Tải bản đầy đủ (.pdf) (190 trang)

Lịch sử Việt Nam: Một số chuyên đề (Tập 2) - Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.45 MB, 190 trang )

LỊCH SỬ NGOẠI GIAO VIỆT NAM
(TỪ DỰNG NƯỚC ĐẾN NĂM 1945)

Bùi Thị Huệ

Từ thời dựng nước đến nay, mối quan hệ giữa nhân dân và nhà
nước Việt Nam với nhân dân và nhà nước các quốc gia, vùng lãnh thổ
khác trên thế giới phản ánh rõ sự hoà quyện, gắn bó chặt chẽ cả hai
hình thức ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân. Trong bối
cảnh toàn cầu hóa, ngoại giao đóng vai trò quan trọng thúc đẩy quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập toàn cầu, quyết định sự
ổn định và phát triển quốc gia. Tìm hiểu về lịch sử quan hệ của Việt
Nam với các nước khác từ khi có nhà nước đến 1945, để làm sáng tỏ
những cơ sở, diễn tiến, đặc điểm chủ yếu của quan hệ đối ngoại giữa
Việt Nam với các quốc gia trong cộng đồng quốc tế, từ đó có thể rút ra
bài học kinh nghiệm cho thực tiễn hoạt động ngoại giao Việt Nam
hiện đại.
I. KHÁI NIỆM VÀ ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH NỀN NGOẠI
GIAO VIỆT NAM
1. Khái niệm
Bang giao là mối quan hệ tác động qua lại giữa một phần lãnh
thổ quốc gia, một tổ chức chính trị xã hội hay ở phạm vi cao hơn là
giữa quốc gia này với quốc gia khác. Từ khi có xã hội loài người thì đã
có bang giao. Mối bang giao giữa các thành viên trong xã hội biểu
hiện ở tính cộng đồng. Bang giao phát triển liên tục trong lịch sử.
Khi nhà nước xuất hiện, có thiết chế, chính sách đối nội, đối ngoại cụ
thể, bang giao được nâng lên một trình độ mới, mang tính quốc tế.
Bang giao quốc tế (International Relation) – mối quan hệ giữa
các quốc gia, trên mọi lónh vực kinh tế, xã hội. Bang giao quốc tế phát
triển mạnh kể từ sau phát kiến địa lý ở châu Âu. Thành quả lớn mà
phát kiến địa lý mang lại chính là kéo xích lại mối quan hệ giữa các


 Tiến só, Trường Đại học Thủ Dầu Một.

212


dân tộc, làm cho bang giao quốc tế càng phát triển với tất cả các châu
lục trên thế giới.
Sách phong triều cống1 là cụm từ dùng biểu đạt mối quan hệ
giữa Việt Nam và Trung Quốc suốt thời kỳ phong kiến. Sách phong
và triều cống là công cụ ngoại giao đặc thù mà Trung Quốc sử dụng để
đặt quan hệ với các nước chư hầu. Sách phong là một lệ do các nước
lớn đặt ra để ép vua các nước chư hầu khi lên ngôi phải được thiên tử
(Trung Quốc) phong tước thì mới được xem là hợp pháp. Triều cống là
việc chư hầu phải nộp, dâng hiến vàng, bạc, châu báu, sản vật quý
hiếm cho thiên tử.
Sính là hình thức thăm viếng có kèm theo tặng vật khi giữa hai
nước có quan hệ thông hiếu, bang giao với nhau2. Sính thường được
tiến hành để giao hiếu, thông báo thắng trận hoặc tỏ lòng biết ơn của
chư hầu sau khi được sách phong.
Cống là nghóa vụ bắt buộc của chư hầu đối với thiên tử3. Cống
được quy định theo kỳ hạn nhất định như: cống hàng năm, 3 năm
hoặc 6 năm. Cống là biểu trưng cho sự lệ thuộc, phục tùng về chính
trị, đồng thời là một nghóa vụ kinh tế của chư hầu đối với thiên tử.
Thuật ngữ ngoại giao dùng để chỉ các mối quan hệ quốc tế được
tiến hành giữa một đại diện của quốc gia có độc lập chủ quyền với đại
diện của quốc gia, tổ chức quốc tế khác, nhằm giải quyết những vấn
đề kinh tế, xã hội, chính trị, quốc phòng của quốc gia.
Hoạt động ngoại giao ra đời từ khi có nhà nước, là hoạt động
chính thức của những người đứng đầu nhà nước, chính phủ, các cơ
quan đối ngoại nhằm thực hiện mục đích và nhiệm vụ của chính sách

đối ngoại, cũng như bảo vệ quyền lợi của quốc gia đối với bên ngoài.
Hoạt động ngoại giao là một cấp độ của các quan hệ với bên ngoài của
một nước, được cụ thể hóa qua chính sách đối ngoại. Hoạt động ngoại
giao là một bộ phận cấu thành của chính sách ngoại giao.
Chính sách đối ngoại là sự tiếp nối của chính sách đối nội, là sự
định hướng trong quan hệ ngoại giao của quốc gia với bên ngoài.
Chính sách đối ngoại tùy thuộc vào sức mạnh nội lực, mục tiêu và lợi
ích của mỗi quốc gia. Đối với các nước nhỏ, chính sách đối ngoại được
thiết lập nhằm tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của nước ngoài; củng
cố vị trí, tăng cường sức mạnh và nâng cao vị thế của quốc gia đó với
1, 2, 3. Lưu Văn Lợi (2000), Ngoại giao Đại Việt, NXB Công an Nhân dân, tr. 15.

213


bên ngoài, đồng thời phát huy được sức mạnh đấu tranh có hiệu quả
với các thế lực đối lập bên ngoài. Ngược lại, chính sách đối ngoại của
các nước lớn nhằm phô trương sức mạnh, gây ảnh hưởng chính trị,
kinh tế, quân sự với nước khác.
Khi chính sách đối ngoại được thực thi tức là đã diễn ra quan hệ
quốc tế. Các hoạt động ngoại giao trong lịch sử quan hệ quốc tế diễn
ra dưới nhiều hình thức khác nhau, song chủ yếu là ngoại giao nhà
nước và ngoại giao nhân dân.
Ngoại giao nhà nước là mối quan hệ giữa chính phủ của một
nước có chủ quyền với chính phủ của các nước có chủ quyền khác.
Ngoại giao nhà nước chỉ diễn ra và dựa trên các định chế chặt chẽ,
thông qua các quan chức làm việc trong các đại sứ quán hoặc cơ quan
đại diện ngoại giao của một nước ở nước ngoài là những người đại diện
cho chính phủ ở nước sở tại, nhằm tạo sự cân bằng và thế đối trọng,
giữ gìn thể diện quốc gia với bên ngoài. Do vậy mà đôi khi ngoại giao

nhà nước lại đi sau và hiệu quả chậm hơn ngoại giao nhân dân.
Ngoại giao nhân dân là hình thức ngoại giao được thực hiện
thông qua các hoạt động giao lưu văn hóa, thể thao, các cuộc gặp gỡ,
chuyến thăm hữu nghị, hội đàm trao đổi ý kiến, festival… Hình thức
ngoại giao nhân dân có từ rất sớm. Từ thời xa xưa, các binh pháp gia
đã sử dụng lối đánh không phải dùng sức mạnh để chiếm đoạt đất
đai, thành quách. Bài học mà binh pháp gia trong thời chiến nhấn
mạnh là muốn chắc thắng thì phải chiếm cho được lòng người. Hiện
nay, ngoại giao nhân dân bao gồm các hình thức dân vận, vận động
quần chúng nhân dân trong và ngoài nước tham gia vào công cuộc xây
dựng và bảo vệ đất nước. Đây là kiểu ngoại giao không bị hạn chế bởi
nghi thức, lại có lực lượng đông đảo, có ưu thế là lan toả nhanh và
ảnh hưởng sâu rộng, có thể đi đầu, đi trước trong việc thực hiện một
số vấn đề mà ngoại giao chính thức của nhà nước chưa có điều kiện
triển khai. Hoạt động ngoại giao nhân dân là sức mạnh vô hình của
một nước, hỗ trợ cho ngoại giao nhà nước để thực hiện chính sách đối
ngoại mà chính phủ nước đó đề ra. Ngoại giao nhân dân là lực lượng
quan trọng của mặt trận ngoại giao, là cơ sở, là “cánh tay nối dài” của
nhà nước trong mọi thời đại. Khái niệm “ngoại giao nhân dân”, “đối
ngoại nhân dân”, “ngoại giao công chúng”, “ngoại giao văn hóa” tuy
khác nhau ở cách diễn đạt nhưng bản chất nội hàm đều giống nhau,
đều dùng chỉ mối quan hệ giữa chính phủ của nước chủ thể với nhaân

214


dân/công dân của các nước khác, nhằm tranh thủ sự ủng hộ, nhân lên
sức mạnh “mềm” của quốc gia trong quan hệ đối ngoại.
2. Đất nước và dân tộc Việt Nam
Điều kiện địa lý tự nhiên: Việt Nam có vị trí địa lý nằm trên

bán đảo Đông Dương, ven biển Thái Bình Dương. Diện tích 331.212
km2, đất liền có diện tích 327.480 km2, nội thủy hơn 4200 km2 với
hơn 2800 hòn đảo, bãi đá ngầm lớn, nhỏ, gần và xa bờ, bao gồm cả
Trường Sa và Hoàng Sa. Chiều dài đường biên giới trên đất liền là
4.639 km. Việt Nam có chung đường biên giới với các nước
Campuchia (1228 km), Trung Quốc (1281 km), Lào (2130 km), bờ biển
của Việt Nam dài 3.260 km (không tính các đảo)1. Biên giới Việt Nam
ở phía Bắc tiếp giáp với Trung Quốc, phía Tây giáp với Lào và
Campuchia, phía Đông giáp biển Đông. Trên bản đồ, Việt Nam có
chiều dài từ vó độ 23023’ Bắc đến 8027’ Bắc, dài 1.650 km theo hướng
Bắc – Nam.
Việt Nam có mạng lưới sông ngòi dày đặc. Cả nước có tới 2.360
con sông, với tổng chiều dài hơn 10 km. Sông ngòi có dòng chảy chủ
yếu theo hướng tây bắc – đông nam và vòng cung, cách khoảng 20 km
bờ biển lại có một cửa sông. Sông Hồng, sông Mê Công tạo nên hai
vùng đồng bằng rộng lớn và phì nhiêu. Cấu tạo địa hình như vậy đã
tạo nên các cảng biển lớn như Hải Phòng, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Cam
Ranh, Vũng Tàu, Sài Gòn… là nơi cập bến lý tưởng, trạm trung
chuyển tốt cho tàu thuyền của tất cả các nước muốn đến các nước khác
trong khu vực Đông Nam Á.
Việt Nam có vị trí địa lý nằm giữa ngã ba đường nơi giao nhau
của các trục giao thông biển quốc tế là châu Á và Thái Bình Dương,
Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo, nơi giao điểm của các
tuyến đường, các luồng hàng từ Bắc tới Nam và từ Đông sang Tây.
Do có vị trí thuận lợi, nên từ rất sớm Việt Nam đã giao lưu với các
nền văn minh lớn như Ấn Độ, Trung Quốc. Quá trình giao lưu, tiếp
xúc với nhiều nền văn hóa khác nhau đã định hình bản lónh văn
hóa của người Việt Nam là: mềm mỏng, cởi mở và luôn coi trọng hòa
bình. Đây là điều kiện thuận lợi để hình thành chính sách ngoại
giao hòa hiếu, linh hoạt và mềm mỏng của dân tộc.

Về lịch sử – xã hội, nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước
là cái nôi của nền văn hoá Việt Nam và khu vực Đông Nam Á. Cộng
1. />
215


đồng các quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á bao gồm các quốc gia
như: Singapore, Philippines, Malaysia, Indonesia, Miến Điện, Thái
Lan, Myanmar, Việt Nam, Lào, Campuchia, Brunei. Ngay từ đầu công
nguyên, hình thức cư trú phổ biến của cư dân Đông Nam Á đã là xen
kẽ kiểu cài răng lược, tạo nên sự gần gũi, giao thoa văn hóa rất sớm
giữa các quốc gia dân tộc, từ đó tạo nên bản lónh văn hóa cởi mở, hiếu
khách, ít kỳ thị. Bởi vậy, giữa Việt Nam với các nước Đông Nam Á dễ
dàng có chung tiếng nói vì văn hóa, cách sống và nguyện vọng giống
nhau.
Trước khi độc lập, hầu hết các thành viên đều chịu ách thống trị
của chủ nghóa thực dân phương Tây. Do vậy, dấu ấn của nền kinh tế
phụ thuộc hằn sâu vào nền kinh tế của tất cả các nước, tạo thành lực
cản lớn đối với sự phát triển, ảnh hưởng tới khả năng phát huy nội
lực của từng quốc gia. Để phát triển, các quốc gia Đông Nam Á hiện
tại đều có chung nguyện vọng ổn định tình hình quốc gia và khu vực.
Các nước đều mong muốn tạo dựng mối liên kết trong phát triển kinh
tế, hình thành một thị trường của khu vực, một khối hệ thống quốc
gia để chống lại những sức ép từ bên ngoài và nâng cao vị thế của mỗi
nước trên trường quốc tế.
Quan hệ quốc tế và khu vực luôn biến động phức tạp. Cho nên,
thiết lập mối quan hệ ngoại giao với các quốc gia, vùng lãnh thổ khác
nhau trên thế giới là nhu cầu của mỗi quốc gia. Ngoại giao Việt Nam
hình thành từ thời dựng nước và không ngừng hoàn chỉnh để phát
triển hoà nhập với thế giới. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập, toàn

cầu hoá, sự liên kết giữa các nước trong cùng một khu vực địa – kinh
tế – chính trị – văn hoá càng có ý nghóa quan trọng và mang đến
những giá trị lớn, phục vụ cho việc gìn giữ bản sắc văn hoá, an ninh
quốc gia, khu vực và sự thịnh vượng của mỗi nước thành viên. Thực
tiễn đã thúc đẩy nền ngoại giao Việt Nam phải phát triển hòa theo
xu thế chung của thời đại.
II. VIỆT NAM LÀ QUỐC GIA CÓ NỀN BANG GIAO SỚM (TỪ
THẾ KỶ VII TCN ĐẾN NĂM 938)
Những thế kỷ đầu công nguyên, hàng loạt các quốc gia dân
tộc lần lượt hình thành ở Đông Nam Á. Văn Lang – Âu Lạc là một
trong các nước ra đời sớm nhất trong khu vực. Cùng với quá trình
xác lập, củng cố quốc gia, giữa các nước đã có sự trao đổi kinh tế,
giao lưu văn hóa.
216


1. Bang giao Văn Lang – Âu Lạc với Trung Quốc
Thời kỳ Văn Lang – Âu Lạc, Trung Quốc đã là quốc gia mạnh, có
nền văn minh phát triển, ảnh hưởng rộng trên thế giới. Năm 221
TCN, nhà Tần thành lập, Trung Quốc chuyển sang chế độ phong kiến.
Từ nhà Tần, Hán, Đường, Trung Quốc đã có tư tưởng bá chủ thiên hạ,
tự xem mình là trung tâm vũ trụ, các nước nhỏ xung quanh đều là man
di, phải phục tùng, là phên giậu của Trung Quốc. Do vậy, quan hệ giữa
Trung Quốc với các nước khác ở xung quanh là quan hệ của phiên thần
với quân vương. Văn Lang – Âu Lạc không là ngoại lệ.
Thời kỳ Văn Lang – Âu Lạc, do nhu cầu giao lưu, trao đổi kinh
tế mà cư dân Văn Lang – Âu Lạc và các nước khác đã có quan hệ
qua lại với nhau. Thời kỳ này, bang giao giữa Văn Lang – Âu Lạc
với bên ngoài bị giới hạn bởi yếu tố địa lý và phương tiện giao
thông. Lúc bấy giờ, Văn Lang – Âu Lạc chủ yếu chỉ quan hệ với

Trung Quốc, Champa, Chân Lạp, Phù Nam thông qua việc trao đổi,
giao lưu kinh tế của cư dân các nước thuộc khu vực Đông Nam Á.
Các di vật khảo cổ ở thời kỳ văn hóa Đông Sơn đã khẳng định sự
giao lưu văn hóa giữa Văn Lang – Âu Lạc với Trung Quốc và các
nước khác trong khu vực Đông Nam Á. Sự kiện Triệu Đà thôn tính
nước Âu Lạc (179 TCN) đánh dấu mối liên hệ địa – chính trị đầu
tiên giữa miền châu thổ sông Hồng với miền Trung nguyên Trung
Quốc. Mối quan hệ đó được thiết lập thông qua quan hệ Hán – Nam
Việt, kéo dài đến thời điểm Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán
trên sông Bạch Đằng.
Tư tưởng bành trướng của Trung Quốc bắt đầu hình thành từ
thời Tần, Hán. Trung Quốc tự cho mình là Thiên tử (con trời) thay
trời trị dân, làm chủ thiên hạ. Tư tưởng nước lớn từ đấy trở thành cốt
lõi tư tưởng của chủ nghóa bành trướng, bá quyền Trung Quốc. Trên
các lónh vực khác nhau, các triều đại phương Bắc đều có thủ đoạn,
biện pháp thâm độc để lôi kéo, kích động các nước khác trong khu
vực, nhằm chia rẽ, cô lập, đồng hóa văn hóa, xóa bỏ truyền thống dân
tộc của cư dân Văn Lang – Âu Lạc.
Trong thời kỳ bị phong kiến phương Bắc đô hộ, Khúc Thừa Dụ,
Khúc Hạo, Dương Đình Nghệ, đã xây dựng được chính quyền độc lập.
Những vị đứng đầu chính quyền khi ấy sớm nhận thức được tham
vọng bá chủ của nước lớn; ý thức đúng vị thế của mình trong bối cảnh
đương thời nên đã chọn giải pháp khiêm nhường, để cho các triều
217


đình phương Bắc được thỏa mãn lòng tự tôn là nước lớn. Khúc Thừa
Dụ, Khúc Hạo, Dương Đình Nghệ sau khi nắm quyền đều chỉ tự nhận
là tiết độ sứ, mang danh hiệu phục tùng các triều đại phong kiến của
Trung Quốc. Nhận là tiết độ sứ, thế nhưng Khúc Hạo lại tự ý sắp xếp

phân định các đơn vị hành chính, chia nước thành từng xứ, lộ, phủ,
châu, xã; đặt các chức quan chánh lệnh trưởng và phó lệnh trưởng,
chia đều thuế ruộng, làm nhẹ việc quân, lập sổ hộ tịch ghi rõ cả họ
tên quận, xã và người đứng đầu, còn tự đặt cả chính sách thuế mới.
Như vậy, chính quyền của Khúc Hạo thực sự đã là chính quyền độc
lập hoàn toàn với triều đình phương Bắc. Hành động ngoại giao khôn
khéo của Khúc Thừa Dụ đã ngăn chặn nhà Đường tái xâm lược, tạo
điều kiện cho họ Khúc giữ vững chủ quyền dân tộc khoảng nửa thế kỷ.
Nhân dân được hưởng cuộc sống yên bình. Ngô Quyền xưng vương,
cũng đặt ra các chức quan văn, võ, đặt ra nghi lễ, phẩm phục,… việc
làm như vậy đã cho thấy được tầm cỡ của bậc đế vương.
Thái độ chủ động nhún nhường trong quan hệ với nước lớn của
các vị thủ lónh Giao Châu là những bước tiến mở đầu cho tư duy đối
ngoại chủ động, linh hoạt mà không rời xa mục tiêu chính yếu là gìn
giữ độc lập dân tộc.
2. Bang giao với các nước khu vực Đông Nam Á
Thời kỳ phong kiến phương Bắc cai trị, Âu Lạc là đơn vị hành
chính của Trung Quốc. Âu Lạc bị chia thành 3 quận là Giao Chỉ (Bắc
Bộ), Cửu Chân (Thanh Hoá), Nhật Nam (Nghệ Tónh), vì thế quan hệ
với tất cả các quốc gia khác ở phương diện nhà nước không có điều
kiện để thực hiện. Ngược lại, hình thức giao lưu nhân dân phát triển
mạnh. Qua các cuộc khởi nghóa, thủ lónh của phong trào đã chủ động
quan hệ với nhân dân các nước trong khu vực để hình thành các liên
minh quân sự chống lại sự cai trị của Trung Quốc. Các năm 100, 137,
những bộ tộc người Việt, người Champa và nhiều tộc người khác ở
huyện Tượng Lâm, quận Nhật Nam đã liên kết với quân khởi nghóa
chống lại sự cai trị của nhà Hán. Mai Thúc Loan trong khởi nghóa
chống lại nhà Đường đã tập hợp được nhân dân 32 châu trong nước,
liên kết với Lâm Ấp, Chân Lạp (Campuchia) và nước Kim Lân
(Malaysia). Phùng Hưng cũng nhờ sự giúp sức của người Mã Lai,

người Java (Inđonésia) mà thành công.
Đối với các nước ở phía nam, Trung Quốc dùng kế sách ly gián,
lôi kéo hoặc xúi giục đánh phá lẫn nhau để họ lợi dụng hoặc dễ dàng
218


khống chế thôn tính. Lâm Ấp là nước bị kéo vào ý đồ trên. Lâm Ấp từ
thế kỷ III đến thế kỷ VII liên tục gây rối lãnh thổ Âu Lạc. Giữa Lâm
Ấp và Phù Nam đã có lúc là liên minh của nhau để tấn công Giao
Châu nhưng thất bại. Lâm Ấp thường xuyên dùng chính sách hai mặt
đối với nước ta. Một mặt thuần phục Trung Quốc để mong được bênh
vực quyền lợi cho vấn đề lãnh thổ1, nhưng vẫn đánh cướp Giao Châu
khi có cơ hội. Mặt khác, khi yếu thế, Lâm Ấp (Hoàn Vương, Champa)
sẽ giả vờ hòa hoãn, triều cống để mong ta nguôi giận không tính đến
việc đánh trả.
Mười thế kỷ đầu công nguyên là thời kỳ lập quốc của các quốc
gia vùng Đông Nam Á. Xuất phát từ những yếu tố cơ sở là cùng không
gian địa lý, chủng tộc, ngôn ngữ mà quan hệ giữa các quốc gia dân tộc
được thiết lập sớm và ngày càng gắn bó chặt chẽ. Thời kỳ văn hóa
Đông Sơn, Đông Nam Á là một trong số nhiều trung tâm văn minh
của thế giới cổ đại. Quan hệ giữa các quốc gia trong khu vực chủ yếu
được phản ánh thông qua nguồn tư liệu khảo cổ. Hiện vật là công cụ
bằng đá, gốm, đồng… được phát hiện khắp nơi, chứng tỏ rằng cư dân
sinh sống trong khu vực địa lý này đã có sự giao lưu, học hỏi lẫn nhau
từ rất sớm.
Giữa Giao Chỉ/Giao Châu với các quốc gia Đông Nam Á quan hệ
chủ yếu thông qua con đường buôn bán hoặc truyền giáo. Thời kỳ này,
quan hệ buôn bán giữa các quốc gia vùng Địa Trung Hải, Trung Cận
Đông, Ấn Độ đã tác động đến sự giao lưu kinh tế của khu vực với thế
giới. Sự xuất hiện của các trung tâm như Óc Eo, Thị Nại ở Việt Nam

là minh chứng rõ rệt cho sự giao lưu kinh tế, văn hóa với thế giới nói
chung, khu vực Đông Nam Á nói riêng.
Văn hóa Phật giáo của Ấn Độ gián tiếp xâm nhập vào Giao Chỉ,
thông qua con đường truyền bá đạo Phật của các tu sỹ người Ấn trong
giai đoạn Bắc thuộc. Sự tương đồng về tư tưởng của người Việt với
triết lý Phật giáo tạo cơ sở nền tảng thuận lợi cho sự thâm nhập và
phát triển của văn hóa Ấn Độ ở Âu Lạc nói riêng, khu vực Đông Nam
Á nói chung. Trong khoảng thời gian đó, giữa các nước đôi khi cũng
1. Các năm 270, 280 Lâm Ấp đánh phá quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Các năm
284, 372, 377, Lâm Ấp xin Trung Quốc thừa nhận Hoành Sơn là biên giới phía
bắc của Lâm Ấp. Nửa sau thế kỷ IV, Lâm Ấp lấn ra vùng đồng bằng sông Mã
(Thanh Hóa), âm mưu tấn công ra đồng bằng sông Hồng. Đầu thế kỷ V, Lâm Ấp
liên minh với Phù Nam đánh Giao Châu nhưng thất bại.

219


diễn ra những cuộc xung đột vũ trang do tranh giành quyền lợi giữa
các quốc gia.
Tóm lại, từ thời dựng nước đến hết thời kỳ Bắc thuộc (179 TCN
– 938), quan hệ giữa Văn Lang – Âu Lạc với Trung Quốc là quan hệ
giữa nước lớn với nước bé yếu thế hơn. Trung Quốc xem Âu Lạc là nội
thuộc, là một phần của lãnh thổ Trung Quốc. Chuyển sang thời kỳ
đấu tranh giành độc lập dân tộc, các thủ lónh của Giao Chỉ/ Giao
Châu đã chủ động xây dựng mối quan hệ thân thiện với nhân dân các
nước láng giềng, đã trở thành liên minh quân sự của nhau, phục vụ
cho mục đích chống ngoại xâm, giành lại độc lập quốc gia, dân tộc.
Nhân dân Giao Chỉ/ Giao Châu phải đương đầu chống lại sự xâm lược
của Trung Quốc từ rất sớm, thời gian bị cai trị lại kéo dài, vì thế mà
không thể có quan hệ cấp nhà nước với quốc gia nào khác.

Sự kết hợp đấu tranh giữa nhân dân Giao Chỉ/ Giao Châu với
nhân dân các quốc gia láng giềng chủ yếu là trong lónh vực kinh tế,
nhằm làm giảm áp lực, nới rộng chính sách sưu thuế và bóc lột của
chính quyền phương Bắc. Tính chất bang giao thời kỳ này là bền chí,
đấu tranh chống lại chính sách đồng hóa dân tộc và văn hóa của
Trung Quốc.
Mười thế kỷ đầu công nguyên ở khu vực Đông Nam Á, các quốc
gia đa số còn phân tán chưa thống nhất, vị thế quốc gia chưa được
khẳng định. Trong vùng Đông Nam Á, chỉ có nước Âu Lạc, Champa,
Phù Nam và Chân Lạp là tương đối phát triển mạnh. Giữa các nước
Đông Nam Á đã diễn ra sự giao lưu, tiếp biến giữa các nền văn hóa từ
trước đó. Văn minh Trung Quốc, Ấn Độ đã xâm nhập vào khu vực
này. Nhưng dấu ấn văn minh Ấn Độ đậm nét hơn cả. Vượt qua biên
giới địa lý, rào cản cai trị của triều đình phong kiến phương Bắc,
nhân dân Đông Nam Á vẫn tìm thấy ở nhau những điểm tương đồng,
đoàn kết cùng nhau chống xâm lược. Thời kỳ này bang giao nhân dân
chiếm ưu thế. Nó diễn ra mạnh mẽ trên mọi lónh vực của đời sống.
Đây là thời kỳ đấu tranh để gìn giữ phong tục, tập quán và bản sắc
của cư dân Văn Lang – Âu Lạc.
Trong thời kỳ bị cai trị bởi các triều đình phong kiến phương
Bắc, ý chí độc lập tự cường của dân tộc không bị cường quyền ngoại
bang dập tắt. Những thời gian độc lập ngắn giành được sau các cuộc
khởi nghóa Hai Bà Trưng (năm 40 – 43), của nhân dân Hợp Phố dưới
sự lãnh đạo của Lương Long (178 – 181), khởi nghóa Bà Triệu (248),
Lý Bí (542), Mai Thúc Loan (722); việc thiết lập các chính quyền cai
220


trị riêng của Khúc Thừa Dụ (905), Khúc Hạo (907) và Ngô Quyền
(938) là những thắng lợi chứng tỏ rõ ý chí độc lập, tự cường của dân

tộc. Sự liên minh giữa các thủ lónh Giao Chỉ/ Giao Châu với thủ lónh,
nhân dân các châu láng giềng có thể xem là bước sơ khởi của nền
ngoại giao Việt Nam. Những thắng lợi về quân sự trong thời kỳ đấu
tranh chống ách thống trị của phương Bắc là tiền đề cơ sở cho việc
xác lập nền ngoại giao “độc lập thực sự, thần thuộc giả vờ” của các
triều đại phong kiến Đại Việt sau đó.
III. NGOẠI GIAO ĐẠI VIỆT THỜI KỲ NHÀ NƯỚC PHONG
KIẾN ĐỘC LẬP TỰ CHỦ (938 – 1884)
Khoảng thời gian dài gần mười thế kỷ từ năm 938 đến 1884,
nền độc lập của Đại Việt chỉ bị gián đoạn một thời gian ngắn chịu sự
cai trị của triều Minh (1407 – 1427). Vì vậy có thể gọi đây là thời kỳ
quốc gia phong kiến độc lập.
Trong thời kỳ xây dựng quốc gia phong kiến dân tộc, ý thức dân
tộc không ngừng được củng cố, truyền thống văn hóa dân tộc bị vùi
lấp cả ngàn năm được phục hưng, tạo nên thế và lực cho Đại Việt chủ
động mở rộng quan hệ giao hiếu với lân bang. Nhà nước phong kiến
độc lập ra đời, quan hệ giữa Đại Việt với các nước khác được mở rộng.
Tuy nhiên, hoạt động ngoại giao thời Đại Việt chưa có tính chuyên
nghiệp, mà thường theo chủ ý của người đứng đầu nhà nước là vua.
Vua của mỗi triều đại, ở những hoàn cảnh riêng đã có sự kết hợp uyển
chuyển linh hoạt giữa hai hình thức ngoại giao nhà nước và ngoại
giao nhân dân để chống giặc, trấn an tâm lý bạo ngược của kẻ thù
nhằm bảo vệ sự bình yên cho dân tộc.
1. Với Trung Quốc
Ngô Quyền lên ngôi (939), hủy bỏ chức tiết độ sứ, xưng vương để
tỏ rõ thái độ không lệ thuộc vào vương quyền phương Bắc. Mọi lệ
triều cống với Nam Hán trước đó đều bỏ không thực hiện. Tuy không
qua lại với chính quyền Nam Hán nhưng Ngô Quyền lại cho phép
người dân Hán chạy loạn, các tướng sỹ thất sủng sang lánh nạn ở
Giao Châu. Ông còn sử dụng người Hán làm quan tại các địa phương.

Dưới triều Đinh, quan hệ giữa Đại Cồ Việt với triều Tống chỉ giữ
ở mức lệ thường. Vai trò thiên tử của nhà Tống không được tôn sùng
như trước, song có lẽ lúc bấy giờ do có loạn Ngũ đại Thập quốc nên
vua Tống cũng không tỏ thái độ gì. Khi nhà Tống dẹp xong nội loạn
221


(979), thời điểm đó cũng trùng lặp với sự kiện vua Đinh và con trai cả
bị hãm hại. Con trai thứ còn nhỏ, không đủ sức trị nước. Được tin ấy
nhà Tống vừa gửi thư đe doạ vừa gấp rút tập trung lực lượng kéo quân
xâm lược Đại Cồ Việt. Lê Hoàn lãnh đạo quân dân cả nước đánh tan
quân Tống (981). Sau trận chiến năm 981, triều Tống không dám
xâm lược Đại Cồ Việt nữa, nền độc lập của dân tộc duy trì gần cả 100
năm. Lê Hoàn đã tạo được uy thế với nhà Tống. Dẫu sao, ông vẫn
thực hiện chính ách ngoại giao mềm dẻo nhằm giữ mối giao hoà với
nhà Tống1, song tỏ rõ thái độ cương quyết, không để bị khinh thường.
Thái độ hống hách, ỷ là nước lớn của nhà Tống do vậy mà cũng hạn
chế bớt.
Từ năm 1010, nhà Lý nắm quyền cai trị đất nước. Lý Thái Tổ
đã chủ động cho sứ sang nhà Tống đặt quan hệ giao hảo2. Vua Tống
phong cho vua Lý làm Giao Chỉ quận vương lónh Tónh Hải quân Tiết
độ sứ3. Đến năm 1016, vua Lý được phong là Nam Bình vương4. Nhà
Tống không thật tâm giao hiếu với Đại Việt. Vua Tống làm ngơ cho
quân đóng ở biên giới thường xuyên lấn đất, cướp bóc của và người
thuộc lãnh thổ Đại Việt. Quân Tống thường quấy nhiễu, khích động
gầy dựng mầm phản loạn, phá hoại Đại Việt. Dù vậy, các vua triều Lý
vẫn kiên trì chính sách ngoại giao mềm dẻo, chủ động. Thấy nhà
Tống ngày càng hống hách, bộc lộ rõ dã tâm xâm chiếm Đại Việt,
năm 1075, vua Lý sai Lý Thường Kiệt và Tông Đản đem hơn 10 vạn
quân đi đánh5. Lý Thường Kiệt quyết định dùng kế khống chế địch:

đánh bằng quân sự trước rồi mới hòa đàm để ngăn chặn âm mưu xâm
lược của địch. Sau cuộc tập kích chiến lược sang đất Quảng Đông và
Quảng Tây của nhà Tống, Lý Thường Kiệt đã cho đắp bờ sông Cầu
thành bức thành bằng đất cao và dài khoảng 30 km, chạy dài từ bến
đò sông Cầu đến chân núi Nham Biền để chặn giặc từ hướng sông
Cầu tiến về Thăng Long. Trên sông Cầu (1077), quân đội nhà Lý
bằng chiến thuật phòng bị vững chắc, kết hợp công phá có trọng
1 Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sỹ Liên (1697) Đại Việt sử ký toàn thư, Kỷ
nhà Lý, bản kỷ quyển II, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam dịch 1985 – 1992, NXB
Khoa học Xã hội, 1993, tr. 86.
2 Lê Văn Hưu…, Đại Việt sử ký toàn thư, Kỷ nhà Lý, bản kỷ quyển II, sđd, tr. 80.
3, 2, 3. Lê Văn Hưu, Đại Việt sử ký toàn thư, Kỷ nhà Lý, bản kỷ quyển II, sđd, tr.
82, 84, 110.
4 Lê Văn Hưu…, Đại Việt sử ký toàn thư, Kỷ nhà Lý, bản kỷ quyển II, sđd, tr. 84.
5. Lê Văn Hưu…, Đại Việt sử ký toàn thư, Kỷ nhà Lý, bản kỷ quyển III, sđd, tr. 110.

222


điểm, đồng thời sử dụng thuật đánh vào nhân tâm để kết thúc cuộc
chiến. Bài thơ do Lý Thường Kiệt cho người giả làm thần nhân đọc
lúc nửa đêm tại đền thờ Trương Hát ở bờ nam sông Cầu có giá trị như
bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc. Bài thơ khích lệ lòng
tướng sỹ ta, làm nhụt chí quân thù, tăng thêm hào khí cho quân ta
quyết chiến. Cuộc chiến kéo dài là điều không ổn cho cả hai phía.
Quân Tống xa nhà, không chịu nổi lam sơn chướng khí, lâm vào thế
tiến thoái lưỡng nan. Quân của Lý Thường Kiệt cầm cự mãi cũng
không phải là ưu thế. Lý Thường Kiệt nắm chắc tâm lý của tướng só
nhà Tống là không chịu nổi việc mất thể diện của “Thiên triều” nên
đã chủ động đề nghị “giảng hòa”, mở đường cho việc nối lại mối “giao

hảo” giữa hai nước sau khi kết thúc chiến tranh, hạn chế việc trả thù
sau khi thua trận của nhà Tống. Lý Thường Kiệt lệnh cho thả tàn
quân địch chạy về nước. Tuy Đại Việt phải hạ mình nhún nhường,
phải tự mình xin chịu tội và chịu cống, phải chấp nhận đất những nơi
quân Tống đã chiếm là của đất Tống, đổi lại, động thái đó đã chấm
dứt được can qua giữa hai nước, Tống rút lui, Đại Việt được hòa bình,
không để chiến tranh kéo dài gây khổ ải cho người dân. Chủ trương
tháo gỡ chiến tranh bằng cách “dùng biện sỹ bàn hòa” đã đạt được
mục đích: giải quyết đúng thời điểm và thỏa đáng lợi ích cho cả hai
bên. Lý Thường Kiệt thu hồi lại những vùng đất biên giới bị quân
Tống chiếm giữ lúc trước, gồm Châu Môn, Quang Lang, Tô Mậu, Tư
Lang. Duy nhất có châu Quảng Nguyên (Cao Bằng) là nơi giàu tài
nguyên nên nhà Tống không chịu trả, lại đổi tên thành Thuận Châu
và sáp nhập vào Ung Châu.
Thời nhà Lý, các vua đầu triều đại thực hiện chính sách cai trị
đất nước theo triết lý nhà Phật, chủ trương thân dân, lấy dân làm gốc
để củng cố đất nước. Việc củng cố nội trị, phát triển kinh tế, văn hóa
đã nâng cao uy thế của triều Lý đối với nhà Tống. Khi tình hình
trong nước ổn định, lòng dân chỉ hướng về triều đình thì triều Lý có
đủ bản lónh đặt ra các biện pháp sắc bén để giải quyết tiếp vấn đề đất
đai, tù binh và dân phu của nhà Tống bị bắt. Năm 1078, 1079, vua Lý
chủ động gửi sứ bộ sang đặt vấn đề nối lại quan hệ với nhà Tống. Hai
nước đã có các cuộc trao đổi tù binh, bàn thảo về những vùng đất mà
nhà Tống lấy của nhà Lý trước kia1. Năm 1081, vua Lý đã gửi một

1. Lưu Văn Lợi (2000), Ngoại giao Đại Việt, sđd, tr. 60. Cuối năm 1077, Đại Việt
đã trao trả cho Tống 221 người bị bắt. Đổi lại, Tống trả lại Đại Việt châu Quảng

223



phái bộ gồm 156 người sang Tống nộp cống và xin kinh Đại Tạng1.
Phái đoàn nhà Lý được vua Tống đặc cách tiếp, đồng thời cho phép từ
đó trở đi chiếu của vua Tống gửi sang Đại Việt thì chỉ cần giao cho
người đại diện nhận ở biên giới. Nhà Lý lại tiếp tục dùng mưu đòi đất
đã mất. Năm 1082 nhằm lấy lại châu Vật Ác và Vật Dương do họ
Nùng ở biên giới cai quản cắt dâng cho Tống, vua Lý cho phái bộ
mang biểu, thêm 50 sừng tê, 50 ngà voi. Nhà Tống tỏ vẻ không vui
nhưng vẫn trả cho nhà Lý tám động2 đất hoang, đồng thời còn hẹn
bàn với vua Lý ở Vónh Bình về vấn đề biên giới3. Tháng 6 năm 1084,
thị lang Lê Văn Thịnh đến trại Vónh Bình bàn với nhà Tống về việc
biên giới. Nhà Tống đồng ý trả cho nhà Lý 6 huyện và 3 động4. Tuy
vậy, đến năm 1089, nhà Tống lại xâm phạm vào châu Thạch Tê5
(huyện Hoà An, Nguyên Bình tỉnh Cao Bằng). Thái độ của nhà Tống
đối với Đại Việt qua những lần trao đổi tù binh, thương lượng đòi đất
là sự chấp nhận có qua có lại. Như thế, vị thế của Đại Việt dưới thời
Lý được xem là đối trọng với nhà Tống. Những chiến công bằng quân
sự của quân dân nhà Lý đủ sức để khống chế tham vọng xâm lược của
nhà Tống suốt hai trăm năm sau.
Nhà Lý trong suốt thời gian cai trị đất nước đã giữ nguyên tắc
độc lập tự chủ và luôn đặt nguyên tắc đó lên hàng đầu của mọi đối
sách với nước ngoài. Nhờ thế mà nhà Lý đã thắng lợi trong việc phá
Tống, bình Chiêm và đánh bại quân Chân Lạp. Nhà Lý đã kết hợp
tốt quân sự với ngoại giao để đuổi giặc, đòi đất, trân trọng từng tấc
đất của quốc gia6. Cuộc kháng chiến chống Tống là cuộc chiến tranh
toàn diện trên các mặt quân sự, ngoại giao, chính trị và địch vận. Lý

Nguyên. Trong chiếu thư, vua Tống chỉ nói trả Quảng Nguyên, nhưng trên thực tế
Tống đã trả hết cho Đại Việt các châu Tư Lang, Môn, Tô Mậu.
1. Lưu Văn Lợi (2000), Ngoại giao Đại Việt, sđd, tr. 61.

2. Sáu huyện là: Bảo Lạc, Luyện Miêu, Đinh, Phóng, Cân và hai động Túc, Tang.
Tám động là: Canh Liêm, Khâu Cự, Khiếu Nhạc, Thông Thoáng, Canh Nham,
Đốn Lị, Đa Nhân, Cân Nam. Xem thêm Lưu Văn Lợi (2000), Ngoại giao Đại Việt,
sđd, tr. 223.
3. Lưu Văn Lợi (2000), Ngoại giao Đại Việt, sđd, tr. 61 – 62.
4. Lưu Văn Lợi (2000), Ngoại giao Đại Việt, sđd, tr. 111 – 112.
5. Lê Văn Hưu…, Đại Việt sử ký toàn thư, Kỷ nhà Lý, quyển III, sđd, tr.113.
6. Nhà Lý liên tục đặt vấn đề với nhà Tống trả lại đất Vật Dương, Vật Ác cho
nhà Lý. Số lần nhà Lý đòi vào các naêm 1802, 1803, 1804, 1806, 1807.

224


Thường Kiệt là người sử dụng lần đầu tiên kiểu vừa đánh vừa đàm để
kết thúc chiến tranh kiểu “biện hòa”.
Phương châm ngoại giao “tiên phát chế nhân” của triều Lý được
triều Trần vận dụng để đối phó với quân Mông – Nguyên. Đơn cử là,
Mông Cổ ba lần gửi sứ giả đến Thăng Long đòi vua Trần đáp ứng
những yêu sách của chúng như: cống nạp sản vật quý hiếm (1257);
buộc vua Trần phải sang chầu, phải đưa thân tộc sang ở Trung Quốc
làm con tin, phải chịu chế độ quân dịch, phú thuế và để cho quan
Mông Cổ trấn trị (1266); đòi vua Trần phải nộp lái buôn là người Hồi
Hột và voi lớn (1268), nhưng đều bị nhà Trần từ chối và còn bắt giam
sứ giả. Mông Cổ ở thế của một đế quốc đã chinh phục hàng trăm
nước. Quân đội Mông Cổ là quân đội bách chiến bách thắng. Thế
nhưng, sau trận Mông Cổ bị thua Đại Việt lần thứ nhất (1258), đã lộ
rõ sự sợ hãi đối với nhà Trần. Vua Mông Cổ không dám tỏ thái độ
đáp trả với các hành động không chịu khuất phục của vua Trần.
Những năm 1261, 1267, 1275 Mông Cổ gửi chiếu thư sang Đại Việt
để răn vua Trần, nhắc phải thực hiện các bổn phận với bề trên như

“điển lệ và phong tục”, phong vua Trần làm An Nam quốc vương, cấm
vua Trần không được để cho các tướng ở biên ải khởi binh cướp lấn
biên giới, yêu cầu kê khai dân số1. Bề ngoài vua Trần chấp nhận lệ
định nộp cống 3 năm một lần của vua Mông Cổ, nhưng bên trong thì
né tránh tối đa việc thực hiện những yêu cầu về số lượng cống phẩm,
từ chối cống nho sỹ, thầy thuốc, người giỏi âm dương bói toán, thợ
giỏi. Vua Nguyên còn gửi chiếu văn trách cứ vua Trần cống toàn
những thứ không dùng được2.
Vua Trần Thái Tông trong suốt 15 năm đã dùng mưu trí khéo
léo khước từ các yêu cầu của vua Mông – Nguyên. Nhà Nguyên thành
lập, thống trị Trung Quốc. Từ năm 1271 đến năm 1275, vua Nguyên
gửi thư cho vua Trần để trách móc, sách nhiễu mà chưa dám dùng
quân sự để hỏi tội (?). Dẫu vậy, chúng vẫn ngang nhiên, xấc xược yêu
sách đủ điều3. Năm 1281, vua Trần đã chặn đứng mưu đồ của Hốt Tất
Liệt trong việc sắp xếp bộ máy bù nhìn do Trần Di Ái đại diện, để
thực hiện chính sách đô hộ đối với Đại Việt.
1. Lê Tắc (1335), An Nam chí lược, Ủy ban phiên dịch Sử liệu Việt Nam, Viện Đại
học Huế,1961, tr. 18 – 19.
2. Lê Tắc (1335), An Nam chí lược, sđd, tr. 19.
3. Lê Tắc (1335), An Nam chí lược, sñd, tr.18 – 19.

225


Nhà Trần một mặt từ chối thẳng thừng các đòi hỏi vô lý của
quân Nguyên như: kê khai dân số, quân dịch để có căn cứ bắt lính; cả
việc mượn đường và cung cấp quân lương cho chúng đánh Champa
(1283). Quân của Hốt Tất Liệt bấy lâu quen rong ruổi bằng vó ngựa
trên thảo nguyên mênh mông nay buộc phải đi theo đường biển đánh
Champa. Điều đó là nỗi hận chúng làm sao quên được? Sau sự kiện từ

chối cho quân Nguyên mượn đường, vua Trần tích cực chuẩn bị lực
lượng bố phòng tại tất cả các điểm dọc biên giới để chủ động đối phó
với chúng. Và tháng 1 năm 1285, quân Nguyên đã tiến quân đánh vào
Đại Việt. Thời kỳ hoàn hoãn giữa triều Trần với triều Nguyên kéo dài
được 25 năm thì chấm dứt. Ngay sau khi quân Nguyên rút về nước
(7/1285), thì chỉ một tháng sau chúng lại có kế hoạch đánh Đại Việt
để phục thù. Song song với việc chuẩn bị lực lượng, Hốt Tất Liệt một
lần nữa lại toan tính việc sắp đặt trước bộ máy cai trị Đại Việt. Hắn
phong Trần Ích Tắc làm An Nam quốc vương, con của Tắc làm An
phủ sứ lộ Hà Giang, Lại Ích Huy làm An phủ sứ lộ Nam Sách, Trần
Văn Long làm Tuyên phủ sứ lộ Quy Hóa và gửi chiếu thư hạch tội vua
Trần.
Vua Trần nhiều lần gửi thư cho vua Nguyên. Bằng lời lẽ mềm
dẻo, vua Trần nói rõ tính phi nghóa của cuộc chiến cho tướng sỹ giặc
hiểu, kêu gọi chúng rút lui, nói rõ chính sách nhân đạo của ta đối với
tù binh là quân Nguyên. Đồng thời cảnh báo về nguy cơ sẽ bị đánh
cho tan tác một khi ngoan cố. Với tài cầm quân mưu dũng song toàn,
tướng Trần Quốc Tuấn đã lập trận địa quyết chiến cùng giặc tại bến
Bạch Đằng (1288). Quân Mông – Nguyên bị đánh ba trận tan tác,
làm chúng bạt vía kinh hồn, không dám nuôi mộng bành trướng Á –
Âu. Khắp khu vực Châu Á lan tới miền Tây Á, Trung Đông đều biết
đến uy danh quân dân Đại Việt, góp phần củng cố và giữ vững nền
độc lập của dân tộc.
Sau khi đánh cho quân Mông – Nguyên thua liên tiếp ba trận,
Đại Việt dù ở thế là người chiến thắng nhưng luôn tỏ ra thiện chí, cố
làm giảm bớt những tiếp xúc căng thẳng giữa hai nước, nhằm xoá bỏ
mưu đồ tái xâm lược vì hiếu chiến và để rửa nhục của Trung Quốc.
Nhờ thế mà quan hệ Đại Việt – Trung Quốc bước vào giai đoạn vừa
đấu tranh vừa giao hảo. Sau cuộc chiến chống quân Nguyên lần thứ
ba (1288), Đại Việt đã 5 lần liên tiếp chủ động cho sứ sang nhà

Nguyên trao đổi về việc trả hàng vạn tù binh cho nhà Nguyên. Thấy
ta nhún nhường, năm 1293 vua Nguyên lấn lướt, buộc vua Trần sang
226


chầu. Vua Trần không sang, chỉ gửi sản vật quý sang cống. Sau chiến
tranh với Đại Việt, thế và lực của nhà Nguyên suy kiệt, không thể hồi
phục nên đành phải nhượng bộ, đôi khi còn e sợ Đại Việt cất quân
đánh phá. Từ năm 1314 đến năm 1322, nhà Nguyên năm nào cũng cử
sứ sang quan hệ với nhà Trần.
Từ năm 1340 trở đi, triều Nguyên suy sụp, nội loạn và phong
trào nông dân trong nước chống lại triều đình bùng phát dữ dội. Chu
Nguyên Chương đã lật đổ triều Nguyên, lập nên triều Minh ở Trung
Quốc (1367). Triều Minh thành lập, chính sách đối ngoại đối với Đại
Việt cũng thay đổi. Tháng tư năm 1368, nhà Minh cho sứ sang thăm
dò Đại Việt. Nhà Minh mưu đồ đánh chiếm Đại Việt, hạch sách, bắt
cống nạp nhiều thứ (1377). Ngỗ ngược hơn, năm 1384 nhà Minh đưa
quân sang đánh Đại Việt. Các năm 1385, 1386, 1395 nhà Minh liên
tiếp bức ép nhà Trần phải cống nạp của cải, lương thực và người. Khi
nhà Minh cường thịnh lại là lúc nhà Trần đang khủng hoảng, nội bộ
hỗn loạn nên chưa thể tổ chức kháng cự lại nhà Minh.
Triều Trần trong giai đoạn trị vì đã có 25 năm hòa hoãn với
triều Nguyên. Dó nhiên sự hòa hoãn có được ngoài sức mạnh nội lực
của triều Trần còn tác động bởi yếu tố khách quan do tình hình bất
ổn của nội bộ triều Nguyên và nước Trung Quốc đương thời. Thành
công của đối sách ngoại giao dưới triều Trần là kết quả của sự dũng
cảm, mưu lược của vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông. Mưu lược
ngoại giao của vua Trần là bề ngoài luôn để Trung Quốc nhận được sự
tôn kính, giữ lễ của nước nhỏ đối với nước lớn, thỏa mãn những yêu
sách thông thường như cử sứ bộ, nộp triều cống đều, song lại kiên

quyết gạt bỏ những yêu sách gây nguy hiểm cho an ninh quốc gia như
từ chối không sang chầu, hay xâm phạm biên giới lãnh thổ. Thái độ
bác bỏ của vua Trần dứt khoát, nhưng lý lẽ thì khôn ngoan. Nhà Trần
cũng thực hiện tốt việc lợi dụng và ly gián đối với nội bộ kẻ thù.
Trong chiến tranh, vua Trần đã kết hợp được kế hoạch quân sự với
ngoại giao nhằm trì hoãn một trận đánh hoặc đánh lừa địch để tranh
thủ thời gian chuẩn bị về quân lương, lực lượng. Thành quả lớn nhất
dưới triều Trần là mang lại sự yên bình cho cuộc sống muôn dân
trong thời gian 80 năm, kể từ năm 1288 về sau. Không chỉ giữ được
nền độc lập cho riêng Đại Việt, mà triều Trần đã giúp cho nước Nhật
thoát khỏi họa chiến tranh. Vì năm 1285, quân Nguyên vừa bị Đại
Việt đánh thua. Năm 1286, triều Nguyên buộc phải dừng kế hoạch
tấn công Nhật Bản để tập trung toàn lực trả thù Đại Việt.
227


Hồ Quý Ly lập nên triều Hồ (1400 – 1407), do thế nước còn yếu
nên ông vẫn giữ quan hệ bình thường với nhà Minh. Vua Minh sử
dụng một số hoạn quan người Việt do nhà Trần cống nạp, cho làm sứ
giả đưa về nước để làm nội gián. Nhà Minh đưa nhiều yêu sách vô lý,
trách cứ nhà Hồ đã nhận cống vật của Champa (1404). Sứ giả nhà
Minh sang nhà Hồ có thái độ hết sức bạo ngược, dám đánh đập cả
quan quân đi đón tiếp, hộ tống. Năm 1405, nhà Minh ép nhà Hồ cắt
nộp đất châu Lộc ở Lạng Sơn. Hồ Quý Ly sai người giết quan lại nhà
Minh cai trị ở 59 thôn tại Cổ Lâu. Hồ Quý Ly đã sai sứ sang Trung
Quốc xin giảng hoà nhưng không được chấp nhận. Dã tâm xâm lược
Đại Việt của vua Minh đã rõ. Vì vậy, năm 1405, nhà Hồ cho đắp
thành Đa Bang (Tiên Phong, Hà Tây), đóng cọc ở các cửa biển, những
nơi xung yếu, đặt kho quân khí, đúc vũ khí, chuẩn bị đối phó. Hồ Quý
Ly rất chú ý tăng cường sức mạnh quân sự, lập xưởng đóng chiến

thuyền, chế được sung thần cơ hỏa lực mạnh. Về kinh tế, xã hội, ông
đã thi hành ba chính sách lớn: hạn điền, hạn nô và phát hành tiền
giấy. Trong văn hóa giáo dục, Hồ Quý Ly đã chấn chỉnh chế độ thi cử.
Những việc làm của Hồ Quý Ly rất táo bạo, có mặt tích cực, song
cũng hạn chế lớn là không được dân tin. Nhà Hồ do không được nhân
dân ủng hộ nên dù rất cố gắng chống trả quân Minh song đã thua
nhanh chóng.
Nhà Hồ sụp đổ (1407), hậu duệ của nhà Trần tiếp tục chống
Minh, làm cho chúng khốn đốn nhiều phen. Năm 1413, nhà Hậu
Trần cử Nguyễn Biểu đi sứ sang nhà Minh cầu phong, tướng Trương
Phụ đã giết Nguyễn Biểu để ra oai. Cuộc kháng chiến chống Minh của
quân dân ta vẫn tiếp tục và ngày càng phát triển mạnh mẽ ở cả vùng
núi lẫn nông thôn. Tiêu biểu là khởi nghóa Trần Ngỗi (1407 – 1409),
Trần Quý Khoáng (1409 – 1413), Phạm Ngọc (1419 – 1420), Lê Ngã
(1419 – 1429)1. Lê Lợi (1385 – 1433) là người đã quy tụ được toàn
dân. Năm 1416, tại rừng núi Lam Sơn (Thanh Hóa), ông dựng cờ
dấy nghiệp. Hai năm sau Lê Lợi xưng vương và phát hịch kêu gọi
toàn dân hiệp lực cùng tiêu diệt giặc Minh. Giúp sức cho sự nghiệp
của Lê Lợi là Nguyễn Trãi (1380 – 1442). Ông đã hiến kế Bình Ngô,
vạch rõ kế hoạch đánh và thắng giặc Minh. Ông được Lê Lợi trọng
dụng, giao cho trọng trách viết thư trao đổi với các tướng của quân
Minh.
1. Lưu Văn Lợi (2000), Ngoại giao Đại Việt, sñd, tr. 115.

228


Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã thực hiện kiên trì chiến sách đấu tranh
ngoại giao kết hợp với đấu tranh quân sự trong suốt quá trình cuộc
kháng chiến. Trong vấn đề ngoại giao, hai ông đã kết hợp uyển

chuyển, đan xen cả hai hình thức ngoại giao đánh – đàm. “Thế trận
xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh; dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.”.
“Đem đại nghóa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo”.1
Ở mỗi thời đoạn của cuộc chiến, Nguyễn Trãi đưa ra những đối
sách phù hợp. Khi thì giải quyết hòa hoãn để xây dựng, phát triển lực
lượng. Lúc lại giảng hòa để hạ thành của địch, mở đường tiến cho thế
trận mới 2. Chiến lược giảng hòa vẹn toàn của Lê Lợi – Nguyễn Trãi
lần lượt giành được ưu thế cho nghóa quân. Tướng sỹ Lam Sơn liên
tiếp đánh tan những đoàn quân viện trợ quy mô lớn của đối phương.
Nguyễn Trãi chủ trương “Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta
đây mưu phạt tâm công”3. Nguyễn Trãi đóng vai kẻ mưu sỹ, là người
đảm nhiệm việc viết hàng trăm bức thư dụ hàng, nghị hoà với chủ
tướng của địch. Ông thực nghiệm rất thành công mưu sách binh vận.
Từ năm 1423, Nguyễn Trãi đến Lam Sơn, bắt đầu vận dụng kế sách
vừa đánh vừa đàm, mở đầu giai đoạn đấu tranh mới – đánh vào lòng
địch, kết hợp đánh mạnh bằng quân sự với sức mạnh của nhân dân
để đánh địch. Đánh – đàm và ngược lại được sử dụng đan xen suốt
thời gian chiến tranh, cho đến khi địch phải chấp nhận đầu hàng mới
thôi. Tinh thần yêu nước, khí thế chiến đấu kiên cường vì độc lập tự
do của dân tộc đã tạo thành sức mạnh tinh thần áp đảo quân địch.
Nguyễn Trãi dùng sự khoan dung, lòng nhân ái, chính nghóa để khuất
phục kẻ thù. Chủ trương, hành động viết thư gửi đích danh từng
tướng giặc trong suốt thời gian xảy ra chiến tranh của Nguyễn Trãi là
một ý tưởng kỳ tích. Ông đã nâng kế sách đánh – đàm đạt đến tầm
nghệ thuật của ngoại giao chiến tranh. Kiểu kết thúc chiến tranh
bằng một cuộc hội thề ở Đông Quan (10/12/1427) đã khắc vào dòng sử
chống ngoại xâm của dân tộc những dấu phá cách bi hùng lẫm liệt.
Hơn 10 vạn quân Minh đành chấp nhận thua cuộc, rút về nước, mang
1. Bình Ngô đại cáo, bản dịch của Ngô Tất Tố.
2. Năm 1422, khi nghóa quân Lam Sơn còn yếu, quân lương cạn kiệt phải ẩn núp

trong núi Chí Linh. Nguyễn Trãi đã khuyên Lê Lợi cầu hòa nhằm : “bên trong lo
rèn chiến cụ; bên ngoài giả thác cầu an” (Nguyễn Trãi – Phú núi Chí Linh), theo
Lưu Văn Lợi (2000), Ngoại giao Đại Việt, sđd, tr. 117 – 118.
3. Bình Ngô đại cáo, bản dịch của Ngô Tất Tố.

229


thông điệp về một dân tộc anh hùng thượng võ. Bài văn thề ở Đông
Quan là sự thỏa thuận cuối cùng giữa nghóa quân Lam Sơn với quân
Minh về việc chiến tranh. Trung Quốc lần đầu tiên phải ký với Đại
Việt một văn bản đình chiến. Văn bản đó là một giải pháp cứu vãn cho
sự chìm đắm của mộng bá quyền phong kiến Trung Quốc khỏi Đại Việt;
khẳng định thế thắng của chính với tà; là minh chứng cam kết của nhà
Minh về vấn đề tôn trọng chủ quyền bờ cõi Đại Việt. Chiến thắng của
nghóa quân Lam Sơn đã góp phần quan trọng trong việc chặn đứng và
dập tắt cuồng vọng bành trướng của nhà Minh xuống phía nam châu Á.
Toàn văn Bình Ngô đại cáo là áng hùng văn báo cáo với toàn thiên hạ
về diễn biến cuộc chiến giữa nghóa quân Lam Sơn với giặc Minh, đồng
thời cũng là sự công khai một chính sách kiên định trong quan hệ của
Đại Việt đối với Thiên triều.
Quan hệ giữa Đại Việt với Trung Quốc ở thời Lê được Lê Lợi chủ
động kết nối. Lê Lợi chủ động trao thả tù binh cho nhà Minh, chấp
nhận để vua Minh phong tước vương (1437). Thế nhưng, Trung Quốc
vẫn không từ bỏ mộng bá quyền của nước lớn. Trung Quốc không dám
đem quân sang đánh mà chỉ hạch sách, đe dọa, dương oai để giữ thể
diện của nước lớn. Vua Lê có chủ ý “giữ thể diện” cho nhà Minh nên
trước khi trừng phạt Champa đã cho gửi thư thông báo trước với nhà
Minh. Thế nhưng, khi nhà Minh gửi thư yêu cầu vua Lê trả lại đất cho
Champa (1470), thì liền bị bác bỏ. Động thái này cho thấy vua Lê rất

cương quyết, cứng rắn trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia và
quyền tự quyết dân tộc. Nhà Lê kiên trì thực hiện chính sách ngoại
giao đã có từ các triều đại trước là: chấp nhận chỉ xưng vương, không
xưng đế, thần phục giữ quốc thể cho nhà Minh, cốt giữ cho được mục
tiêu bảo toàn xã tắc, để dân được nghỉ ngơi.
Đại Việt sau thời kỳ huy hoàng (thế kỷ XIV, XV) thì đi vào suy
thoái từ thế kỷ XVI, kéo dài đến nửa sau thế kỷ XVIII. Những ung
nhọt tiềm ẩn từ mâu thuẫn xã hội, từ sự trụy lạc biến thái của tầng
lớp thống trị và nỗi thống khổ ngày càng tăng của nhân dân, làm cho
nhà Lê mục ruỗng. Các thế lực mưu phản bùng dậy. Tiêu biểu là Mạc
Đăng Dung nổi dậy cướp ngôi vua. Nhà Mạc thành lập vào năm 1527,
tồn tại đến năm 1592. Để củng cố quyền lợi và tránh áp lực bị nhà
Minh “hỏi tội” cướp ngôi, năm 1540, Mạc Đăng Dung đã cắt đất 5
động ở Vónh An (Quảng Ninh) nộp cho nhà Minh để tỏ lòng quy phục.
Mạc Chính Trung còn đem tuỳ tùng sang Khâm Châu xin tỵ nạn
(1547). Nhà Mạc còn cử sứ sang Trung Quốc (1548), cống nạp nhà
230


Minh (1582,1584). Hành động lúng túng trong quan hệ với Trung
Quốc của nhà Mạc càng làm mất lòng tin cho nhân dân.
Triều Lê Trung Hưng (1533 – 1789) tiếp tục trị nước, trở lại
chính sách giao hảo với nhà Minh. Thế nước của Đại Việt lúc đó đang
suy yếu, nhà Minh đã phong cho vua Lê tước An Nam đô thống sứ, tỏ
rõ ý khinh thường vua Lê, vì vua Lê tồn tại chỉ giữ vai trò bung xung,
không nắm thực quyền.
Chính quyền Đàng Trong được thiết lập từ năm 1558, nhưng
mãi đến năm 1702, thời chúa Nguyễn Phúc Chu, mới cho sứ sang nhà
Thanh xin được phong vương, nhưng không được chấp nhận. Năm
1747, xảy ra vụ nhóm Hoa kiều gồm Lý Văn Quang, Hà Huy, Tạ Tú

cầm đầu 300 người nổi loạn ở dinh Trấn Biên bị chúa Nguyễn đánh
dẹp, bắt giam một số tên. Đến năm 1756, chúa Nguyễn cho người gửi
thư đến tổng đốc Quảng Đông đặt vấn đề trả người, giữa nhà Thanh
và chính quyền Đàng Trong không có giao lưu gì thêm nữa.
Chúa Trịnh, ở Đàng Ngoài, sau khi hoàn toàn làm chủ lãnh thổ
(1677), đã tỏ rõ thái độ tự chủ hơn trong quan hệ với nhà Thanh.
Chúa Trịnh đã đòi lại dải đất thuộc châu Vị Xuyên (Tuyên Quang) và
Thủy Vỹ (Hưng Hóa) (1726). Nhà Thanh buộc phải nhượng bộ sự
thuyết phục của Đại Việt, trả lại nốt dải đất Vị Xuyên, bao gồm mỏ
đồng Tụ Long (1728). Động thái kiên quyết, nhưng mềm dẻo của chúa
Trịnh trong vấn đề đấu tranh với nhà Thanh về lãnh thổ, biểu đạt
cho tinh thần dân tộc của giai cấp phong kiến Đại Việt đương thời.
Bởi vì đây là lúc cạnh tranh sống chết về quyền lợi riêng tư giữa các
dòng họ phong kiến, thế nhưng lợi ích quốc gia chưa bị quên lãng.
Đến vương triều Tây Sơn, ngay năm 1789, mặc dù vừa đánh
thắng 30 vạn quân Thanh, nhưng Quang Trung vẫn viết thư gửi tổng
đốc tỉnh Quảng Tây yêu cầu mở các cửa ải, để cho dân hai nước được
tự do thông thương. Đáp lại, Phúc An Khang đã cho mở các cửa ải
Bình Nhi, Thủy Khẩu, Du Thôn. Năm 1790, Phúc An Khang còn
nhận lời cho lập một thương điếm của Đại Việt đặt ở phủ Nam Ninh
tỉnh Quảng Tây. Tháng tư năm 1790, vua Quang Trung (giả) cùng tùy
tùng sang chúc thọ vua Càn Long để thắt chặt quan hệ giữa hai nước.
Dựa vào sự trợ giúp của Phúc An Khang và Hòa Thân nên sứ giả do
Quang Trung gửi sang được vua Thanh đón tiếp trọng thị. Vua Thanh
sắc phong Quang Trung làm An Nam quốc vương. Mưu lược ngoại
giao của Quang Trung đã dập tắt ý đồ dùng quân sự phục thù của nhà
231


Thanh, bảo vệ được độc lập đất nước. Những kết quả của quan hệ

ngoại giao trên là nhờ vào sự mưu trí, chiến lược dùng người, phân
hóa, mua chuộc kẻ thù của Quang Trung.
Triều Tây Sơn duy trì quan hệ với nhà Thanh trên thế chủ
động, đơn cử như: đầu năm 1792, Quang Trung sai người mang quà
biếu nhà Thanh. Tặng phẩm là chiến lợi phẩm thu được sau trận tiễu
trừ bọn phản động ở Vạn Tượng. Hành động này như một đòn cảnh
cáo khéo đối với nhà Thanh, bày tỏ thái độ kiên quyết diệt trừ kẻ nào
dám phản loạn hoặc nuôi dã tâm xâm lược. Quang Trung còn xin nhà
Thanh cho bỏ lệ cống người vàng và mở cửa ải cho nhân dân hai nước
thông thương buôn bán. Ông cầu hôn công chúa nhà Thanh để thăm
dò thái độ của vua Thanh, đồng thời đặt vấn đề đòi lại đất cũ của Đại
Việt là hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây. Yêu cầu của Quang Trung
đều được vua Thanh chấp nhận, song đáng tiếc là mọi việc chưa kịp
trở thành hiện thực thì vua Quang Trung đột ngột qua đời. Trong thời
gian điều hành đất nước, Quang Trung đã biết cách trọng dụng hiền
tài. Thành công của Quang Trung trong đối sách với Trung Quốc có sự
đóng góp mưu lược của Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích. Quang Trung
luôn kết hợp quân sự với ngoại giao, biết dùng chiến thắng quân sự để
tác động đến kế sách ngoại giao, đã khiến cho triều Thanh phải nể
trọng vua nước Đại Việt.
Triều Nguyễn tiêu diệt triều Tây Sơn, thực hiện chính sách
ngoại giao thuần phục nhà Thanh, định kỳ cho người đem lễ vật sang
nhà Thanh triều cống. Sau Hiệp ước 1884, Trung Quốc đã để mất vai
trò của nước lớn đối với Đại Nam, quan hệ Việt Nam – Trung Quốc
trở thành bộ phận của quan hệ Pháp – Trung.
Trong suốt thời kỳ phong kiến độc lập tự chủ (938 – 1884), các
triều đình phong kiến Việt Nam luôn dùng mưu lược nhằm giữ thế
ngoại giao với Trung Quốc. Một mặt, các vua tỏ ra thần phục bằng
cách chấp nhận chế độ sách phong, triều cống do Trung Quốc đặt ra;
nhưng khôn khéo, chủ động tỏ thái độ cho Trung Quốc biết chủ quyền

của mình. Thế nên, quan hệ Việt – Trung thời kỳ này về hình thức
mang đậm nét quan hệ sách phong triều cống. Quan hệ Việt – Trung
luôn diễn ra hai trạng thái. Một là quan hệ giữa hai nước láng giềng
trực tiếp. Hai là quan hệ giữa một nước nhỏ với một đế chế lớn mạnh,
thường trực nhìn thế giới bằng nhãn quan tự mãn, luôn tự coi là trung
tâm thiên hạ, là thiên tử. Các vua Đại Việt trong nước thì xưng đế, mà
232


bên ngoài chỉ xưng vương, nhận phong hiệu vì thế nước phải là như
vậy. Đại Việt chịu chung sống cùng đế chế Trung Hoa với điều kiện
Trung Hoa phải tôn trọng và công nhận quyền làm chủ của Đại Việt.
2. Với Champa
Trong số các nước láng giềng của Đại Việt ở phía Nam, Champa
là láng giềng có ý nghóa quan trọng. Nước Champa hình thành từ một
cuộc nổi dậy của nhân dân huyện Tượng Lâm (thế kỷ I TCN – 192),
quận Nhật Nam thời nhà Hán cai trị. Năm 192, Khu Liên lãnh đạo
nhân dân ở đây đấu tranh chống lại chính quyền đô hộ, thành lập
chính quyền tự chủ, đặt tên nước là Lâm Ấp (192 – 749). Cuối thế kỷ
VI, tên gọi Champa xuất hiện lần đầu tiên trên các bia do người
Chăm khắc. Đến thế kỷ VIII, Lâm Ấp đổi là Hoàn Vương (757 – 859),
sau đó lại gọi là Chiêm Thành (875 – 1471). Từ năm 1471 đến 1693,
có tên gọi Panduranga (Champa). Tên gọi Thuận Thành trấn được
dùng cho vùng đất của người Champa dưới thời các chúa Nguyễn đến
triều Minh Mạng (1697 – 1832).
Thế kỷ IX, X Champa bước vào thời kỳ hưng thịnh. Thế kỷ XII,
Champa trở thành một đế chế hùng mạnh ở Đông Nam Á, có chính
sách đối ngoại hiếu chiến.
Quan hệ giữa Đại Việt và Champa từ đầu thế kỷ X đến nửa đầu
thế kỷ XIII là quan hệ đối đầu, thường xảy ra chiến tranh với nhau,

Champa thực hiện chính sách đối ngoại hiếu chiến và hai mặt với Đại
Việt. Trải qua triều đại Lý, Trần, Hồ, Lê giữa Đại Việt với Champa
thường xuyên xảy ra xung đột quân sự, Champa thường là kẻ chủ
động gây hấn. Thời Lý, Champa thường lợi dụng mùa sóng gió mà
đánh phá vùng biển nước ta 1(1033). Thời triều Lý, Champa dùng mối
quan hệ với Trung Quốc vào mục đích kìm tỏa Đại Việt. Nhà Tống
cũng giả như không biết để mặc cho Champa đánh phá biên giới phía
nam Đại Việt. Ba châu ở phía bắc của Champa là Địa Lý, Ma Linh và
Bố Chính (tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị) được Champa dùng đổi lấy
tự do cho vua Chế Củ trong trận chiến bị thua năm 1069. Thế nhưng,
sự kiện đó đã trở thành đầu mối cho vấn đề xung đột kéo dài giữa hai
nước. Champa nuôi chí phục thù bằng việc giả vờ quy thuận Đại Việt,
liên tục vào các năm 1071, 1072, 1074 Champa đều triều cống cho

1. Lê Văn Hưu…, Đại Việt sử ký toàn thư, Kỷ nhà Lý, bản kỷ quyển II, sđd, tr. 99.

233


Đại Việt. Đặc biệt, năm 1074 vua Champa còn mang cả hoàng tộc
cùng 3000 binh sỹ sang Đại Việt quy phục và tỵ nạn.
Nhà Lý hiểu rõ mưu tính của Champa nên luôn chủ động trong
quan hệ với Champa, khi thì phủ dụ, khi thì tiễu phạt bằng quân sự.
Từ năm 1104, sau nhiều lần đánh phá ở 3 châu Đại Lý, Ma Linh và
Bố Chính đại bại, thì Champa mới chịu tạm thời hòa hoãn với Đại
Việt, khoảng thời gian hoà hoãn đôi bên khá dài (1104 – 1126). Đến
tháng giêng năm 1129, Chân Lạp và Champa đã liên kết đem 20.000
quân đánh vào vùng Thanh Hóa. Từ năm 1129 đến 1152, Champa đã
tấn công Đại Việt bốn lần bằng quân đội1. Chỉ khi yếu thế, Champa
mới đành chịu nộp cống vật cho Đại Việt2. Năm 1198, vua

Suryavarman thống nhất Vijaya (Bình Định) và Paran (Phan Rang),
liền sau đó đã cử sứ bộ sang triều cống và xin triều đình nhà Lý
phong tước3. Liên tục trong những năm 1203, 1216 và 1218 quân
Champa có sự trợ giúp của quân Chân Lạp đánh phá vào Đại Việt
nhưng đều bị thua.
Thời Trần, Trần Thái Tông đích thân cầm quân chinh phạt
Champa (1252), cuộc chiến kéo dài suốt 1 năm. Vua Trần thắng trận,
toàn bộ hoàng gia Champa bị bắt mang về Đại Việt. Vào các năm
1265, 1269, 1270, 1279, 1282 Champa đều cử sứ giả mang lễ vật
thịnh soạn sang triều cống nhà Trần. Sự lớn mạnh và nguy cơ bành
trướng của vó ngựa Mông – Nguyên ở vùng Đông Nam Á đã làm
chuyển hướng quan hệ ngoại giao Đại Việt – Champa sang một thời
kỳ mới: thời kỳ tạm lắng dịu xung đột vũ trang để liên minh chống
giặc Mông – Nguyên (nửa đầu thế kỷ XIII đến năm 1307). Trong lịch
sử bang giao giữa hai nước ở thời phong kiến, chỉ duy nhất một lần
Đại Việt cứu nguy và giúp Champa về quân sự (1283)4. Nhờ có sự góp
sức của đạo Phật và cuộc hôn nhân chính trị do Trần Nhân Tông sắp
đặt giữa Huyền Trân với vua Jaya Sinhavarman II (Chế Mân) mà hai
nước có quan hệ khá thân thiện. Chế Mân đã cắt đất châu Ô và châu
Lý làm sính lễ hỏi cưới Huyền Trân (1306). Hai châu này nhà Trần
1. Lê Văn Hưu…, Đại Việt sử ký toàn thư, Kỷ nhà Lý, sđd, tr. 126, 127, 130, 142.
2. Lê Văn Hưu…, Đại Việt sử ký toàn thư, Kỷ nhà Lý, sđd, tr. 80 – 158. Các năm
Champa sang Đại Việt nộp cống ở triều Lý là: 1011, 1050, 1068, 1071, 1110,
1112, 1117, 1118, 1120, 1130, 1154, 1155, 1164, 1165, 1183 và 1198.
3 Lê Văn Hưu…, Đại Việt sử ký toàn thư, Kỷ nhà Lý, bản kỷ quyển IV, sđd, tr. 150.
4. Trương Hữu Quýnh (chủ biên), Đại cương lịch sử Việt Nam toàn tập, sđd, tr. 220.

234



đổi tên là châu Thuận và châu Hóa (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa
Thiên) và giao cho Đoàn Nhữ Hài quản sóc. Năm 1307, vua Chế Mân
chết, con trai là Jaya Sinhavarman IV (Chế Chí) nối ngôi, Champa
lại trở mặt thực hiện chính sách ngoại giao hai mặt với Đại Việt như
trước kia, tình trạng đó kéo dài đến thế kỷ XV. Xung đột giữa Đại
Việt với Champa diễn ra xoay quanh vấn đề Champa muốn lấy lại
vùng đất đã cắt cho Đại Việt. Nhà Trần dùng chính sách mềm dẻo,
phong tước hầu, tước vương cho các vua Champa nhưng họ vẫn không
quy thuận. Những năm 1335, 1361, 1362, 1365, 1368 quân Champa
đánh phá liên tiếp vùng Hoá Châu. Chế Bồng Nga cầm quyền, được
nhà Minh đứng sau ủng hộ, Champa liên tục gây hấn với Đại Việt,
tiến quân đánh Thăng Long nhiều lần.
Thập niên 70 thế kỷ XIV, nhà Trần bộc lộ sự suy yếu, Chế
Bồng Nga dùng thuyền chiến tấn công Đại Việt ở cửa bể Đại An
(1371), theo sông Hồng vào cướp phá kinh đô Thăng Long rồi rút
lui. Mãi đến năm 1377, Trần Duệ Tông mới đem 12 vạn quân
đánh Champa. Trận này, quân Champa chủ động nên quân Trần
đại bại. Champa thừa thắng tiếp tục đánh cướp Thanh Hóa (1382,
1389), Thăng Long (1383). Sau khi Chế Bồng Nga tử trận (1390),
thái độ gây hấn với Đại Việt của Champa tạm thời bị chặn đứng.
Nhà Hồ ngay những năm đầu của triều đại đã dồn lực để
chặn đánh Champa (1402), thu được vùng Indrapura, bao gồm
Chiêm Động và Cổ Luỹ. Hồ Quý Ly chia vùng lãnh thổ này và đặt
tên hành chính là các châu Thăng, Hoa, Tư, Nghóa, địa danh này
tương ứng với Quảng Nam, Quảng Ngãi ngày nay. Nhà Hồ phủ dụ
Champa bằng cách cử con trai của Chế Bồng Nga tên là Chế Ma
Nô Đà Nan làm phủ sứ lộ Thăng Hoa, nhưng dân Champa vẫn bỏ
đi nơi khác. Do vậy, nhà Hồ đã cho di dân đến, cấp ruộng đất, trâu
bò, mở đường đi lại, giúp tiện lợi cho việc thăm nom quản lý. Nhà
Hồ phái hai mươi vạn quân đánh Champa (1403), sau 9 tháng vây

thành Đồ Bàn, lương thực cạn khô, nguy cơ nhà Minh xâm chiếm
cận kề nên phải rút quân về lo phòng thủ. Nhân lúc nhà Hồ bận lo
đối phó với quân Minh, Champa đã chiếm lại vùng đất cắt nhượng
từ năm 1402.
Thắng lợi của Lê Lợi trước quân Minh góp phần tạo thế áp đảo
cho nhà Lê đối với các nước láng giềng, do vậy, dưới triều vua Lê Thái
Tổ, quan hệ giữa Đại Việt với Champa tạm yên ổn. Sau khi Lê Thái
Tổ mất (1434), Champa liền cướp phá vùng Hoá Châu và Cửa Việt,
235


lặp đi lặp lại chính sách hai mặt đối với Đại Việt. Vua Lê phải chọn
cách giải quyết dứt điểm là đưa quân đánh kinh đô Đồ Bàn (1446).
Đại Việt tấn công Champa vào năm 14711. Champa đại bại, Lê
Thánh Tông sáp nhập vùng đất từ phía nam Hóa Châu đến đèo Cù
Mông (gồm cả Đại Chiêm và Cổ Lũy) vào lãnh thổ Đại Việt, lập
thành đạo Thừa Tuyên Quảng Nam. Lãnh thổ còn lại của Champa
được chia thành 3 nước, gồm Chiêm Thành, Hoa Anh và Nam Bàn2.
Từ năm 1543, Champa trở thành phiên vương của Đại Việt.
Hai nước Đại Việt, Champa có quan hệ từ thế kỷ X đến thế kỷ
XV thì kết thúc. Trong suốt thời gian đó, Đại Việt luôn chủ động giao
hảo ngay cả khi biết chắc chắn Champa không thật lòng giao kết.
Cuộc chiến chống Mông – Nguyên là khoảng thời gian ngắn để hai
nước gắn kết, cùng đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia mỗi nước. Hầu
như trong suốt thời kỳ hai nước có quan hệ với nhau, Champa thường
xuyên sử dụng đối sách hai mặt với Đại Việt. Champa luôn kích động
Trung Quốc tấn công Đại Việt để họ có cơ hội quấy phá sau lưng Đại
Việt. Chính sách đối ngoại hiếu chiến của Champa buộc Đại Việt phải
chọn đường lối phòng thủ tích cực để bảo vệ quốc gia.
Các chúa Nguyễn dần mở rộng lãnh thổ về phía Nam. Năm

1611, Nguyễn Hoàng chiếm đất Chiêm Thành, lập thành phủ Phú
Yên, gồm hai huyện là Đồng Xuân và Tuyên Hòa. Năm 1653, chúa
Nguyễn Phúc Tần chiếm thêm vùng đất từ sông Phan Rang trở vào,
thành lập phủ Thái Khang và phủ Diên Khánh (Khánh Hòa). Năm
1693, chúa Nguyễn Phúc Chu chiếm nốt đất Chiêm Thành, đổi tên là
Thuận Thành trấn. Đến năm 1697, chúa lại lập phủ Bình Thuận, đổi
đất Phan Rí thành huyện Yên Phúc và Phan Rang thành huyện Hoà
Đa. Từ đây, Champa trở thành phiên thuộc của chúa Nguyễn. Nhằm
hạn chế xung đột giữa người Chăm với người Việt, năm 1712, chúa
Nguyễn Phúc Chu đã trao cho các chúa Chăm quyền tự trị. Cách quản
lý lãnh thổ Champa như thế tồn tại đến năm 1832. Hoàng đế Minh
Mạng quyết định đổi Thuận Thành trần thành phủ Ninh Thuận và
đặt quan lại cai trị trực tiếp nhằm dập tắt hoàn toàn sự chống đối của
người Chăm.

1. D. G. E. Hall, Lịch sử Đông Nam Á, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, tr.
306, 316.
2. Trương Hữu Quýnh (chủ biên), Đại cương lịch sử Việt Nam toàn tập, sđd, tr. 321.

236


×