 tiểu đoàn Kachiusa cùng 1.136 viên
đạn2. Về phía Liên Xơ, nước bạn đã chủ động trong tuyền truyền, vận
động quốc tế đề cao cuộc kháng chiến của ta, qua đó tác động rất lớn
đến các nước xã hội chủ nghĩa khác trong việc giúp đỡ, ủng hộ cuộc
kháng chiến của nhân dân ta. Tháng 10/1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đến Mátxcơva để tham dự Đại hội lần thứ XIX Đảng Cộng sản Liên
Xơ. Tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bày tỏ tình đồn kết keo sơn với
nhân dân Liên Xô và Đảng Cộng sản Liên Xô. Đồng thời, Người cũng
nói lên tình cảm sâu đậm của nhân dân ta đối với cuộc đấu tranh giành
độc lập tự do, hòa bình và chủ nghĩa xã hội của nhân dân các nước trên
thế giới. Từ đây, quan hệ hợp tác, ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau giữa
Việt Nam và các nước trong phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế, phong trào đấu tranh cho hịa bình dân chủ thế giới do những người
cộng sản lãnh đạo ở khắp các châu lục đã có bước phát triển mới.

1. Tư liệu nghiên cứu về quan hệ của Trung Quốc với Việt Nam, tập 1. Dẫn theo
Phạm Mai Hùng, Sự giúp đỡ quốc tế đối với cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp của nhân dân Việt Nam (1945 – 1954), Kỷ yếu Hội thảo quốc gia “Kỷ niệm
50 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và công cuộc đổi mới, phát triển đất
nước (1954 – 2004)”, NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2004.
2. Hồ sơ viện trợ quốc tế của Tổng cục Hậu cần, cấp số 20, 21. Dẫn theo Phạm Mai
Hùng, tlđd.

234


Bên cạnh đó, Việt Nam cũng tham gia nhiều hoạt động quốc tế
bảo vệ hịa bình như Đại hội Hịa bình thế giới ở Vácsava (Ba Lan,
11/1950), Đại hội Hịa bình thế giới ở Viên (Áo, 11/1951), Hội nghị
châu Á – Thái Bình Dương vì hịa bình ở Bắc Kinh (Trung Quốc,
10/1952). Đồng thời ta cũng tích cực phối hợp với các hoạt động của
các tổ chức dân chủ thế giới, nhất là trong phong trào thanh niên, phụ
nữ dân chủ và tổ chức liên hiệp cơng đồn thế giới. Việc đoàn kết với
cuộc đấu tranh của nhân dân Triều Tiên chống đế quốc Mỹ xâm lược
là biểu hiện của chính sách đồn kết quốc tế của Đảng và Nhà nước ta.
Trong thời kỳ này, việc đoàn kết với phong trào nhân dân Pháp đấu
tranh cho hịa bình và chống chiến tranh Đông Dương là một trong
những định hướng quan trọng trong công tác đối ngoại và vận động
quốc tế của ta. Tháng 7/1950, Léo Figuères, Ủy viên Trung ương Đảng
Cộng sản Pháp đã sang thăm Việt Nam và bày tỏ tình đồn kết với
cuộc chiến đấu của nhân dân ta. Tại Việt Nam, L. Figuères đã đến
thăm các đơn vị chiến đấu, đến tận nơi quan sát những trận càn quét,
ném bom của quân đội Pháp, gặp gỡ trò chuyện với nhân dân… Trở về
Pháp, L. Figuères đã viết một cuốn sách về Việt Nam, qua đó đánh
thức được sự hiểu biết cũng như lương tâm của công chúng Pháp.

Phong trào phản chiến ở Pháp bắt đầu phát triển mạnh. Khẩu hiệu đòi
chấm dứt chiến tranh, rút quân Pháp về nước trở thành một trong
những mục tiêu đấu tranh của các tầng lớp nhân dân Pháp, thể hiện
tinh thần đoàn kết, ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam.
Cùng với việc tăng cường quan hệ với Liên Xô, Trung Quốc và
các nước xã hội chủ nghĩa khác, Đảng và Nhà nước Việt Nam chú
trọng thúc đẩy quan hệ đồn kết giữa ba nước Đơng Dương. Trong
kháng chiến chống thực dân Pháp lần này, Đông Dương là một chiến
trường. Nhân dân và quân đội cách mạng cả ba nước Việt Nam, Lào,
Campuchia cùng phối hợp và liên minh chống kẻ thù chung là thực
dân xâm lược Pháp. Ngày 11/3/1951, Hội nghị nhân dân ba nước Đông
Dương họp ở Việt Bắc, tuyên bố thành lập khối liên minh chiến đấu
Việt Nam – Campuchia – Lào dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình
đẳng, tương trợ và tơn trọng chủ quyền của nhau… Liên minh khẳng
định mục tiêu của mình là “đánh đuổi bọn xâm lược Pháp và can thiệp
Mỹ… làm cho Việt Nam, Lào, Campuchia hồn tồn độc lập…”.
Có thể nói, q trình tiến triển của cuộc kháng chiến là quá trình
235


phối hợp liên minh chiến đấu của quân, dân ba nước và sự giúp đỡ to
lớn của Việt Nam đối hai nước bạn Lào, Campuchia. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói: “Việt Nam – Lào – Campuchia như anh em một nhà. Cả
ba dân tộc đồn kết chặt chẽ thì nhất định sẽ đánh bại thực dân Pháp.
Nhân dân Việt Nam hết lòng thành thật giúp đỡ nhân dân Lào, nhân
dân Campuchia một cách vô điều kiện…”1. Người cũng nhấn mạnh:
“Giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”2. Theo tinh thần
đó, nhiều đơn vị bộ đội Việt Nam được cử sang giúp đỡ nhân dân Lào
và Campuchia tổ chức kháng chiến. Vốn sẵn tinh thần yêu nước nồng
nàn, chẳng bao lâu sau, cùng với Việt Nam, nhân dân Lào và

Campuchia đã giành được những thắng lợi hết sức quan trọng, góp
phần đánh bại âm mưu chia rẽ của thực dân Pháp đối với ba nước
Đông Dương.
Cùng với những chuyển biến mạnh mẽ của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp, Việt Nam đã chủ động phá thế bảo vây của các
thế lực đế quốc, gắn cuộc kháng chiến của nhân dân ta với hậu phương
xã hội chủ nghĩa. Quan hệ ngoại giao của Việt Nam cũng được mở
rộng hơn trước, với nhiều lực lượng khác nhau bên ngoài, nhất là kết
hợp với phong trào phản chiến của nhân dân Pháp. Có thể nói, những
thắng lợi về ngoại giao của Việt nam đã góp phần thay đổi cục diện
quốc tế của cuộc chiến tranh và thúc đẩy chiều hướng phát triển bất lợi
cho thực dân Pháp trên chiến trường và trên bàn đàm phán sau này.
1.3. Ngoại giao Việt Nam ở Hội nghị Giơnevơ 1954
Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 – 1954 mà đỉnh cao
là chiến dịch Điện Biên Phủ đã đập tan những cố gắng chiến tranh cao
nhất và cũng là nỗ lực cuối cùng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.
Chiến thắng Điện Biên Phủ 7/5/1954 “đi vào lịch sử thế giới như một
chiến cơng chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nơ dịch thuộc địa
của chủ nghĩa đế quốc”3. Và chính chiến thắng Điện Biên Phủ là nhân
tố trực tiếp thúc đẩy việc ký kết Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương.
Hội nghị Giơnevơ khai mạc ngày 26/4/1954. Ngày 8/5/1954, vấn đề
Đông Dương được đưa lên bàn nghị sự. Trải qua tám phiên họp toàn
1. Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, NXB Chính trị Quốc gia, 1996,
tr. 371.
2. Lê Mậu Hãn (chủ biên), sđd, tr. 111.
3. Dẫn theo Nguyễn Phúc Luân (chủ biên), sđd, tr. 134.

236



thể và 23 phiên họp hẹp rất căng thẳng và phức tạp, nhưng với thiện
chí và cố gắng của phái đồn ta, ngày 20/7/1954, Hiệp định Giơnevơ
về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam được ký kết. Các nước tham gia Hội
nghị tuyên bố tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của Việt Nam, Lào, Campuchia. Như vậy, “tiếp theo chiến
thắng oanh liệt Điện Biên Phủ, chúng ta đã giành được thắng lợi trong
việc ký kết Hiệp định Giơnevơ, lập lại hịa bình ở Việt Nam và Đông
Dương, phá tan âm mưu của đế quốc Mỹ kéo dài và mở rộng chiến
tranh Đông Dương”1.
Với việc ký kết Hiệp định Giơnevơ (1954), Việt Nam được quốc
tế cơng nhận là một nước độc lập, thống nhất, có chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ. Như vậy, so với Hiệp định sơ bộ (6/3/1946), Hiệp định
Giơnevơ đã tiến một bước dài trong việc công nhận về pháp lý: nước ta
là một quốc gia hồn tồn bình đẳng trong quan hệ quốc tế. Sau khi
Hiệp định được ký kết, một nửa nước đã được giải phóng, nối liền với
các nước xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện cho ta bắt đầu thực hiện đồng
thời hai nhiệm vụ chiến lược liên quan mật thiết với nhau là tiến hành
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ
ở miền Nam, tiến tới thống nhất nước nhà. Việc quân Pháp phải rút về
nước sẽ làm cho lực lượng ngụy quân, ngụy quyền thân Pháp rất hoang
mang và mâu thuẫn sâu sắc với lực lượng tay sai thân Mỹ. Ta đã triệt
để lợi dụng mâu thuẫn nội bộ địch để tập hợp lực lượng cho cách mạng
miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Xét về tầm
vóc, Hội nghị Giơnevơ 1954 là lần đầu tiên, phái đồn của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hịa đã bước vào Hội nghị Giơnevơ với tư thế
chững chạc, đàng hồng, khơng những trực tiếp đàm phán với phái
đồn Pháp mà cịn với nhiều phái đồn các nước lớn. Trong lịch sử
ngoại giao hiện đại, chưa có một phái đồn của nước “nhược tiểu” nào
lại giành được vị trí quốc tế long trọng đó.
Có thể nói, chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954) và Hiệp định

Giơnevơ được ký kết (20/7/1954) là một thắng lợi to lớn của nhân dân
Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp và can thiệp
Mỹ, qua đó giải phóng hồn miền Bắc, đưa cách mạng Việt Nam
1. Đảng Lao động Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam xuất bản, Hà Nội, 1960, tr. 23 –
24.

237


chuyển qua một giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng miền Bắc theo con
đường xã hội chủ nghĩa và tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở
miền Nam, hồn thành độc lập dân tộc, dân chủ và thống nhất đất
nước. Đây là “lần đầu tiên trong một xứ thuộc địa nhỏ yếu đã đánh
thắng một nước hùng mạnh. Đó là thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt
Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của lực lượng hòa bình, dân chủ
và chủ nghĩa xã hội trên thế giới”1. Thắng lợi này có ý nghĩa rộng lớn
hơn nhiều khi nhân dân các thuộc địa lấy đó làm tấm gương để vùng
lên đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân giành độc lập dân tộc. Thắng
lợi này cũng chứng tỏ sự đoàn kết và sức mạnh của chủ nghĩa xã hội
đang trở thành nhân tố có ảnh hưởng to lớn đến chiều hướng phát triển
của quan hệ quốc tế2. Đối với Việt Nam, chiến thắng Điện Biên Phủ đi
đôi với Hiệp định Giơnevơ, đã nêu cao vai trò của Việt Nam trên
trường quốc tế. Nước Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám – 1945, qua
8 năm kháng chiến đã được thế giới chú ý. Nhưng từ trận Điện Biên
Phủ và thắng lợi Giơnevơ thì địa vị Việt Nam lại càng nổi bật lên. Vị
thế và uy tín của Việt Nam trở thành một nhân tố quan trọng tác động
đến việc hình thành xu thế phát triển quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam
với các nước. Xu thế ủng hộ Việt Nam ở trên thế giới cũng có những
bước chuyển mới.

2. NGOẠI GIAO VIỆT NAM TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG
MỸ, CỨU NƯỚC (1954 – 1975)
2.1. Thời kỳ 1954 – 1965
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954), Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa trở thành một thành viên của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế
giới. Trong kháng chiến chống Pháp, các nước xã hội chủ nghĩa, nhất
là Trung Quốc và Liên Xơ, đã có sự ủng hộ, chi viện to lớn đối với
công cuộc đấu tranh, giải phóng của ta. Nhằm tiếp tục phát huy mối
quan hệ với đồng minh chiến lược trong thời kỳ đầu của cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các nước
anh em. Năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh lần đầu tiên thăm chính
1. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 10, NXB Chính trị Quốc gia, 1996, tr. 12.
2. Trần Văn Đào – Phan Dỗn Nam, Giáo trình Lịch sử quan hệ quốc tế 1945 –
1990, Học viện Quan hệ Quốc tế, 2001, tr. 74.

238


thức Liên Xô, Trung Quốc và Mông Cổ. Năm 1957, Chủ tịch Hồ Chí
Minh dẫn đầu một phái đồn đại biểu Việt Nam đã sang thăm Liên Xô,
Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa, dân tộc chủ nghĩa ở Đông
Âu, Bắc Á… Qua các chuyến thăm này, ta đã trao đổi về tình hình Việt
Nam, Đơng Dương và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đường
lối cách mạng nước ta trong giai đoạn mới, tranh thủ sự đồng tình, ủng
hộ, giúp đỡ thiết thực của các nước này với sự nghiệp cách mạng nước
ta trong thời kỳ thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược. Điều này được
Đảng ta xác định rõ: “…tăng cường đoàn kết với các nước xã hội chủ
nghĩa anh em do Liên Xô đứng đầu, để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến
mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no
hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh

cho cuộc đấu tranh thực hiện hịa bình thống nhất nước nhà, góp phần
tăng cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hịa bình ở Đông – Nam Á và
thế giới”1.
Đi đôi với việc trao đổi các đoàn cao cấp với các nước xã hội chủ
nghĩa trong thời kỳ này, ta đã chủ động mời thêm các cơ quan đại diện
ngoại giao cấp đại sứ ở các nước Đông Âu, Bắc Á và thúc đẩy việc lập
sứ quán của các nước này tại Hà Nội. Ta cũng phối hợp tốt với phái
đoàn Ba Lan trong Ủy ban quốc tế giám sát việc thi hành Hiệp định
Giơnevơ. Tranh thủ được sự giúp đỡ về nhiều mặt của cộng đồng quốc
tế, đặc biệt là những khoản viện trợ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa
đã góp phần quan trọng vào việc hồn thành Kế hoạch 3 năm khôi phục
kinh tế (1955 – 1957) và Kế hoạch ngắn hạn 3 năm phát triển kinh tế,
văn hóa (1958 – 1960). Có thể nói, trong giai đoạn này, Việt Nam đã
nhận được sự giúp đỡ rất lớn và hiệu quả về nhiều mặt, đặc biệt là sự
giúp đỡ về vật chất, trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, vũ khí… từ các nước
xã hội chủ nghĩa, trong đó quan trọng nhất là Liên Xơ và Trung Quốc.
Có thể nói, Liên Xơ và Trung Quốc giúp Việt Nam xuất phát từ lập
trường của chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, vì lợi ích của phe xã hội
chủ nghĩa, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, và đương
nhiên cũng xuất phát từ lợi ích dân tộc của từng nước.
Sau Hiệp định Giơnevơ (7/1954), quan hệ giữa Việt Nam và hai
nước láng giềng trên bán đảo Đơng Dương có những thay đổi phù hợp
1. Đảng Lao động Việt Nam, sđd, tr. 78.

239


với tình hình Mỹ thực hiện mưu đồ can thiệp vào Đông Dương. Việt
Nam cần tăng cường phát triển hơn mối quan hệ giữa Việt Nam với
Lào và Campuchia trên cơ sở thi hành Hiệp định Giơnevơ ngăn chặn

sự gia nhập “Khối phịng thủ Đơng Nam Á”, “Khối phịng ngự sông
Cửu Long của đế quốc Mỹ”1. Với chủ trương trên, ngày 1/1/1955, Chủ
tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng lập
quan hệ hữu hảo với Lào và Campuchia, quan hệ giữa ba nước Đông
Dương chuyển sang thời kỳ mới: chống sự can thiệp, thống trị bên
ngồi vì độc lập tự do của nhân dân mỗi nước.
Với Lào, Việt Nam kiên trì ủng hộ chính sách hịa bình trung lập,
hịa hợp dân tộc của Chính phủ Lào do Thủ tướng Phuma đứng đầu,
giúp các lực lượng yêu nước Pathét Lào xây dựng lực lượng để đối
trọng với thế lực phái hữu ở Lào, tạo cơ sở để chống lại sự can thiệp
ngày càng sâu của Mỹ vào Lào. Với Campuchia, Việt Nam thể hiện sự
nhất qn ủng hộ chính sách hịa bình trung lập và nền độc lập của
Campuchia trên cơ sở của Hiệp định Giơnevơ và 10 nguyên tắc Băng
Đung về cùng tồn tại hịa bình và láng giềng thân thiện, khơng tán
thành việc đàn áp những người kháng chiến cũ, nhưng hoan nghênh
việc Campuchia thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô, Trung Quốc,
tạo sự cân bằng trong quan hệ với các nước lớn, duy trì được chính
sách hịa bình trung lập của Campuchia, hướng Campuchia vào hành
động chung, chống đế quốc Mỹ, can thiệp vào Đơng Dương, vì lợi ích
tồn cục, hịa bình, độc lập, thơng nhất cho các nước Đơng Dương.
Sau năm 1954, Việt Nam đã tính cực, chủ động mở rộng quan hệ
với các nước độc lập dân tộc và ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc
ở Á, Phi, Mỹ La tinh. Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954) và Hiệp
định Giơnevơ (20/7/1954) đã ghi nhận sự thất bại hoàn toàn của cuộc
chiến tranh xâm lược tái chiếm thuộc địa của chủ nghĩa thực dân Pháp
ở Việt Nam, đã góp phần to lớn thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc
ở các nước thuộc địa, bán thuộc địa phát triển. Từ năm 1950 đến năm
1961, hơn 30 nước ở châu Á và châu Phi giành lại được độc lập từ các
nước thực dân, đế quốc phương Tây. Sau Hội nghị Giơnevơ (7/1954),
vai trò của Việt Nam Dân chủ Cộng hịa được củng cố trong quan hệ

1. Nguyễn Đình Bin (chủ biên), Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000, NXB Chính trị
Quốc gia, 2002, tr. 176.

240


quốc tế. Ta có điều kiện để thực hiện việc mở rộng quan hệ hữu nghị,
hợp tác, ủng hộ lẫn nhau giữa cuộc đấu tranh của nhân dân ta với các
quốc gia và phong trào đấu tranh cho độc lập dân tộc.
Tháng 4/1955, Đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hịa do
Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Văn Đồng dẫn đầu
đã tham gia Hội nghị cấp cao Á – Phi tổ chức tại Bandung (Indonesia).
Tham gia Hội nghị Bandung có 23 nước châu Á (Afghanistan, Miến
Điện, Ấn Độ, Indonesia, Jordan, Iran, Irắc, Yemen, Trung Quốc,
Campuchia, Lào, Syria, Libăng, Nêpan, Pakistan, Arập Xêút, Thổ Nhĩ
Kỳ, Sri Lanka, Philippines, Thái Lan, Nhật Bản, Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, Việt Nam Cộng hòa) và 6 nước châu Phi (Ai Cập, Ghana,
Ethiopia, Liberia, Libi và Suđăng). Síp và Palestin tham dự với tư cách
là quan sát viên. Lần đầu tiên Việt Nam có điều kiện tiếp cận với đơng
đảo các nước Á – Phi, bày tỏ sự đoàn kết châu Á, châu Phi. Việt Nam
tuyên bố tán thành 10 nguyên tắc Bandung, cùng đoàn kết hướng đến
mục tiêu chung, chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc, phấn
đấu vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Trong diễn văn đọc trước toàn thể hội nghị, Phó Thủ tướng Phạm
Văn Đồng tuyên bố: “Nhiệm vụ chủ yếu của chúng ta trong hội nghị
này là biểu thị rõ rệt và mạnh mẽ ý chí của nhân dân Á – Phi muốn
chung sống hịa bình với nhau và tồn thế giới, kiên quyết giữ gìn và
củng cố hịa bình, kiên quyết chống lại mọi âm mưu chiến tranh…
Cùng với nhân dân Á – Phi, nhân dân Việt Nam kịch liệt chống lại mọi
âm mưu gây chiến, chống lại mọi khối quân sự xâm lược, chống lại

chiến tranh nguyên tử… Nhân dân Á – Phi đòi hỏi một nền hịa bình
lâu dài, vững chắc, địi hỏi quyền độc lập và bình đẳng dân tộc là để có
thể gây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc. Tình hữu nghị, đoàn kết và
quan hệ mật thiết về mọi mặt giữa các nước Á – Phi chính là một điều
kiện cần thiết để đạt được mục đích ấy”1. Thành cơng của Hội nghị
Bandung 1955 chứng tỏ rằng các nước có chế độ xã hội và khuynh
hướng chính trị khác nhau có thể vượt qua tất cả các bất đồng nếu họ
có chung nguyện vọng bảo vệ hịa bình thế giới, độc lập tự do của các
dân tộc, bình đẳng và hợp tác cùng có lợi giữa các quốc gia. Đó là tinh
1. Báo Nhân dân, ngày 23/4/1955. Dẫn theo Võ Anh Tuấn, Phong trào Khơng liên
kết, NXB Chính trị Quốc gia, 1999, tr. 31.

241


thần Bandung thường được nhắc tới trong quan hệ quốc tế. Đoàn đại
biểu Việt Nam chào mừng hội nghị lịch sử này và cũng chính là chào
mừng sự thức tỉnh, chào mừng vai trò to lớn của nhân dân Á – Phi trên
cục diện thế giới lúc bấy giờ.
Từ năm 1955 đến năm 1960, ta đã đón tiếp hơn 10 đoàn cấp cao
của các nước độc lập dân tộc và Nam Á, Đông Nam Á, châu Phi đến
thăm nước ta. Đồng thời, ta đã cử các đoàn cấp cao đi thăm gần 20
nước ở châu Âu và các nước khu vực nói trên. Việt Nam đã thiết lập
quan hệ tổng lãnh sự với Ấn Độ, Miến Điện và Indonesia, lập quan hệ
ngoại giao với Cuba và một số nước châu Phi mới giành được độc lập.
Để thể hiện thiện chí của mình, năm 1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi
thăm Ấn Độ, Miến Điện, Indonesia, đồng thời cũng tiếp đón trọng thị
các nguyên thủ quốc gia này sang thăm Việt Nam. Các cuộc viếng
thăm này đã góp phần rất lớn tăng cường mối quan hệ hữu nghị giữa
Việt Nam với các nước này.

Sau Cao trào Đồng khởi ở miền Nam, ngày 20/12/1960, Mặt trận
Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập, trở thành tổ
chức chính trị lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam.
Từ khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được thành lập (từ
ngày 6/6/1969 là Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam), hoạt động ngoại giao Việt Nam trở nên rất phong phú, đa
dạng và có đặc thù riêng, dưới hình thức “tuy một mà hai và tuy hai mà
một”. Cùng với Bộ Ngoại giao của Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, từ
nay cịn có Bộ Ngoại giao của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng
hòa miền Nam Việt Nam. Cả hai đều dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao
động Việt Nam, có một mục tiêu chiến lược chung nhưng hoạt động
dưới hai phương thức khác nhau.
Có thể nói, giai đoạn 1954 – 1965 là thời kỳ hoạt động ngoại
giao Việt Nam thu hút sự chú ý của toàn thế giới. Cùng với những diễn
biến ở chiến trường, hoạt động ngoại giao của ta trong thời kỳ này trở
thành trung tâm của sinh hoạt chính trị thế giới, nhất là từ năm 1960
trở đi. Nhiệm vụ của ngoại giao thời kỳ này cũng rất nặng nề và phức
tạp. Để phục vụ nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc, chúng ta đã triển khai nhiều hướng hoạt động, phát triển
quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, tăng cường đồn kết với các
phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế và các lực lượng tiến bộ,
242


đấu tranh vì hịa bình, dân chủ trên thế giới; đồng thời tranh thủ cảm
tình của nhân dân và chính giới một số nước phương Tây. Nhiệm vụ
thứ hai của ngoại giao liên quan mật thiết đến nhiệm vụ thứ nhất là
phục vụ cuộc đấu tranh chống Mỹ – ngụy phá hoại Hiệp định Giơnevơ,
và sau đó từ năm 1965 là chống cuộc chiến tranh trực tiếp của Mỹ ở
miền Nam Việt Nam và chiến tranh phá hoại ở miền Bắc. Qua đó, hoạt

động ngoại giao làm cho nhân dân thế giới thấy rõ mong muốn của
nhân dân Việt Nam là hịa bình và thống nhất đất nước, thấy rõ tính phi
nghĩa của cuộc chiến tranh xâm lược do Mỹ tiến hành, từ đó ủng hộ
cuộc đấu tranh chính nghĩa của chúng ta.
2.2. Giai đoạn 1965 – 1973
Kể từ khi Mỹ can thiệp trực tiếp vào miền Nam Việt Nam, ngoại
giao và quân sự được xem là hai mặt trận gắn liền hữu cơ và hỗ trợ lẫn
nhau. Trên bàn đàm phán khơng thể giành được những gì mà trên
chiến trường khơng giành được. Mặt khác, những gì giành được trên
chiến trường sẽ khơng được khẳng định nếu khơng có nghệ thuật giành
thắng lợi trên bàn đàm phán. Hơn thế nữa, thắng lợi trên bàn đàm phán
tạo thêm điều kiện thuận lợi để giành thắng lợi lớn hơn trên chiến
trường. Ngay từ cuối năm 1965, lãnh đạo ta đã tính đến việc nói
chuyện với Mỹ. Nhưng chỉ sau Hội nghị Trung ương 8, Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa mới thực sự triển khai kế hoạch này. Ngày 28/1/1967,
trả lời phỏng vấn nhà báo Burchet, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy
Trinh tuyên bố: Chỉ sau khi Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném
bom và mọi hành động chiến tranh khác chống Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, Việt Nam Dân chủ Cộng hịa có thể nói chuyện với Mỹ.
Cuối tháng 12/1967, Bộ trưởng Nguyễn Duy Trinh lại nêu "sau khi Mỹ
chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh
khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, Việt Nam Dân chủ
Cộng hịa sẽ nói chuyện với Mỹ về những vấn đề liên quan". Như vậy,
đầu năm chúng ta nói "có thể", đến cuối năm chúng ta đã chuyển sang
khẳng định là "sẽ" nói chuyện với Mỹ nếu Mỹ chấp nhận ngừng ném
bom. Việt Nam muốn Mỹ ngừng ném bom trước, còn Mỹ muốn Việt
Nam cam kết sẽ thảo luận với Mỹ trước. Chính vì thế, hai bên vẫn
chưa tiến hành gặp gỡ. Chỉ đến khi chúng ta mở cuộc Tổng tiến công
Tết Mậu Thân, Tổng thống Mỹ mới buộc phải tuyên bố hạn chế ném
bom miền Bắc, chịu nhượng bộ đi bước đầu tiên trên con đường

243


thương lượng. Đây không những là sự thừa nhận đầy đủ nhất về sự phá
sản của chiến lược "Chiến tranh cục bộ", mà cịn là bước đầu tiên cho
q trình xuống thang chiến tranh của Mỹ. Như vậy, thắng lợi quân sự
đã mở cánh cửa cho đàm phán ngoại giao.
Ngày 31/10/1968, Tổng thống L. B. Giônxơn ra lệnh cho không
quân và hải quân Mỹ chấm dứt mọi cuộc đánh phá chống Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa và mở ra hội nghị gồm bốn bên. Cùng ngày,
Trưởng Đoàn tiền trạm của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam
cũng đến Paris. Ngày 8/12/1968, Tổng thống Việt Nam cộng hòa
Nguyễn Văn Thiệu cử một phái đoàn đi Paris. Ngày 10 tháng 12, Mặt
trận cử đồn đại biểu chính thức do đồng chí Trần Bửu Kiếm, Ủy viên
Đoàn Chủ tịch Mặt trận làm Trưởng đồn. Về phía Việt Nam Dân chủ
Cộng hịa, Bộ trưởng Xuân Thủy, người dẫn đầu Phái đoàn Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa trong cuộc đàm phán hai bên từ tháng 5/1968, tiếp
tục làm Trưởng Đoàn trong đàm phán bốn bên. Ngày 25/1/1969, Hội
nghị bốn bên chính thức khai mạc. Đây là một thắng lợi lớn, bởi từ chỗ
không chấp nhận, nay Mỹ phải ngồi vào đàm phán bốn bên, có Mặt
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tham dự với tư cách một
bên độc lập, bình đẳng.
Hiệp định Paris có ba giai đoạn chính và gắn chặt với ba bước
ngoặt trên chiến trường Việt Nam. Giai đoạn I là từ khi bắt đầu đàm
phán cho đến khi Mỹ hoàn toàn chấm dứt ném bom miền Bắc, bốn bên
ngồi vào đàm phán chính thức. Giai đoạn này gắn với thắng lợi Tết
Mậu Thân năm 1968. Giai đoạn II kéo dài từ lúc bốn bên ngồi vào
đàm phán cho đến giữa năm 1972. Lúc này, trên chiến trường ta chưa
giành được thắng lợi quyết định, thậm chí trong một thời gian đầu,
chúng ta cịn rơi vào tình thế khó khăn. Chính vì thế, đàm phán giẫm

chân tại chỗ, các bên chủ yếu là thăm dò lẫn nhau. Chỉ sau thắng lợi
của các cuộc tiến công chiến lược Xuân – Hè 1972, ta giành lại được
thế chủ động trên chiến trường, đàm phán mới đi vào thực chất (giai
đoạn III) và đi đến ký kết Hiệp định vào tháng Giêng năm 1973.
Cuộc tấn công Tết Mậu Thân cùng với những đợt tấn cơng qn
sự trước và sau đó, gây cho Mỹ nhiều tổn thất về người và của, đã tác
động sâu sắc đến nội tình nước Mỹ. Phong trào ủng hộ Việt Nam phát
triển mạnh trên thế giới càng đưa thế chính trị của Việt Nam lên cao,
tiếng nói chính nghĩa của Việt Nam có thêm sức thuyết phục.
244


Trong phiên họp đầu tiên của Hội nghị bốn bên, Trưởng đoàn
của Mặt trận Trần Bửu Kiếm đưa ra lập trường Năm điểm, thực chất là
tuyên bố chính trị, và bốn tháng sau đưa ra giải pháp toàn bộ Mười
điểm về vấn đề miền Nam Việt Nam (3). Đây là giải pháp hoàn chỉnh
đầu tiên được đưa ra tại Hội nghị. Đối phó lại, ngày 14/5/1969, Tổng
thống R. Nixơn đưa ra kế hoạch Tám điểm với nội dung chính là đòi
đánh đổi việc rút quân Mỹ với việc rút quân miền Bắc và giữ chính
quyền Sài Gịn. Với sự ra đời của Liên minh các lực lượng Dân tộc,
Dân chủ và Hịa bình Việt Nam đầu năm 1968, Mặt trận đoàn kết dân
tộc ở miền Nam được mở rộng. Ngày 6/6/1969, Chính phủ cách mạng
lâm thời cộng hịa miền Nam Việt Nam tuyên bố thành lập, làm cho vị
thế của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tại bàn đàm
phán càng vững mạnh. Hai ngày sau, Tổng thống R. Nixơn cơng bố
chính sách "Việt Nam hóa chiến tranh" và việc rút đợt đầu 25.000 quân
Hoa Kỳ ra khỏi miền Nam Việt Nam. Trong giai đoạn II này, trên cơ
sở phát triển giải pháp toàn bộ Mười điểm, thơng qua các Tun bố
của Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam (tám
điểm ngày 14/9/1970, bảy điểm ngày 1/7/1971, và hai điểm nói rõ

thêm trong giải pháp bảy điểm), ta đòi Mỹ phải rút nhanh toàn bộ quân
đội Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam, thành lập ở miền Nam Việt Nam
một chính phủ hịa hợp dân tộc ba thành phần để tổ chức tuyển cử.
Xuân – Hè 1972, đánh địch trên các mặt trận từ Trị – Thiên đến đồng
bằng sông Cửu Long, giải phóng một vùng rộng lớn, làm thay đổi lớn
so sánh lực lượng, tạo ra khả năng kết thúc chiến tranh, tháng 7 năm
1972, Bộ Chính trị đã đưa ra quyết sách: phấn đấu đạt một giải pháp
thương lượng cuối năm 1972 để chuyển sang giai đoạn đấu tranh mới.
Giai đoạn III đàm phán bắt đầu từ đây. Trong ba tháng 7, 8, 9 ở Pari,
Lê Đức Thọ và Kissinger có một loạt cuộc gặp riêng bàn vấn đề một
cách thực chất. Trên cơ sở "Dự thảo Hiệp định về chấm dứt chiến
tranh, lập lại hịa bình ở Việt Nam" do Việt Nam dân chủ cộng hòa đưa
ra trong cuộc gặp riêng ngày 8/10/1972, hai bên bắt đầu mặc cả từng
câu, chữ cho Hiệp định. Ngày 21/10, Tổng thống R. Nixơn gửi thư cho
Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định: "Văn bản của Hiệp định bây
giờ có thể xem như đã hoàn thành".
Quan hệ hỗ trợ nhau giữa quân sự với ngoại giao một lần nữa lại
thể hiện ở chính giai đoạn chót của đàm phán này. Sau khi vượt qua
245


được tuyển cử, Mỹ trở mặt; đàm phán diễn ra căng thẳng trong suốt
tháng 11 và đầu tháng 12. Đến ngày 12/12/1972, hai bên chỉ còn phải
thỏa thuận vấn đề khu phi quân sự và cách ký các văn kiện và đều phải
về nước xin chỉ thị. Nhưng khi đồng chí Lê Đức Thọ vừa đến Hà Nội,
cũng là lúc Mỹ bắt đầu cuộc tập kích chiến lược bằng B. 52 vào Hà
Nội và Hải Phịng. Đúng như dự đốn của Bác Hồ là nhất định Mỹ sẽ
thất bại, nhưng sớm muộn Mỹ cũng sẽ dùng B. 52 đánh phá Hà Nội,
Hải Phòng trước khi chịu thua. Bị tổn thất nặng nề trong trận "Điện
Biên Phủ trên không" và bị dư luận quốc tế lên án, ngày 30/12/1972,

Mỹ buộc phải ngừng ném bom phía Bắc vĩ tuyến 20, phải ký tắt Hiệp
định ngày 23/1/1973 và ký chính thức "Hiệp định về chấm dứt chiến
tranh, lập lại hịa bình ở Việt Nam" ngày 27/1/1973, mà nội dung chủ
yếu vẫn giữ nguyên như văn bản đã thỏa thuận ngày 20/10/1972.
Trải qua 174 phiên họp cơng khai, 24 đợt gặp riêng bí mật ở cấp
cao, ngày 27/1/1973 Hiệp định Paris được ký kết1, Mỹ buộc phải rút
quân chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Từ ngày 27/2 đến
2/3/1973, Hội nghị quốc tế về Việt Nam được triệu tập ở Paris, gồm đại
diện 12 chính phủ là Canada, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Pháp, Hunggari,
Indonesia, Ba Lan, Liên Xô, Anh, Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, Việt
Nam Cộng hịa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc tham dự với tư cách là khách
mời. Hội nghị quốc tế thông qua định ước, trịnh trọng ghi nhận, tuyên
bố tán thành và ủng hộ Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại
hịa bình ở Việt Nam và bốn nghị định thư của hiệp định. Các bên ký
định ước trịnh trọng công nhận về mặt pháp lý quốc tế Hiệp định Paris
về Việt Nam, triệt để tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam
và bảo đảm cho Hiệp định được thi hành nghiêm chỉnh.
Với việc ký kết Hiệp định Paris (27/1/1973), nhiệm chiến lược
“đánh cho Mỹ cút” đã được quân và dân ta hoàn thành và nhiệm vụ
chiến lược “đánh cho ngụy nhào” được tiếp tục triển khai. Hơn nữa,
bản thân việc Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam cũng đã là một đòn
nặng nề đối với ngụy quân ngụy quyền, làm cho chúng trở nên không
nơi nương tựa và trực tiếp đối mặt với sự sụp đổ hoàn toàn trong một
1. Nguyễn Thành Lê, Cuộc đàm phán Paris về Việt Nam (1968 – 1973), NXB Chính
trị Quốc gia, 1998, tr. 208.

246



thời gian ngắn trước khí thế đấu tranh mới do thành công tại Hội nghị
Paris đem lại cho quân và dân Việt Nam. Trên trường quốc tế, uy tín
và ảnh hưởng của Việt Nam ngày càng lớn. Từ góc độ quan hệ đối
ngoại, Việt Nam trở thành một chủ thể quan trọng. Các nước u
chuộng hịa bình coi Việt Nam “có một địa vị độc đáo trong việc làm
dịu tình hình căng thẳng trên thế giới”1. Thắng lợi của Việt Nam ở Hội
nghị Paris đã trở thành niềm vui lớn của nhân dân các nước xã hội chủ
nghĩa và các dân tộc đấu tranh cho hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội trên thế giới. Từ tháng 1/1973 đến tháng 4/1974 có
thêm 27 nước cơng nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về ngoại giao,
trong đó có thêm hai nước Đơng Nam Á, Australia và Nhật Bản2. Vị
thế và uy tín của Việt Nam do Hiệp định Paris mang lại trở thành một
nhân tố quan trọng tác động đến việc hình thành xu thế phát triển quan
hệ hữu nghị giữa Việt Nam với các nước. Xu thế ủng hộ công cuộc
chống Mỹ cứu nước của Việt Nam ở trên thế giới cũng có những bước
chuyển mới. Nhiều nước trên thế giới, nhiều tổ chức quần chúng, phi
chính phủ đã lên tiếng ủng hộ Việt Nam và địi Mỹ và chính quyền Sài
Gịn thực thi nghiêm chỉnh những điều khoản của Hiệp định Paris.
Nhìn lại cuộc đàm phán Paris (1968 – 1973), có thể nêu một số
nhận xét sau: Một là, thực chất của mối liên hệ giữa Hiệp định Paris
với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 giải phóng miền
Nam, thống nhất Tổ quốc là quan hệ giữa đấu tranh quân sự và đấu
tranh ngoại giao. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Thực lực là cái
chng, ngoại giao là tiếng của chng. Chng có to thì tiếng mới
lớn". Q trình đàm phán với Mỹ tại Hội nghị Paris đã chứng minh tư
tưởng đúng đắn đó của Người. Hiệp định Paris cịn phát huy tính năng
động của nó là hỗ trợ cho mặt trận quân sự trong các bước kế tiếp. Với
việc ký kết Hiệp định Pari, ta đã buộc Mỹ chấm dứt vô điều kiện việc
ném bom miền Bắc, tạo cho miền Bắc một thuận lợi to lớn để làm tròn
nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Tương quan lực

lượng mới ở miền Nam sau Hiệp định Paris cho thấy sự sụp đổ hoàn
1. Tài liệu tổng hợp của Vụ châu Á 2 của Bộ Ngoại giao. Dẫn theo Nguyễn Vũ Tùng,
“Hiệp định Paris và quan hệ Việt Nam – ASEAN vào đầu thập kỷ 70”, Tạp chí
Nghiên cứu Quốc tế, số 6 (49) – 2002, tr. 65.
2. Nguyễn Phúc Luân (chủ biên), Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp giành
độc lập, tự do (1945 – 1975), NXB Chính trị Quốc gia, 2001, tr. 303.

247


toàn của ngụy quân, ngụy quyền là "đã ở trong tầm tay". Do đó, có thể
nói Hiệp định Paris là một bước đi chiến lược mà Trung ương đã dự
kiến để chuyển cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước
nhà sang một giai đoạn mới; Hai là, Hội nghị Paris là cuộc đấu trí giữa
nền ngoại giao Việt Nam và nền ngoại giao của một đế quốc đầu sỏ
lớn nhất thế giới và ngoại giao ta đã thắng. Mỹ đã dẫm vào cái bẫy
chiến lược của ta khi đặt bút ký Hiệp định Pari. Cay đắng vì việc ta
giải phóng miền Nam chỉ trong vịng 2 năm 4 tháng sau khi Hiệp định
Paris được ký kết, trong khi trả lời một câu hỏi của một nhà báo nước
ngoài (tháng 5/1975), Kissinger đã thề "cạch đến già không bao giờ
gặp Lê Đức Thọ nữa"; Ba là, qua cuộc đàm phán Pari, nền ngoại giao
ta đã trưởng thành. So với Hiệp định sơ bộ (6/3/1946) và Hiệp định
Giơnevơ (1954), ngoại giao Việt Nam đã tiến một bước dài về tất cả
mọi mặt, phát huy cao độ tính chủ động và độc lập tự chủ trong việc
mở ra cục diện "vừa đánh, vừa đàm"; chuyển hướng từ chiến lược
chiến tranh sang chiến lược hịa bình; chủ động kết thúc đàm phán đi
đến ký Hiệp định chấm dứt chiến tranh.
2.3. Giai đoạn 1973 – 1975
Hiệp định Paris được ký kết đã khẳng định uy tín của Việt Nam
trên trường quốc tế. Hội nghị cấp cao các nước không liên kết lần thứ

tư, họp tại Alger (Angiêri) tháng 9/1973 đã nhất trí thơng qua một nghị
quyết đặc biệt về Việt Nam, qua đó “hoan nghênh việc ký Hiệp định
Paris về chấm dứt chiến tranh và lập lại hịa bình ở Việt Nam… coi
thắng lợi của nhân dân Việt Nam là thắng lợi chung của đại gia đình
các nước khơng liên kết và của tất cả các dân tộc đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc, thực dân cũ và mới vì hịa bình, độc lập dân tộc và tiến
bộ xã hội”1. Hội nghị cũng đã “kêu gọi các nước không liên kết tăng
cường ủng hộ Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam về
mọi lĩnh vực chính trị, tinh thần và ngoại giao trong cuộc đấu tranh
chính nghĩa nhằm xây dựng một miền Nam Việt Nam hịa bình, độc
lập, trung lập và dân chủ, tiến tới hịa bình thống nhất tổ quốc, và dành
mọi sự ủng hộ vật chất cho công cuộc xây dựng lại Việt Nam”2. Điều
này đã được sự hưởng ứng mạnh mẽ của các nước thành viên. Nhiều
1. Võ Anh Tuấn, Phong trào khơng liên kết, NXB Chính trị Quốc gia, 1999, tr. 106.
2. Võ Anh Tuấn, sđd, tr. 107.

248


nước không liên kết đã thiết lập quan hệ ngoại giao cấp đại sứ với
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hịa miền Nam Việt Nam.
Tiếp đó, các kỳ họp của Hội nghị Bộ trưởng các nước Phong trào
không liên kết từ năm 1973 – 1975 đều lên tiếng đòi Mỹ và chính
quyền Sài Gịn phải ngưng ngay mọi hành động chiến tranh, thi hành
đúng thỏa thuận ngừng bắn theo đúng tinh thần Hiệp định Paris. Sự
ủng hộ của Phong trào Khơng liên kết và những đóng góp thiết thực về
cả vật chất lẫn tinh thần của các nước thành viên đã cổ vũ mạnh mẽ
cho cuộc đấu tranh vì sự nghiệp giành độc lập, tự do của nhân dân Việt
Nam đi đến thắng lợi cuối cùng.
Các nước xã hội chủ nghĩa đồng lòng ca ngợi thắng lợi của Việt

Nam, lên tiếng ủng hộ Việt Nam bảo vệ, thi hành Hiệp định Paris.
Phần lớn các nước xã hội chủ nghĩa đều sẵn sàng giúp đỡ Việt Nam
xây dựng lại miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đồng thời lên án mạnh mẽ
việc Mỹ dung túng chính quyền Sài Gịn phá Hiệp định Paris. Nhiều
nước đã xóa nợ cho Việt Nam, coi viện trợ cho Việt Nam trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước là viện trợ khơng hồn lại. Ba Lan và
Hungari là thành viên của Ủy ban quốc tế cũng hết lòng phối hợp với
Việt Nam trong việc thực hiện Hiệp định Paris. Nhìn chung, sau khi
Hiệp định Paris được ký kết (27/1/1973), các nước xã hội chủ nghĩa
tiếp tục dành tình cảm quý trọng và nhiệt tình ủng hộ cuộc đấu tranh
giành độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam. Tổng khối lượng viện trợ
quốc tế của các nước cho Việt Nam ước tính 2.362.682 tấn, trị giá 7 tỷ
rúp1 bao gồm lương thực, thực phẩm, quân trang, vật liệu xây dựng, vũ
khí, khí tài… Tuy nhiên, lúc này xuất hiện trong dư luận quốc tế tư
tưởng coi việc chống chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam đã
hoàn thành, các cuộc xung đột ở Nam Việt Nam chỉ là vấn đề nội bộ2.
Ở khu vực Đông Nam Á, sau khi Hiệp định Paris được ký kết,
một khơng khí hịa dịu trong quan hệ giữa Việt Nam và các nước
ASEAN đã manh nha xuất hiện. Đối với Việt Nam, việc phát triển
quan hệ ngoại với các nước ASEAN trong thời kỳ này là nhằm vào
mục tiêu phục vụ cuộc đấu tranh buộc Mỹ – ngụy thi hành nghiêm
1. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh thuộc Bộ Chính trị, Chiến tranh cách mạng Việt
Nam 1945 – 1975: Thắng lợi và bài học, NXB Chính trị Quốc gia, 2000, tr. 601.
2. Nguyễn Đình Bin (chủ biên), Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000, NXB Chính trị
Quốc gia, 2002, tr. 269.

249


chỉnh Hiệp định Paris và sau đó là mục tiêu giải phóng hồn tồn miền

Nam1. Đối với các nước ASEAN, diễn biến của quan hệ quốc tế, nhất
là quan hệ giữa các nước lớn, xung quanh cuộc chiến tranh Việt Nam
và thành công của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước đã góp phần thay đổi nhận thức của họ trong quan hệ với Việt
Nam. Lúc này, các nước ASEAN đều muốn thúc đẩy quan hệ với Việt
Nam để cùng nhau tiến tới xây dựng một khuôn khổ mới trong quan hệ
quốc tế ở Đông Nam Á theo tinh thần của Tuyên bố Kuala Lumpur về
việc thiết lập một khu vực Đơng Nam Á hịa bình, tự do và trung lập
(ZOPFAN)2. Vào thời điểm đầu năm 1973, xu thế phát triển quan hệ
với Việt Nam được các nước ASEAN khởi động mạnh.
Indonesia là quốc gia ASEAN đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại
giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Tiếp đến, Malaysia đã nhiều lần
tìm cách tiếp xúc với Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, trong đó có một
lần thơng qua Thụy Điển làm trung gian gặp đại diện của Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa và ngày 30/3/1973, Malaysia đã chủ động đặt vấn
đề quan hệ với Việt Nam3. Ngày 23/2/1973, đại diện Philippines ở
Viên Chăn (Lào) cũng đã có hành động thăm dị phía Việt Nam về khả
năng buôn bán và quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Trong năm 1973,
Malaysia và Philippines đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa; ngày 1/8/1973, Malaysia, Philippines, Singapore
cũng đề nghị Việt Nam trao đổi quan hệ cấp đại sứ.
Thái Lan, một đồng minh quan trọng của Mỹ ở Đơng Nam Á,
cũng đã có những động thái mới trong quan hệ với Việt Nam. Đầu năm
1973, Thái Lan cùng với Philippines đã rút hết quân đội của mình ra
khỏi miền Nam Việt Nam4. Tháng 3/1973, Thứ trưởng Ngoại giao
Thái Lan Chatichai Choonhavan tuyên bố rằng Thái Lan đang xem xét
khả năng thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Cũng trong thời
1. Xem Nguyễn Phúc Luân (chủ biên), sđd, tr. 300 – 310.
2. Tuyên bố Kuala Lumpur về việc thiết lập một khu vực Đơng Nam Á hịa bình, tự
do và trung lập (ZOPFAN) được ký kết các thành viên tổ chức ASEAN thông qua

tại Hội nghị Bộ trưởng ASEAN họp từ 26–26 tháng 11 năm 1971 tại Malaysia,
qua đó chính thức hóa xu thế trung lập của ASEAN.
3. Nguyễn Vũ Tùng, tlđd, tr. 68.
4. Thái Lan và Philippines gửi một số đơn vị quân đội của mình đến Việt Nam năm
1965. Xem Lê Mậu Hãn (chủ biên), Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập 3, NXB
Giáo dục, 1998, tr. 202.

250


gian này, Thái Lan đã vận động để ASEAN mời Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa cử một quan sát viên tới Hội nghị Ngoại trưởng của ASEAN
họp tại Bangkok (Thái Lan) vào tháng 4/19731. Ngày 31/8/1973, Quốc
hội Thái Lan thông qua đạo luật cho phép Thái Lan buôn bán với tất cả
các nước cộng sản, trong đó có Việt Nam.
Trong khối xã hội chủ nghĩa, Liên Xô và Trung Quốc là hai quốc
gia có những đóng góp to lớn cả về tinh thần lẫn vật chất cho công
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam. Trong
thời kỳ này, Liên Xô và Trung Quốc cùng hoan nghênh việc ký kết
Hiệp định Paris (27/1/1973) và tuyên bố tiếp tục ủng hộ Việt Nam
cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do của Việt Nam. Tuy nhiên, cuộc
chiến tranh chống Mỹ, cứu nước của Việt Nam diễn ra trong bối cảnh
khối đồn kết Xơ – Trung đã bị rạn nứt, phân thành những mảng lợi
ích riêng biệt thể hiện qua những chuyển động của ba cặp quan hệ
nước lớn Xô – Trung, Trung – Mỹ và Mỹ – Xô. Sự hình thành tam
giác chiến lược Mỹ – Xơ – Trung đã manh nha từ đó. Vấn đề Việt
Nam là một động lực cho sự hình thành và vận động của tam giác
chiến lược và (ngược lại) chịu những tác động phức tạp từ cả ba góc
của tam giác nước lớn này2.
Đối với Liên Xô, Việt Nam luôn tôn trọng vai trị và tiếng nói

Liên Xơ trong các vấn đề lớn của chiến tranh thông qua các cuộc gặp
cấp cao. Trong khoảng thời gian từ 1965 – 1972, Việt Nam đã tiến
hành 51 cuộc gặp cấp cao, từ ủy viên Bộ Chính trị, phó thủ tướng trở
lên3. Sau khi Hiệp định Paris được ký kết (27/1/1973), Liên Xô lên
tiếng ủng hộ những thắng lợi của Việt Nam vì nó đã ghi nhận thất bại
của Mỹ và khẳng định vai trò to lớn của Liên Xô trong việc giúp đỡ
một nước xã hội chủ nghĩa, một dân tộc nhỏ đánh thắng cuộc chiến
tranh xâm lược của Mỹ – đối thủ hàng đầu của mình. Liên Xơ tun bố
xóa tất cả nợ cho Việt Nam, sẵn sàng giúp đỡ với khả năng của mình
1. Noordin Sopiee, “The “Neutralization” of Southeast Asia”, in Hedley Bull (ed. ),
Asia and the Western Pacific: Toward a New International Order, Canberra:
Thomas Nelson Publiser, 1975, tr. 149. Dẫn theo Nguyễn Vũ Tùng, tlđd, tr. 68.
2. Trần Quang Cơ, “Ý nghĩa của cuộc đấu tranh ngoại giao trong lĩnh vực đối ngoại
hiện nay”, trong: Bộ Ngoại giao, Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc, NXB
Chính trị Quốc gia, 1995, tr. 155.
3. Nguyễn Đình Bin (chủ biên), sđđ, tr. 235.

251


×