MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ
LỊCH SỬ VIỆT NAM
Tập 3
MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ
LỊCH SỬ VIỆT NAM
Tập 3
Chủ biên
PGS.TS. HÀ MINH HỒNG – TS. NGUYỄN VĂN HIỆP
Các tác giả
PGS.TS. PHAN AN – PGS.TS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG CHI
PGS.TS. ĐINH QUANG HẢI – PGS.TS. HÀ MINH HỒNG
TS. NGUYỄN VĂN HIỆP – PGS.TS. HÀ MẠNH KHOA
GS.TS. NGÔ VĂN LỆ – GS.TS.VS. LƯƠNG NINH
PGS.TS. THÀNH PHẦN – TS. TRẦN HẠNH MINH PHƯƠNG
ThS. PHẠM THÚC SƠN – ThS. PHẠM VĂN THỊNH
TS. TRẦN THUẬN – PGS.TS. TRẦN NAM TIẾN
PGS.TS. NGUYỄN VĂN TIỆP
Mã số sách chuẩn quốc tế (ISBN)
978-604-73-1761-5
Nhà xuất bản ĐHQG-HCM
và Trường Đại học Thủ Dầu Một giữ bản quyền©.
Copyright© by VNU-HCM Publishing House and
Thu Dau Mot University All rights reserved.
Xuất bản năm 2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
Số 6 Trần Văn Ơn – Phú Hòa – Thủ Dầu Một – Bình Dương
Điện thoại: (0650) 3.844.226; Fax: (0650) 3.837.150
Email: ; Website: www.tdmu.edu.vn
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
PGS.TS. HÀ MINH HỒNG ‒ TS. NGUYỄN VĂN HIỆP
(Chủ biên)
MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ
LỊCH SỬ
VIỆT NAM
Tập 3
NHÀ XUẤT BẢN
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU
TS. Nguyễn Văn Hiệp ................................................................... 7
CHẾ ĐỘ RUỘNG ĐẤT Ở VIỆT NAM THỜI KỲ LÝ – TRẦN – LÊ
(1010 – 1527)
PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Chi................................................... 9
NHỮNG CUỘC CẢI CÁCH LỚN TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM
(THẾ KỶ X ĐẾN THẾ KỶ XIX)
PGS.TS. Hà Mạnh Khoa .................................................................. 57
LỊCH SỬ CHIẾN TRANH VÀ NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM
PGS.TS. Hà Minh Hồng............................................................. 89
NHỮNG GIÁ TRỊ TINH THẦN TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM
TS. Trần Thuận ....................................................................... 120
ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC, XÂY DỰNG CHÍNH
QUYỀN NHÂN DÂN TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945 - 1946)
PGS.TS. Đinh Quang Hải ............................................................. 175
NGOẠI GIAO VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY
PGS.TS. Trần Nam Tiến ......................................................... 227
GIÁO DỤC CÁCH MẠNG Ở VÙNG CĂN CỨ ĐỊA THỦ DẦU MỘT –
BÌNH DƯƠNG 1945 – 1975
TS. Nguyễn Văn Hiệp – ThS. Phạm Văn Thịnh ...................... 266
VĂN HÓA TỘC NGƯỜI Ở VIỆT NAM
PGS.TS. Nguyễn Văn Tiệp – TS. Trần Hạnh Minh Phương .. 316
ĐẶC TRƯNG TÍN NGƯỢNG TÔN GIÁO CỦA CƯ DÂN NAM BỘ
GS.TS. Ngô Văn Lệ ................................................................... 358
CÁC DÂN TỘC ÍT NGƯỜI BẢN ĐỊA Ở ĐÔNG NAM BỘ
PGS.TS. Phan An – ThS. Phạm Thúc Sơn............................. 388
VƯƠNG QUỐC PHÙ NAM – LỊCH SỬ VÀ VĂN HÓA
GS.TS.VS. Lương Ninh ............................................................ 411
NHÀ NƯỚC CHAMPA – LỊCH SỬ VÀ VĂN HÓA
PGS.TS. Thành Phần ............................................................... 456
LỜI NÓI ĐẦU
Bộ sách Một số chun đề lịch sử Việt Nam gồm ba tập do cán bộ
giảng dạy và nghiên cứu Trường Đại học Thủ Dầu Một phối hợp cùng
các cơ quan khoa học và giáo dục ở Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội
biên soạn, xuất bản trong năm 2013 ‒ 2014. Với 33 chuyên đề nghiên
cứu về lịch sử Việt Nam, bộ sách giới thiệu những chủ đề khoa học cơ
bản thuộc một số lĩnh vực sử học, liên quan đến những vấn đề lịch sử
đương đại của cả nước, khu vực và địa phương, trong đó phần lớn là các
chuyên đề đã và đang được giảng dạy cho sinh viên ngành lịch sử ở các
trường đại học. Các chuyên đề trong bộ sách được thể hiện dưới dạng đề
cương chi tiết, gợi mở những vấn đề cụ thể trong giảng dạy, nghiên cứu
và tham khảo, học tập.
Trong tập ba này, sách sẽ cung cấp cho giảng viên, sinh viên và
bạn đọc 12 chuyên đề của các cán bộ nghiên cứu, giảng viên giàu kinh
nghiệm trong giới sử học Việt Nam. Các chuyên đề được biên soạn công
phu, phản ánh những kết quả nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực và chủ đề
khác nhau của lịch sử Việt Nam. Kết hợp việc giới thiệu những vấn đề
khoa học căn bản, thiết thực với yêu cầu đào tạo chuyên ngành lịch sử
hiện nay, các chuyên đề còn gợi mở hướng tiếp cận bài bản trong nghiên
cứu lịch sử Việt Nam, gợi mở những vấn đề đổi mới phương pháp
nghiên cứu, giảng dạy lịch sử trong đào tạo đại học và sau đại học.
Tập sách được biên soạn trong một thời gian ngắn để phục vụ kịp
thời cho công tác đào tạo ở Trường Đại học Thủ Dầu Một nên khơng
tránh khỏi thiếu sót. Để đáp ứng u cầu phục vụ đông đảo cán bộ,
giảng viên và sinh viên trong tình hình giáo trình và tài liệu tham khảo
cịn nhiều hạn chế, Trường Đại học Thủ Dầu Một mạnh dạn cho xuất
bản tập sách. Nhà trường rất mong nhận được ý kiến đóng góp của cán
bộ giảng dạy, cán bộ nghiên cứu trong, ngoài trường và bạn đọc để cơng
tác biên soạn giáo trình của trường được tốt hơn.
TS. Nguyễn Văn Hiệp
Hiệu trưởng Trường Đại học Thủ Dầu Một
CHẾ ĐỘ RUỘNG ĐẤT Ở VIỆT NAM
THỜI LÝ ‒ TRẦN ‒ LÊ (1010–1527)
Nguyễn Thị Phương Chi*
Đặc trưng quan trọng của chế độ ruộng đất của nhiều nước Đông
phương trong thời kỳ phong kiến là chế độ sở hữu ruộng đất của nhà
nước chiếm ưu thế.
Dưới chế độ quân chủ Việt Nam, nền kinh tế chủ yếu là nông
nghiệp nên tư liệu sản xuất căn bản là ruộng đất. Chế độ sở hữu ruộng
đất của các nhà nước quân chủ Việt Nam trong từng thời kỳ lịch sử có
những đặc trưng riêng, về cơ bản có hai loại sở hữu: sở hữu nhà nước
và sở hữu tư nhân.
Ở Việt Nam trong trong thời Lý, Trần, Lê sơ về trước, trừ một bộ
phận ruộng đất tư hữu tương đối ít, hầu hết ruộng đất và tất cả tài sản
như núi sông, bờ biển, đất cát đều thuộc quyền sở hữu của nhà nước
mà đại biểu là nhà vua. Nhà vua, chủ sở hữu tối cao về ruộng đất và tài
sản trong toàn quốc, có thể lấy ruộng cơng của địa phương ban cấp cho
người này, người khác theo quy định của triều đình, cho họ sử dụng,
hưởng hoa lợi (chỉ một số nhỏ được quyền sở hữu). Tuy về mặt hình
thái kinh tế – xã hội, Việt Nam còn thuộc phạm trù “Phương thức sản
xuất châu Á”, với sự thiết lập chế độ vương quyền thay thế chế độ thủ
lĩnh hào trưởng trước đó; nhưng xu hướng thống nhất, tập quyền mà
những người tiêu biểu là Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lý Công Uẩn... là
những người thiết lập nên những vương triều độc lập, đã đánh dấu
bước chuẩn bị giải thể của cơng xã nơng thơn, hình thành một nhà
nước qn chủ trung ương tập quyền, dựa trên nền tảng cư dân nơng
nghiệp. Xu hướng tập quyền của dân tộc có nền tảng ở thế kỷ X, ngày
càng phát triển ở các thế kỷ tiếp theo với chế độ quân chủ tập quyền,
* Phó giáo sư ‒ Tiến sĩ, Viện Sử học, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.
9
đứng đầu là nhà vua. Vua là chủ lãnh thổ Nhà nước, cũng đồng thời là
chủ ruộng đất toàn quốc. Vua có tồn quyền phân phối đất đai trong
tồn quốc cho bất cứ ai và có quyền tịch thu ruộng đất của bất cứ ai,
nhưng không phải tự do như xử lý tài sản của mình mà làm theo phép
nước. Chế độ sở hữu ruộng đất nhà nước thiết lập dựa trên chế độ sở
hữu làng xã (còn gọi là sở hữu kép). Thành viên làng xã vốn là những
người tự nguyện liên kết lại với nhau trong quá trình đấu tranh sinh
tồn, khai hoang lập làng. Những công xã tự do ấy nay đã bị lệ thuộc
nhà nước quân chủ.
1. CHẾ ĐỘ RUỘNG ĐẤT THỜI LÝ (1010 – 1226)
Từ trước đến nay các nhà nghiên cứu về ruộng đất thường sử
dụng các tên gọi như quan điền và dân điền1 hay công hữu và tư hữu2
hay ruộng công và ruộng tư3 để chỉ các loại ruộng đất thuộc sở hữu nhà
nước và sở hữu tư nhân.
1.1. Ruộng công (công hữu) gồm hai loại:
– Ruộng đất do nhà nước trực tiếp quản lý
– Ruộng đất công làng xã.
Ruộng đất do nhà nước trực tiếp quản lý gồm bốn loại: ruộng
sơn lăng, ruộng tịch điền, ruộng quốc khố và đồn điền. Trong đó,
ruộng sơn lăng và tịch điền thường chiếm số lượng nhỏ.
– Ruộng sơn lăng: Theo Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT),
thời Lý, ruộng sơn lăng ở châu Cổ Pháp rộng mươi dặm. Ruộng sơn
lăng gồm hai phần: một khu ruộng mộ và một khu ruộng thờ. Trong
đó, tám lăng của tám vị vua triều Lý chỉ chiếm khoảng 32 mẫu ruộng
mộ. Tuy nhiên, cả khu sơn lăng thì có khoảng vài trăm mẫu. Theo Cổ
Pháp điện tạo bi khắc năm Hoằng Định thứ 4 (1604) và Đình Bảng
1. Nguyễn Duy Hinh, Kinh tế – xã hội Lý – Trần, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số
4/1996.
2. Xem: Vũ Minh Giang, Sự phát triển của các hình thức sở hữu ruộng đất trong lịch
sử chế độ phong kiến Việt Nam, Tạp chí Khoa học – Trường Đại học Tổng hợp Hà
Nội, số 3/1988, tr. 45 – 52; Xem thêm: Nguyễn Khắc Đạm, Thêm một số ý kiến về
chế độ ruộng đất và tô thuế thời Lý – Trần, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 1
(177)/1977, tr. 79 – 90.
3. Trương Hữu Quýnh, Chế độ ruộng đất Việt Nam thế kỷ XI – XV, tập I, NXB Khoa
học Xã hội, 1982.
10
điện bi khắc năm Hoằng Định thứ 5 (1605) ở khu cấm địa Đền Đơ
của làng Đình Bảng, trong thời gian dài do cường hào xâm lấn, ngăn
cản nên khu lăng miếu bị bỏ hoang, nay chúa Trịnh Tùng cho phép
"lấy 284 mẫu ruộng của xã làm ruộng thờ Đền Đô như cũ". Đến thế
kỷ XIX, Đại Nam nhất thống chí ghi chép về khu Lăng Lý Bát đế
như sau: "Ở xã Đình Bảng, huyện Đơng ngàn, khu đất rộng chừng
trăm mẫu, cổ thụ um tùm, là cấm địa và là thang mộc ấp của nhà Lý,
lăng Bát đế ở đấy. Năm Minh Mệnh thứ 21 tu bổ và lập bia"1. Đến
trước Cách mạng tháng Tám, ở đây đa số là ruộng công. Ruộng sơn
lăng do dân sở tại cày cấy và có nghĩa vụ nộp một ít hoa lợi để chăm
sóc phần lăng mộ.
– Ruộng tịch điền: Hoa lợi trên loại ruộng này chi phí vào việc tế
tự. Đây là loại ruộng mang tính chất nghi lễ nơng nghiệp mong cho
mùa màng tốt tươi. Theo như lời chú của Khâm định Việt sử thơng
giám cương mục (Cương mục) thì: “Đời cổ, vua chúa đều có ruộng tịch
điền, thiên tử một ngàn mẫu, vua chư hầu một trăm mẫu, lấy hoa lợi
ruộng ấy cúng tế nhà tôn miếu. Vua chúa thường nhân mùa Xuân ra
cày mấy luống ở ruộng ấy làm mẫu mực, cịn tồn nhờ vào sức dân, vì
thế chữ “tịch” nhiều sách viết là chữ “tạ” nghĩa là nhờ”2. Vào mùa
Xuân, nhà vua tự cày ruộng tịch điền để nêu gương cho thiên hạ chăm
lo mùa màng. Ruộng tịch điền được sử cũ chép từ thời Tiền Lê.
ĐVSKTT, tập I, chép, năm 987, vua Lê Đại Hành cày ruộng tịch điền ở
Đọi Sơn (Duy Tiên, Hà Nam). Thời Lý, ĐVSKTT 3 đã chép khá nhiều
về việc nhà vua tự cày ruộng tịch điền. Có thể dẫn như sau:
Năm 1032. Mùa Hạ, tháng tư, vua (Lý Thái Tông , ở ngơi 1028 –
1053 – TG) ngự đến Tín Hương ở Đỗ Động giang cày ruộng tịch điền;
nông dân dâng một cây lúa có 9 bơng thóc. Xuống chiếu đổi ruộng ấy
làm ruộng Ứng Thiên4. Năm 1038, mùa Xuân, tháng 2, vua ra Bố Hải
khẩu cày ruộng tịch điền. Sai quan dọn cỏ đắp đàn. Vua thân tế thần
nông xong, cầm cày muốn làm lễ tự cày, các quan tả hữu có người can
rằng: "Đó là việc của nơng phu, bệ hạ cần gì làm thế?". Vua nói:
"Trẫm khơng tự cày thì lấy gì làm xơi cúng, lấy gì để xướng xuất thiên
1. Đại Nam nhất thống chí, tập 2, NXB Khoa học Xã hội, 1971, tr. 98.
2. Cương mục, tập I, NXB Giáo dục, 1998, tr.587.
3. Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, in lần thứ hai, NXB Khoa học Xã hội, 1972.
4. Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, sđd, tr.209.
11
hạ?". Thế rồi đẩy cày ba lần rồi thôi. Tháng 3, vua về Kinh sư1. Nhâm
Ngọ – 1042, mùa Xuân, tháng 3, vua ngự ra Kha Lãm2 cày ruộng tịch
điền rồi về Kinh sư3. Các vua triều Tiền Lê và Lý rất chú trọng đến
việc cày ruộng tịch điền. Đến thời Trần, sử chép mỗi một lần nhà vua
cày ruộng tịch điền vào năm 1316.
Vua Lý còn nhiều lần vi hành xem dân cày ruộng, gặt hái. Có năm,
vua đi hai lần một nơi như năm 1117: "Tháng 3/1117, vua lại ngự đến
hành cung Ứng Phong (nay thuộc Nghĩa Hưng, Nam Định) xem cày
ruộng công". "Tháng 6/1117, vua ngự đến hành cung Ứng Phong xem cày
ruộng. Khi ấy không mưa, đảo vũ ở hành cung"4. Và, Ứng Phong là địa
điểm vua Lý đi xem cày ruộng, xem gặt nhiều nhất và hình như vua chỉ
đến đó mà thơi. Sử chép tới 8 lần vua đến Ứng Phong. Hai lần vào năm
1117, sáu lần vào các năm, 1123, 1124, 1125 (2 lần), 1126, 1127 và một
lần đến Ô lộ (nay chưa rõ ở đâu) để xem gặt5.
Có điều, quan tâm đến việc cày ruộng tịch điền và xem dân gặt
hái chỉ tập trung vào mấy vị vua đầu triều mà thôi. Người mở đầu lập
lại lệ cổ – cày ruộng tịch điền là vua Lý Thái Tông và cực kỳ phát triển
dưới thời vua Lý Nhân Tông (ở ngôi 1072 – 1127). Sử thần Ngô Sĩ
Liên nhận xét: "Thái Tôn làm lại lễ cổ, thân đi cày ruộng tịch điền,
xướng xuất thiên hạ, trên để cung tôn miếu, dưới để nuôi mn dân;
cơng hiệu trị vì khiến của giàu người nhiều là đúng lắm"6.
Dưới triều Lý, ruộng tịch điền thường được chọn ở những khu
ruộng công không chỉ thuận lợi về địa lý mà cịn quan yếu đối với
nơng nghiệp, gần sông, hệ thống tưới tiêu thuận lợi như: Bố Hải khẩu
(thành phố Thái Bình ngày nay); Tín Hương thuộc Đỗ Động giang
(Bình Đà, Thanh Oai, Hà Tây) là đất của sứ quân Đỗ Cảnh Thạc hồi
thế kỷ X; Ứng Phong (Nghĩa Hưng, Nam Định). Ruộng tịch điền là
một loại ruộng riêng của nhà nước nên trong chính sử cũng đã đôi lần
nhắc đến việc "vua xem cày ruộng công" như năm 1117.
1. Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, sđd, tr.214.
2. Kha Lãm còn gọi là Cổ Lãm tức Khả Lãm, Phú Lãm, tục gọi là Kẻ Xốm, thuộc
huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây cũ (nay là Hà Nội).
3. Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, sđd, tr. 218.
4. Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, sđd, tr.247, 248.
5. Những sự kiện nêu trên xin xem Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, sđd, tr. 208, 253,
254, 255, 256.
6. Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, sđd, tr.214.
12
– Ruộng quốc khố (quốc khố điền): Theo tác giả Trương Hữu
Quýnh trong “Chế độ ruộng đất ở Việt Nam thế kỷ XI – XVIII, Tập I (thế
kỷ XI – XV)” thì, nghĩa đen của thuật ngữ quốc khố điền là ruộng kho
công, tức là ruộng đất của nhà nước, lấy thu hoạch trữ vào kho của nhà
nước. Theo chúng tơi, ruộng quốc khố cịn gọi là ruộng cơng hay ruộng
nhà nước như ghi chép trong ĐVSKTT. Thu hoạch trên ruộng đất nhà
nước trữ vào kho nhà nước. Rất tiếc, sử cũ khơng có một thơng tin nào về
số lượng loại ruộng này. Tuy nhiên, ghi chép trong ĐVSKTT về một số
địa điểm như Cảo xã (ruộng ở xã Nhật Tảo) chuyên dùng những người bị
tù tội cày cấy. Sử chép: tháng 9 năm 1150, “bấy giờ vua xử án của Anh
Vũ (Đỗ Anh Vũ – TG), đày Anh Vũ làm cảo điền nhi”1. Điền nhi, theo
phần Chú giải và khảo chứng trong ĐVSKTT là "Nơng dân có tội phải ghi
tên vào sổ để sung việc cày ruộng nhà nước"2.
– Đồn điền: Việc tổ chức khẩn hoang lập đồn điền bắt đầu có từ
thời Đường và tồn tại cho tới các triều đại sau. Thời Lý, lực lượng lao
động thành lập đồn điền phần lớn là tù binh (Chămpa) và dân bị tù tội.
Hình thức khẩn hoang lập đồn điền còn tiếp tục diễn ra dưới thời Trần
và Lê sơ nhưng ở thời Lê sơ gọi là sở – sở đồn điền.
– Ruộng công làng xã: Do thiếu tư liệu nên chúng ta khơng thể
biết rõ vai trị của làng xã trong việc quản lý loại ruộng công làng xã
thời Lý, Trần ra sao. Nhưng về đại thể, chế độ ruộng đất công làng xã
và chế độ quân điền gắn liền với sự tồn tại của tổ chức xã thôn.
Vai trị của làng xã đối với loại ruộng cơng này khá quan trọng
và bền chặt. Trong lịch sử các nhà nước quân chủ Việt Nam, làng xã là
những đơn vị bảo tồn vững chắc những sắc thái văn hóa dân tộc. Làng
xã – cấp đơn vị cơ sở – không ngừng được nhà nước tăng cường kiểm
soát. Hoa lợi trên bộ phận ruộng đất cơng làng xã được dân đóng thuế
cho nhà nước theo quy định. Theo tư liệu trong chính sử thì thuế nộp
cho nhà nước bằng thóc lúa và tiền. Bởi, khá nhiều lần nhà vua xá thuế
cho dân: "Năm ấy được mùa to (năm 1016), xá tô thuế cho thiên hạ 3
năm"3. "Đinh Tỵ (1017). Xuống Chiếu tha tô ruộng cho thiên hạ"4.
1. Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, sđd, tr.282.
2. Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, sđd, tr.346.
3. Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, sđd, tr.196.
4. Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, sđd, tr.196.
13
"Năm 1018, xá một nửa tô ruộng cho thiên hạ"1. "Tháng 4/1040, tha
một nửa tiền thuế cho thiên hạ"2.
Ruộng đất cơng làng xã cịn dùng để ban thưởng cho các quan lại
cao cấp, những người có cơng đặc biệt với triều đình. Ví như ban
thưởng hương Đa Mi cho Lê Phụng Hiểu....
Một phần hoa lợi trên bộ phận ruộng đất cơng làng xã cịn để
cung cấp cho các hồng tử và hồng nữ (tức các vương hầu, cơng
chúa), “tháng 10/1013, cho các vương hầu công chúa được quản các
thuế theo thứ bậc khác nhau”3.
Phan Huy Chú nhận xét:“Đời Lý kiểm soát hộ tịch rất là nghiêm
ngặt. Dân đinh nào đến tuổi 18 thì biên vào sổ bìa vàng, gọi là Hoàng
nam, đến 20 tuổi gọi là Đại nam”4. Việc quản lý dân đinh một mặt
nhằm phục vụ việc tuyển quân nhưng, mặt khác, cịn để kiểm sốt việc
thu thuế đinh.
1.2. Ruộng tư
Sở hữu tư nhân về ruộng đất đã có xu hướng phát triển5, nhất là
sang thế kỷ XII, tình trạng tranh chấp ruộng đất xuất hiện khá nhiều,
buộc nhà nước phải nhiều lần can thiệp. Thời Lý, ruộng tư tồn tại ba
hình thức chính: sở hữu lớn của những quan lại cao cấp và các thế gia,
sở hữu của nông dân, sở hữu của nhà chùa.
1.2.1. Sở hữu lớn của những quan lại cao cấp và các thế gia
Dựa vào tư liệu văn bia ta có thể biết thời Lý, sở hữu ruộng đất
tư của quan lại cao cấp khá lớn. Văn bia Cổ Việt thông Diên Phúc tự
dành một phần lớn nội dung viết về Thái úy Đỗ Anh Vũ (1114 – 1159)
mà sử cũ không ghi chép như: Bố mẹ Đỗ Anh Vũ đều là những người
thuộc dịng dõi thế gia (bố là một tướng cơng, mẹ là con gái thứ ba của
quan phủ lại). Đỗ Anh Vũ có một em gái là Quỳnh Anh. Quỳnh Anh
mất sớm, do đó Anh Vũ cùng mẹ phải ni con của Quỳnh Anh là
1. Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, sđd, tr.197.
2. Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, sđd, tr.217.
3. Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, sđd, tr.194.
4. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Tập II, NXB Khoa học Xã hội,
1992, tr.218.
5. Xem thêm: Phạm Thị Tâm – Hà Văn Tấn, "Vài nhận xét về ruộng đất tư hữu ở
Việt Nam thời Lý Trần", Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 52, 1963, tr. 20 – 30, 62.
14
Quốc Hiền. Lớn lên Quốc Hiền cũng có cơng lao trong việc phò giúp
vua Lý. Mẹ của Đỗ Anh Vũ đã để lại tất cả ruộng đất của tổ tông cho
cháu ngoại là Quốc Hiền: "Năm Đại Định thứ 17 (1156) mẹ của Việt
Quốc công (tức Đỗ Anh Vũ) dựng chùa Diên Phúc rồi giao hết thảy
ruộng của tổ tông để lại cho Quốc Hiền, dựng bia ghi chép để khỏi
ngày sau họ khác đến xâm bức "1.
Nội dung nêu trên không chỉ phản ánh việc thừa kế ruộng đất
mang tính chất cha truyền con nối, khơng phân biệt nội ngoại, nam nữ
(Pháp Thi truyền cho mẹ Đỗ Anh Vũ, mẹ Đỗ Anh Vũ lại truyền cho
cháu ngoại là Quốc Hiền) mà còn cho thấy mức độ tư hữu của một thế
gia triều Lý. Đồng thời tài liệu còn cho thấy, việc tranh chấp đất đai là
một thực tế. Do đó việc lập bia cũng nhằm bảo vệ ruộng đất của tổ tông
Đỗ Anh Vũ “không để cho họ khác xâm bức”. Văn bia Bảo Ninh Sùng
phúc tự (1107) thuật lại nguồn gốc họ Hà ở Ung Châu (gần Nam Ninh,
thuộc Khu tự trị Quảng Tây, Trung Quốc). Viễn tổ của Hà Di Khánh
(nhân vật chính trong bia) là Hà Đắc Trọng, sống ở đây và làm quan đến
chức Thái thú châu Vị Long (nay là huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tun
Quang). Trải qua 13 đời đều có cơng quản 49 động, 15 huyện. Đến ông
nội được tước Thái bảo, nhân cưới công chúa con gái thứ 3 vua Thái Tổ
(nhà Lý), được chức Hữu đại liêu ban; vợ được gọi là Quận qn. Phụ
thân ơng là Thái phó. Năm Ất Mão (1075) đã cầm quân sang đánh thành
Ung Châu. Với chiến công ấy, phụ thân ông được giữ chức Hữu đại liêu
ban, đồn luyện sứ. Vùng ơng cai trị “lúa gạo đầy đồng, nhân tài tìm
đến đơng như họp chợ”. Như vậy, châu Vị Long gồm 48 động, 15 huyện
đều do họ Hà cai quản cha truyền con nối tới 13 đời.
Ruộng ban thưởng theo kiểu ném dao của Lê Phụng Hiểu (ruộng
ném dao) cịn được triều đình cho thế nghiệp, có quyền truyền lại cho con
cháu, tức là ruộng tư. Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Năm 1028. Vua bằng
lòng cho Phụng Hiểu lên núi cầm dao quăng một cái xa đến hơn mười
dặm, dao rơi xuống hương Đa Mi2, vua lấy ruộng ấy ban cho. Tha thóc
thuế cho ruộng ném dao ấy". Và, thể theo nguyện vọng của Lê Phụng
1. Lê Thị Liên – Tống Trung Tín, Cổ Việt thông Diên Phúc tự bi minh – một tấm bia
thời Lý mới được phát hiện, Tạp chí Khảo cổ học, số 1/1991, tr.7 – 20. Xem thêm:
Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, tập I, École francaise d’E’xtrême – Orient – Viện
Nghiên cứu Hán Nôm, Paris – Hà Nội, 1998, tr.175.
2. Hương Đa Mi thuộc châu Ái xưa, Thanh Hóa ngày nay. Ruộng thưởng cơng ở
châu Ái cịn được gọi là ruộng ném dao.
15
Hiểu thì ruộng đó được nhà vua "ban cho làm thế nghiệp"1. Các thế gia,
những người có thế lực về chính trị đã sử dụng thế lực đó trong việc mở
rộng phạm vi tư hữu của mình. Vì thế triều đình đã phải xuống chiếu ngăn
chặn việc ấy: "Tháng 9/1143, các nhà quyền thế ngồi đầm ao của mình
khơng được ngăn cấm gì bậy; làm trái thì có tội"2.
1.2.2. Sở hữu của nơng dân
Mặc dù, chính sử khơng ghi số lượng ruộng đất cụ thể của nhân
dân nhưng dựa vào những ghi chép trong ĐVSKTT ta cũng có thể hình
dung phần nào. Ví dụ, tháng Giêng năm 1128, ngay khi mới lên ngôi,
Lý Thần Tôn (ở ngôi 1128 – 1138) liền ra lệnh, “xuống chiếu rằng
phàm dân ai bị tịch thu ruộng đất vào quan cùng là bị tội làm điền nhi3
thì đều phải trả về cả. Các tăng đạo và nhân dân (có tội phải đày) làm
lộ ơng (người bị tội đồ) cũng tha cả"4.
Hàng loạt sự kiện về việc kiện tụng mua bán, tranh nhau ruộng
đất, đầm ao khiến triều đình phải nhiều lần xuống Chiếu can thiệp, thể
hiện tư hữu ruộng đất của nhân dân là khá phổ biến. Ví dụ: "Tháng
12/1142. Xuống chiếu rằng những người cầm đợ ruộng thục trong
vịng 20 năm thì cho phép chuộc lại; tranh nhau ruộng đất trong vòng 5
năm hay 10 năm cịn được tâu kiện; ai có ruộng vườn hoang bị người
khác cày cấy trồng trọt, trong vòng một năm cho kiện mà nhận: quá
các hạn ấy thì cấm. Làm trái thì xử 80 trượng. Nếu tranh ruộng ao mà
lấy đồ binh khí nhọn sắc đánh chết hay làm bị thương người thì xử 80
trượng, tội đồ, đem ruộng ao ấy trả lại cho người chết hay bị thương"5.
"Tháng 12/1142. Xuống chiếu rằng những người bán đoạn ruộng
hoang hay ruộng thục đã có văn khế rồi thì khơng được chuộc lại nữa.
Làm trái là xử 80 trượng"6. "Tháng 4/1145. Xuống chiếu rằng những
người tranh nhau ruộng ao của cải khơng được nhờ cậy nhà quyền thế,
làm trái thì xử 80 trượng, tội đồ"7.
1. Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, sđd, tr.202.
2. Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, sđd, tr.278.
3. Điền nhi: Nơng dân có tội phải ghi tên vào sổ để sung việc cày ruộng nhà nước.
tr.346.
4. Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, sđd, tr.260.
5. Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, sđd, tr.278.
6. Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, sđd, tr.278.
7. Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, sđd, tr.279.
16
1.2.3. Sở hữu của nhà chùa
Từ trước đến nay những nghiên cứu về ruộng đất dường như
chưa có cơng trình nào chỉ ra sở hữu của nhà chùa như thế nào, trong
chuyên đề này, dựa vào tư liệu văn bia, tôi chỉ ra rõ hơn. Ruộng đất
của nhà chùa được nhà nước, quý tộc, nhân dân, nhất là các thế gia
cúng dường, khiến cho thế lực kinh tế của nhà chùa khá mạnh.
Đầu thời Lý, việc ban cấp ruộng đất còn hạn chế, đối tượng chủ
yếu được ban cấp là nhà chùa. Chùa Keo chẳng hạn, được nhà Lý cúng
1.371 mẫu 2 sào. "Năm 1088, định các chùa trong nước làm ba hạng
đại, trung và tiểu danh lam, cho quan văn chức cao kiêm làm đề cử, là
vì bấy giờ chùa có điền nơ và khố vật"1. Có điền nơ tức là có ruộng và
lực lượng lao động là nơ. Chứng tỏ tài sản của chùa là khá lớn.
Theo Càn Ni sơn Hương nghiêm tự bi minh ở chùa Hương
Nghiêm, thôn Diên Hào, tổng Diên Hào, Huyện Lôi Dương, phủ Thọ
Xuân (nay là xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa), văn
bia khắc lại vào mùa Đơng năm Bảo Thái thứ 7, năm Bính Ngọ (năm
1726) cho biết, nhà chùa có nhiều ruộng đất, lại được vua ban cho
quyền sở hữu ruộng đất, đặc biệt là miêu tả cảnh chùa huy hồng tráng
lệ2. Cổ Việt thơng Diên Phúc tự bi minh còn miêu tả việc cúng tiến của
cải vào chùa của các quốc vương đại thần: "Các bậc quốc vương đại
thần đều tô đắp tượng ngài (tượng Phật). Cạn của kho để cúng hiến
[vào chùa], lịng khơng xẻn tiếc, đeo ngọc châu để trang hoàng tượng
Phật chẳng ngại tốn hao. Lòng thành thực quy cả về tam bảo3, thế nên
trổ hết tài khéo vào trăm việc. Đó là việc chiêm ngưỡng gió lành4 mà
mở mang tượng pháp vậy”5. Ở sườn bia còn ghi việc cung tiến tiền
ruộng của dân làng vào chùa.
Theo Báo Ân thiền tự bi ký (1210), ở chùa thuộc xã Tháp Miễu,
tổng Bạch Trữ, huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên (nay thuộc huyện Mê
Linh, tỉnh Vĩnh Phúc), văn bia đã "giới thiệu thí chủ vốn là Nguyễn
1. Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, sđd, tr.241.
2.Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, tập I, École francaise d’E’xtrême – Orient – Viện
Nghiên cứu Hán Nôm, Paris – Hà Nội, 1998, tr.151.
3. Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng.
4. Gió lành (từ phong, chân phong) chỉ gió nhà Phật, đạo Phật.
5. Lê Thị Liên – Tống Trung Tín: Cổ Việt thông Diên Phúc tự bi minh – một tấm bia
thời Lý mới được phát hiện, Tạp chí Khảo cổ học, số 1/1991, tr.11.
17
Công, xuất thân vọng tộc, cởi bỏ nhung y, giác ngộ đạo Phật, trùng tu
chùa Báo Ân, mua ruộng đất cúng vào chùa và dựng bia. Ông lại cùng
nhà chùa dựa vào các thân sĩ, thành lập một hội Phật để quản lý chùa
Báo Ân". Nội dung văn bia có đoạn liệt kê danh sách hội viên Hội
Thích giáo Thiền và ranh giới ruộng đất của chùa1. Theo Bài ký bia
chùa Báo Ân núi An Hoạch2 thì Thái úy Lý Thường Kiệt đã huy động
nhân dân trong hương Cửu Chân xây dựng chùa Báo Ân, “tất cả những
người ở xứ này, hiền ngu lần lượt, giàu nghèo đúng phiên đều san đất
dẫy cỏ, dựng một ngôi chùa gọi là chùa Báo Ân. Giữa đặt tượng Phật,
dưới đặt tượng Bồ Tát, sắc ánh như vàng, đẹp như tranh vẽ”3. Đây
cũng là hình thức cúng tiến nhân tài vật lực cho chùa. Ruộng đất của
nhà chùa (nhà nước, quý tộc cúng ruộng; tư nhân – nhất là nhà giàu
cúng ruộng khiến cho thế lực kinh tế của nhà chùa khá mạnh.
Nhìn chung, chế độ ruộng đất thời Lý mới đang ở chặng đường
đầu của q trình phát triển tiến hóa. Tư hữu và tư hữu hóa chưa mấy
phát triển. Mức độ phân hóa và tập trung ruộng đất cũng chưa mấy
phát triển.
1.3. Ruộng đất phân phong – chế độ thực ấp, thực phong
Chế độ phân phong ruộng đất thời Lý còn gọi là chế độ thực ấp.
Tức là cấp ruộng đất và những nơng dân sống trên ruộng đất đó để
cày cấy và nộp tô thuế và lao dịch cho chủ, những người được hưởng
chế độ của triều đình. Thực hộ là cấp một số hộ nhất định, những hộ
này vẫn được cày cấy công điền nhưng phải nộp tô thuế cho người
được cấp.
Đối tượng được phong là các thành viên trong hồng tộc, quan
lại cao cấp trong triều đình và ở địa phương (quan ngoài).
Trong Ngưỡng Sơn Linh Xứng tự bi minh (1126) có đoạn viết về Lý
Thường Kiệt và việc xây dựng chùa. Trong đó, có chi tiết cho biết ông
được "thực ấp một vạn hộ" ở trấn Thanh Hóa, "Thái úy Lý Thường Kiệt
1. Báo Ân thiền tự bi ký (1210), trong Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, tập I, École
Francaise d’E’xtrême – Orient – Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Paris – Hà Nội,
1998, tr.242.
2. Chùa Báo Ân: ở làng An Hoạch, phủ Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc Thị xã
Thanh Hóa). Chùa được khởi dựng từ màu Hạ năm Kỷ Mão (1099) đến mùa Hạ
năm Canh Thìn (1100) thì hồn thành.
3. Bài ký bia chùa Báo Ân núi An Hoạch, trong Thơ văn Lý – Trần, tập I, sđd, tr. 310.
18
trước vào hầu Thái Tông (1028 – 1054), cuối đời Thánh Tông (1054 –
1072) đem quân đi đánh nước Phật Thệ (Champa – 1069) thành công.
Triều Nhân Tông (1072 – 1127) lại đem quân đánh Tống thắng lợi (1076
– 1078), được phong là "Thiên tử nghĩa đệ", trông coi trấn Thanh Hóa,
quận Cửu Chân, hưởng thực ấp một vạn hộ"1. Tính theo niên đại ghi chép
trong văn bia thì Lý Thường Kiệt trấn trị ở Thanh Hóa tới 19 năm. Sau
khi ơng qua đời, triều đình vẫn cho ơng hưởng thực ấp một vạn hộ và còn
phong em trai tước hầu, "tháng 6 năm 1105, Thái úy Lý Thường Kiệt
chết. Tặng làm Nhập nội điện đô tri kiểm hiệu thái úy bình chương qn
quốc trọng sự Việt Quốc cơng; cho thực ấp một vạn hộ. Cho em là Lý
Thường Hiến kế phong tước hầu"2. Trong Bài ký bia chùa Báo Ân núi An
Hoạch đã dẫn ở trên chép đầy đủ là: Thái úy Lý công (tức Thái úy Lý
Thường Kiệt) giúp vua thứ tư triều Lý (vua Lý Nhân Tông – TG), được
trao quyền cao, chức trọng và được "thực ấp một vạn hộ, thực phong bốn
nghìn hộ". "Đến năm Nhâm Tuất (1082), nhà vua đặc biệt ban thêm một
quận Thanh Hóa cho ơng làm phong ấp, châu mục đều ngưỡng mộ phong
thanh, mn dân đều mến đức chính"3.
Theo Văn bia chùa Hương Nghiêm núi Càn Ni, thuộc làng Phủ Lý,
phủ Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hố ( nay thuộc xã Thiệu Trung, huyện Thiệu
Hoá, tỉnh Thanh Hoá), dựng vào ngày mồng 4, tháng Chạp, năm Giáp
Thìn (ngày 10, tháng giêng, năm 1125) cho biết một vị đại thần là Thái
phó Lưu Khánh Đàm có cơng phị giúp dưới ba triều vua Lý Thái Tông,
Lý Thánh Tông và Lý Nhân Tông, ông được Lý Nhân Tông phong làm
Nhập nội nội thị sảnh đơ đơ tri kiểm hiệu thái phó kiêm cung dịch sứ đại
tướng quân, Kim tử quang lộc đại phu, thượng trụ quốc khai quốc công và
được ban 6.700 hộ thực ấp và 3.000 hộ thực phong4.
Thái úy Tô Hiến Thành được ban thực ấp ở Cổ Am (Vĩnh Bảo
– Hải Phịng). Theo văn bia Cổ Việt thơng Diên Phúc tự đã dẫn ở
trên, trong đoạn mở đầu, văn bia nói rõ tước quan và thực ấp được
1. Ngưỡng Sơn Linh Xứng tự bi minh (1126), Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, tập I,
École francaise d’E’xtrême – Orient – Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Paris – Hà
Nội, 1998, tr.163.
2. Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, sđd, tr. 244.
3. Bài ký bia chùa Báo Ân núi An Hoạch, trong: Thơ văn Lý – Trần, tập I, sđd, tr. 309.
4. Văn bia chùa Hương Nghiêm núi Càn Ni, trong Thơ văn Lý – Trần, tập I, NXB
Khoa học Xã hội, 1977, tr.426; Xem thêm Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt,
NXB Văn học, 1995, tr.319 – 320.
19
phong của Thái úy Đỗ Anh Vũ thực ấp một vạn hộ, thực phong bốn
ngàn hộ1.
Sử chép, thời vua Lý Thái Tôn đã từng xuống Chiếu cho Uy
minh hầu Lý Nhật Quang làm Tri châu Nghệ An và cho trấn thủ châu
ấy, có nghĩa là vừa cai quản vừa hưởng bổng lộc ở Nghệ An vào tháng
8 năm Giáp Thân (1044). Việc trấn trị này ta sẽ gặp lại ở thời Trần
dưới dạng phong cấp thái ấp cho các vương hầu. Những quan lại bậc
dưới tất nhiên không được ban cấp ruộng đất mà chỉ được cấp tiền và
lúa. Ví dụ, năm 1067, nhà Lý cấp bổng lộc cho Đô hộ phủ sĩ mỗi năm
50 quan tiền, 100 bó lúa và các thứ mắm muối, cấp cho ngục lại mỗi
người bổng mỗi năm 20 quan tiền và 100 bó lúa để giữ thanh liêm 2.
Ngơ Thì Sĩ nhận xét: “Triều nhà Lý các quan đều không được cấp
bổng lộc. Các quan trong kinh thì được triều đình ban thưởng cho. Các
quan ở ngồi thì được triều đình giao cho cai quản nhân dân trong một
địa phương được quyền tổ chức thuộc viên, bắt dân phải nộp thuế
ruộng đất, đầm ao và cày cấy chăn ni để lấy lợi. Cịn các quan coi
ngục thì có bổng lộc thường xun3.
Nhìn chung, với chế độ thực ấp, thực phong, việc cấp ruộng đất
thời Lý gắn liền với việc cấp cả những người nông dân trên ruộng đất
ấy. Chế độ thực ấp, thực phong xét về nội dung phong cấp cũng tương
tự chế độ thái ấp thời Trần, chỉ khác nhau về đối tượng được hưởng mà
thôi. Nhưng, khác với chế độ lộc điền thời Lê sơ là chỉ cấp ruộng đất
chứ không cấp hộ nông dân.
2. CHẾ ĐỘ RUỘNG ĐẤT THỜI TRẦN (1226 – 1400)
2.1. Ruộng công
2.1.1. Ruộng đất do nhà nước trực tiếp quản lý
Loại ruộng này thời Trần cũng giống thời Lý, gồm bốn loại: sơn
lăng, tịch điền, quốc khố điền và đồn điền.
1. Lê Thị Liên – Tống Trung Tín, Cổ Việt thông Diên Phúc tự bi minh – một tấm bia
thời Lý mới được phát hiện, Tạp chí Khảo cổ học, số 1/1991, tr.7 – 20. Chi tiết này
không được ghi trong tấm bia nói về Đỗ Anh Vũ ở đền Lác (thuộc tỉnh Hải
Dương) (Thơ văn Lý Trần, 1977, tr.463).
2. Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, sđd, tr. 233.
3. Phan Huy Chu, Lịch triều hiến chương loại chí, Tập II, NXB Khoa học Xã hội,
1992, tr.71.
20
– Ruộng sơn lăng
Về cơ bản ruộng sơn lăng thuộc ruộng cơng do dân sở tại cày cấy
và có nghĩa vụ nộp một ít hoa lợi để bảo vệ, chăm sóc phần lăng mộ.
Thời Trần, ruộng sơn lăng nằm ở nhiều nơi như Thái Đường, Long
Hưng (thuộc Hưng Hà, Thái Bình ngày nay), Tức Mặc (nay thuộc
thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định), An Sinh (thuộc huyện Đông
Triều, tỉnh Quảng Ninh). Diện tích ruộng sơn lăng chiếm tỷ lệ khơng
lớn nên khơng có tác động gì đáng kể tới sự phát triển của chế độ
ruộng đất nói chung.
– Ruộng tịch điền
Tịch điền là một loại ruộng cày lấy hoa lợi chi phí vào việc tế tự,
ngồi ra, cịn để chẩn cấp cho dân nghèo hoặc để tiếp khách. Đây là
loại ruộng mang đậm tính chất nghi lễ nơng nghiệp mong cho mùa
màng tốt tươi, nước mạnh dân giàu.
Các triều đại Lý, Trần thường sử dụng những khu ruộng công ở các
địa điểm trọng yếu đối với nông nghiệp làm ruộng tịch điền. Mặc dù sử
cũ không cung cấp cho chúng ta những số liệu cụ thể về ruộng tịch điền
nhưng có lẽ trên thực tế diện tịch ruộng tịch điền khơng lớn. Có thể hiểu
ruộng tịch điền là một loại ruộng riêng của nhà nước nên đôi khi các nhà
sử học xưa (tác giả của ĐVSKTT, Cương mục chẳng hạn) gọi nó là ruộng
cơng để phân biệt với ruộng cơng làng xã (gọi là ruộng quan).
Thời Trần, sử không chép nhiều sự kiện gặt ruộng tịch điền, chỉ
cho chúng ta biết duy nhất sự kiện gặt ruộng tịch điền vào năm 1316
“Mùa Đông, tháng 11 (1316), sai tể thần, tôn thất cùng các quan gặt
ruộng tịch điền”1. Cương mục cũng chép: “Bính thìn năm thứ 3 (1316),
tháng 11, mùa Đơng. Hạ lệnh cho vương hầu, trăm quan gặt lúa ruộng
tịch điền”2.
– Ruộng quốc khố (quốc khố điền)
Ruộng quốc khố, đây là thuật ngữ được cố GS. Trương Hữu
Quýnh sử dụng và chúng tôi sử dụng lại. Theo nghĩa đen, ruộng quốc
khố có nghĩa là ruộng kho cơng, rất tiếc sử cũ khơng có một thơng tin
nào về loại ruộng này. Ruộng kho công tức là lấy thu hoạch trên ruộng
đất thuộc sở hữu nhà nước trữ vào kho nhà nước. Ví dụ như ĐVSKTT
1. Đại Việt sử ký tồn thư, tập II, NXB Khoa học xã hội, 1971, tr.116.
2. Cương mục, Chính biên, tập I, NXB Giáo dục, 1998, tr.587.
21
chép: năm 1230, “Định tội đồ theo thứ bậc khác nhau. Tội vừa bị đồ là
cảo điền hồnh, bị thích vào mặt 6 chữ, cho ở Cảo xã (nay là xã Nhật
Cảo), cày ruộng công, mỗi người 3 mẫu, mỗi năm thu thóc 300
thăng”1. Rồi sau đó, ta lại biết thêm cịn có một số ruộng cơng nữa ở xã
Tương Một, khi Hồ Quy Ly cho dời những người bị giam ở Cảo xã
đến xã Tương Một, phủ Thanh Hóa vào năm 1390. Hồ Quý Ly tiếp tục
bổ sung ruộng đất vào nhà nước bằng việc sung công ruộng đất những
người phạm tội. Sử chép: tháng 12/1392, “Xuống chiếu rằng phàm dân
trốn việc phải phạt 4 quan tiền, thích vào gáy 4 chữ; đầu mục thì xử tội
chém, ruộng đất sung vào nhà nước”2.
– Đồn điền
Việc tổ chức khẩn hoang lập đồn điền bắt đầu có từ trước thời Lý
và tồn tại cho tới các triều đại sau.
Lực lượng lao động chính là tù binh (Chàm) và dân bị tù tội.
Thời Trần, đồn điền là loại hình ruộng đất được triều đình chú ý khai
thác. Năm 1344, nhà Trần cho đặt chức “đồn điền chánh phó sứ ở ty
khuyến nơng” chuyên lo việc mộ dân khai hoang, chứng tỏ nhà nước
quản lý đồn điền quy củ và chặt chẽ hơn thời Lý. Khẩn hoang lập đồn
điền thời Trần giống loại hình điền trang ở chỗ đều là ruộng khẩn
hoang nhưng đồn điền thuộc sở hữu nhà nước còn điền trang thuộc sở
hữu tư nhân.
2.1.2. Ruộng công làng xã3
Loại ruộng đất này mặc dù thuộc sở hữu nhà nước, nhưng vẫn do
làng xã quản lý. Nó cịn được gọi là “quan điền” hay “quan điền bản
xã”. Quan điền là loại ruộng mà thường được ghi trong các bi ký, minh
chuông thời Lý, Trần. Làng xã quản lý loại ruộng đất này như thế nào?
Có lẽ, quyền của làng xã chỉ giới hạn ở việc chia công điền và thu tô
thuế nộp cho nhà nước. Trong lịch sử các nhà nước quân chủ Việt
1. Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, sđd, tr.10.
2. Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, sđd, tr.212.
3. Xem thêm: Phan Đại Dỗn, Về tính chất sở hữu ruộng đất cơng làng xã, Tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử, số 4(199) – 1981, tr. 24 – 32; Vũ Huy Phúc, Thử phân loại
và xác định hình thái sở hữu ruộng đất thế kỷ X – XIV, trong Tìm hiểu xã hội Việt
Nam thời Lý – Trần, NXB Khoa học Xã hội, 1981, tr.66 – 121; Trương Hữu
Quýnh, Chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất thời Lý – Trần, trong Tìm hiểu xã
hội Việt Nam thời Lý – Trần, sđd, tr.67 – 122.
22
Nam, làng xã là những đơn vị bảo tồn vững chắc những sắc thái văn
hóa dân tộc. Cấp đơn vị cơ sở – làng xã không ngừng được nhà nước
tăng cường kiểm soát.
Nhà Trần đã nhiều lần tiến hành điều tra dân số nhằm thực hiện
nhiều mục đích, trong đó có việc nắm số đinh để phân chia ruộng đất
và thu tô. Dưới triều Trần, không phải nhân đinh nào cũng được chia
ruộng. Trong chính sách ban hành năm 1242 đã cho thấy rõ điều đó.
ĐVSKTT chép: “Nhân đinh có ruộng đất thì nộp tiền thóc, khơng có
ruộng đất thì miễn cả”1. Chính sách tơ ruộng vào buổi đầu thời Trần đã
được quy định nộp bằng hai loại: tiền và thóc. “ Nhân đinh có 1, 2 mẫu
ruộng thì nộp 1 quan tiền, có 3, 4 mẫu thì nộp 2 quan tiền, có từ 5 mẫu
trở lên thì nộp 3 quan tiền. Tơ ruộng mỗi mẫu nộp 100 thăng thóc”2.
Việc quản lý cấp xã thời Trần, lúc đầu nhà nước trung ương có
can thiệp vào bằng cách đặt chức quan cấp xã như Đại tư xã, Tiểu tư
xã để “ trơng coi các xã sách”. Trong q trình vận hành của làng xã,
với đặc tính tự trị cao nên các chức quan cấp xã đến cuối thời Trần,
vào năm 1397, nhà nước đã bãi bỏ. Điều đó chứng tỏ rằng làng xã thực
sự có một số quyền hạn, trong đó có quyền hạn nhất định đối với bộ
phận ruộng đất cơng làng xã.
Khơng có tài liệu nào cho chúng ta biết, nhà Trần kiểm sốt số
ruộng cơng như thế nào. Kiểu lập điền tịch thì rõ ràng là đã có (nhưng
tiếc là đến nay chưa có tài liệu cụ thể nào về vấn đề này). Ở một vài tư
liệu, chúng ta biết được cách kê khai ruộng đất thời Trần theo kiểu:
“Ranh giới có đủ Đơng Tây Nam Bắc như trong địa đồ và trong sổ
sách” như nội dung “Mộc bài” tìm thấy ở Thái Bình. Mộc bài được
phát hiện vào năm 1980 khi nhân dân trong vùng đào mương. Mộc bài
là cột mốc xác nhận ranh giới, diện tích, chủ nhân khu ruộng tại cánh
đồng Đa Bối nay thuộc làng Bái Thượng, xã Thụy Phúc, huyện Thái
Thụy nên còn gọi là Mộc bài Đa Bối. Mộc bài vốn là cột gỗ chơn đứng
dài gần 3 mét, đường kính xấp xỉ 20cm. Một mặt của cột gỗ được đẽo
phẳng khắc một văn bản chữ Hán có xen đơi chữ Nơm về mốc ruộng ở
cánh đồng Đa Bối chia cho một số quan lại thời Trần. Nội dung như
1. Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, sđd, tr.19.
2. Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, sđd, tr.19; Xem thêm: Nguyễn Khắc Đạm, Thêm
một số ý kiến về chế độ ruộng đất và tô thuế thời Lý – Trần, Tạp chí Nghiên cứu
Lịch sử, số 1 (172) – 1977, tr.79 – 90.
23
sau: “Ngày 25/11 năm Kỷ Tỵ (1289) niên hiệu Thiệu Long thứ 12 theo
quan phủ Long Hưng – Thiên Trường, An phủ sứ ty là Đặng Thời Kha,
thông phán là Đặng Tiến, Thủ phần là Đặng Lai vâng chỉ nhà vua đến
cánh đồng Đa Bối cửa Thù Nương có một thửa ruộng gần ruộng quan
tương đương 123 mẫu, nay thêm 11 sào nữa – Điều cho lũ đi xa về là
Nguyễn Nghiên, Nguyễn Siêu, Nguyễn Việt chia nhau cày cấy như cũ.
Sau này làm lâu năm sẽ cho khế mua. Ranh giới có đủ Đơng, Tây,
Nam, Bắc như trong địa đồ và sổ sách. Vì thế dựng mộc bài này"1.
Đến năm 1398, nhà nước mới “hạ lệnh cho dân tiêu đề họ tên ở
trên bờ ruộng”2 và đây cũng là lần duy nhất nhà Trần tiến hành đo đạc
ruộng đất.
Ruộng đất công làng xã do làng xã thực hiện phân chia cho nhân
đinh đến tuổi được hưởng và trên cơ sở đó mà chịu trách nhiệm nộp đủ
tơ cho nhà nước. Tuy nhiên, trên thực tế không phải làng nào cũng có
đủ ruộng cơng để chia cho nhân đinh. Vì thế, sử chép là nếu nhân đinh
nào khơng có ruộng thì được miễn cả. Số khơng có ruộng đất ấy trở
thành đội qn “khơng có sản nghiệp”. Họ được trưng dụng vào những
cơng việc khác của triều đình và làm gia nô cho các thế gia.
Chúng ta đều biết rằng, chính sách “Ngụ binh ư nơng” được thực
hiện từ triều Lý, tiếp tục kế thừa và phát huy tác dụng dưới triều Trần.
Chúng tơi thiết nghĩ, số binh lính khi hồ bình về làm ruộng thì họ làm
trên loại ruộng nào – Đồn điền hay ruộng đất công làng xã? Nếu nhân
đinh khơng có ruộng mà đi lính, thì khi hồ bình, họ lấy ruộng đất đâu
mà cày cấy? Chúng tôi cũng lưu ý đến một chi tiết sử cũ chép là có
loại “đời đời làm binh, khơng được làm quan, theo quy chế cũ”3. Số
người suốt đời phục vụ trong quân đội, thực hiện chính sách “ Ngụ
binh ư nơng” như thế nào? Có lẽ họ được điều đi khai hoang lập đồn
điền chăng?.
Bộ phận ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước ngày càng bị thu hẹp
theo thời gian, bởi nhà nước lấy ruộng công để:
1. Nội dung "Mộc bài Đa Bối" được trưng bày tại Bảo tàng Thái Bình, Thị xã Thái
Bình, tỉnh Thái Bình. Đa Bối đồng mộc bài và trong: Nguyễn Quang Ân – Nguyễn
Thanh (Chủ biên), Tài liệu địa chí Thái Bình, tập I, Trung tâm UNESCO Thơng
tin tư liệu lịch sử và văn hóa Việt Nam, 2006, tr.31 – 33.
2. Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, sđd, tr.223.
3. Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, sđd, tr.82.
24
– Bán ruộng công cho nhân dân mua làm của tư.
– Ban cấp cho các vương hầu quý tộc làm thái ấp.
– Ban thưởng cho những người có cơng làm thực ấp.
– Cúng vào chùa.
Ruộng đất công làng xã dùng để phân phong cho các vương hầu,
quý tộc, công chúa làm thái ấp, thực ấp (ấp thang mộc), dùng để ban
khen cho những người có cơng chiếm số lượng khơng nhỏ.
Thời Trần, sử chép đến một số sự kiện có thể coi là ruộng được
ban khen, mặc dù chưa trở thành chế độ nhưng nó đã diễn ra trong
thực tế. Ví dụ: – Năm 1318. Bấy giờ Thượng hồng muốn xuất gia, sai
cung nhân ăn chay. Cung nhân có người ngại, duy có nữ quan Nguyễn
Thị Diên chặt ngón tay đem dâng Thượng hoàng ngợi khen, ban cho
40 mẫu ruộng để làm lương ăn tu hành sau này"1. Năm 1320. Thái học
sinh là Đặng Tảo (Thái học sinh giống như Tiến sĩ) từng đứng hầu ở
giường ngự để viết di chiếu. Anh Tôn băng, vua thương là nghèo, ban
cho 20 mẫu ruộng, sai Trần Thế Hưng mang thiếp đến cho2. Năm
1299, Thượng hồng (cha của Anh Tơng) ra lệnh các Cung tần, thị nữ,
người nào khơng muốn về thì cấp ruông và nhà cho ở dưới chân núi3.
2.2. Ruộng tư
Ruộng tư hay sở hữu tư nhân về ruộng đất4, đã phát triển từ thời
Lý. Nhất là từ đầu thế kỷ XII trở đi, tình trạng tranh chấp ruộng đất
phát triển buộc nhà nước phải nhiều lần can thiệp. Đến thời Trần, tình
hình tư hữu ruộng đất càng phát triển cao hơn. Nhà nước tạo điều kiện
cho chế độ ruộng tư phát triển. Năm 1254, nhà Trần ban hành lệnh bán
ruộng công cho nhân dân mua làm của tư”5.
Những quy định về mua bán, thừa kế ruộng đất, vay mượn cũng
được nhà Trần quy định chặt chẽ. ĐVSKTT cho biết: “ Đinh Dậu, năm
thứ 6 (1237). Mùa xuân, tháng giêng, xuống chiếu rằng phàm làm
chúc thư, văn khế nếu là giấy tờ về ruộng đất, vay mượn, thì người làm
1. Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, NXB Khoa học Xã hội, 1971, tr.118.
2. Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, sđd, tr.123 – 124.
3. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập I, NXB Giáo dục, 1998, tr.555).
4. Xem thêm: Phạm Thị Tâm – Hà Văn Tấn, Vài nhận xét về ruộng đất tư hữu ở Việt
Nam thời Lý Trần, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 52/1963, tr. 20 – 30, 62.
5. Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, sđd, tr.26.
25
chứng in tay ở ba dòng trước, người bán in tay ở bốn dòng sau”1. Quy
định này đã tỏ rõ tính pháp luật của nó và do vậy, đã góp phần ổn định
tình hình xã hội lộn xộn vào cuối thời nhà Lý. Việc bảo vệ tài sản,
ruộng đất của dân nếu nhà nước có nhu cầu trưng dụng cũng được quy
định rõ ràng. Trong công cuộc đắp đê Đỉnh Nhĩ, một tuyến đê có quy
mơ lớn ở thời Trần, có chỗ đắp vào ruộng của dân. Nhà nước ra lệnh,
phải đo đạc và theo thời giá mà trả bằng tiền.
Có thể nói, nhà nước Trần nói riêng, các nhà nước quân chủ Việt
Nam nói chung đều chú trọng phát triển sản xuất nơng nghiệp. Chính
sách được các triều đại quân chủ Việt Nam quan tâm là đẩy mạnh khẩn
hoang, tăng diện tích canh tác, thúc đẩy kinh tế nơng nghiệp phát triển.
Và, ruộng đất khai khẩn này là nhân tố hợp thành chế độ ruộng tư thời
Trần, bởi nhà nước khơng đánh thuế ruộng khẩn hoang.
Ruộng tư có bốn hình thức sở hữu chính:
– Sở hữu điền trang dưới hình thức khẩn hoang của các vương
hầu, cơng chúa, phị mã, phi tần (thời Lý khơng có sở hữu điền trang).
Triều đình ban hành Chiếu cho phép khẩn hoang lập điền trang
vào tháng 10/1266: “Cho các vương hầu, công chúa, phị mã, cung tần
chiêu tập những người xiêu tán khơng có sản nghiệp làm nơ tì để khai
khẩn ruộng hoang lập làm điền trang. Vương hầu có trang thực bắt đầu
từ đấy”2. Nội dung Chiếu chỉ ra đối tượng được khai khẩn điền trang là
vương hầu, cơng chúa, phị mã, cung tần. Lực lượng lao động là dân
xiêu tán – nơ tì và điền trang là của tư nhân.
Tình hình điền trang. Kết quả nghiên cứu của tôi cho thấy, số
lượng điền trang được biết đến khá nhiều, phân bố khắp nơi trong cả
nước, nhưng chủ yếu vẫn dọc theo các dịng song ngã ba sơng hoặc
vùng ven biển. Quy mô của các điền trang rộng hay không là tùy thuộc
vào khả năng của chủ, có điền trang khá rộng như điền của bà Trần Thị
Ngọc Hào (vợ vua Trần Duệ Tơng) ở Hà Tĩnh có tới 3.965 mẫu, điền
trang của Tiến sĩ Hoàng Hối Khanh ở Lệ Thủy (Quảng Bình) rộng 500
mẫu, nhưng cũng có điền trang 100 mẫu, 150 mẫu... Cụ thể có 14 điền
trang sau:
1 – Điền trang An Lạc ấp của An Sinh vương Trần Liễu.
1. Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, sđd, tr.15.
2. Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, sđd, tr.38.
26