MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ
LỊCH SỬ VIỆT NAM
Tập 2
MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ
LỊCH SỬ VIỆT NAM
Tập 2
NGUYỄN VĂN HIỆP (Chủ biên)
TRẦN THUẬN – LÊ VY HẢO – VÕ THỊ CẨM VÂN –
NGÔ THỊ THANH TUYỀN – LÊ HUỲNH HOA –
NGÔ MINH SANG – CAO VĂN THỨC –
BÙI THỊ HUỆ – NGUYỄN ĐÌNH THỐNG –
PHAN THỊ LÝ – TRƯƠNG HOÀN TRƯƠNG –
HUỲNH THỊ KIM LIÊM – NGUYỄN THỊ KIM ÁNH
Mã số sách chuẩn quốc tế (ISBN)
978-604-731761-5
Nhà xuất bản ĐHQG-HCM
và Trường Đại học Thủ Dầu Một giữ bản quyền©.
Copyright© by VNU-HCM Publishing House and
Thu Dau Mot University All ringhts reserved.
Xuất bản năm 2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
Số 6 Trần Văn Ơn – Phú Hòa – Thủ Dầu Một – Bình Dương
Điện thoại: (0650) 3.844.226; Fax: (0650) 3.837.150
Email: ; Website: www.tdmu.edu.vn
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
TS. NGUYỄN VĂN HIỆP
(Chủ biên)
MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ
LỊCH SỬ
VIỆT NAM
Tập 2
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU
Nguyễn Văn Hiệp........................................................................... 7
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN VIỆT NAM
Trần Thuận ............................................................................................9
QUÁ TRÌNH KHAI KHẨN VÙNG ĐẤT NAM BỘ
(TỪ ĐẦU THẾ KỶ XVII ĐẾN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX)
Lê Vy Hảo ............................................................................................. 56
TIẾP XÚC VĂN HOÁ ĐÔNG-TÂY Ở VIỆT NAM THỜI CẬN ĐẠI
Võ Thị Cẩm Vân – Ngô Thị Thanh Tuyền .............................. 88
PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP VIỆT NAM CUỐI THẾ
KỶ XIX, ĐẦU THẾ KỶ XX
Nguyễn Văn Hiệp – Ngô Minh Sang ..................................... 112
CHÍNH QUYỀN THUỘC ĐỊA CỦA THỰC DÂN PHÁP Ở VIỆT NAM
Lê Huỳnh Hoa ................................................................................... 160
KHUYNH HƯỚNG, ĐẢNG PHÁI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM (19191945)
Cao Văn Thức............................................................................. 187
LỊCH SỬ NGOẠI GIAO VIỆT NAM (TỪ DỰNG NƯỚC ĐẾN 1945)
Bùi Thị Huệ ....................................................................................... 212
TRÍ THỨC VIỆT NAM TRONG ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG DÂN
TỘC (CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX)
Nguyễn Đình Thống .................................................................. 250
PHONG TRÀO NÔNG DÂN THỜI PHONG KIẾN
Phan Thị Lý ............................................................................... 300
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐÔ THỊ VIỆT NAM
Trương Hoàng Trương .............................................................. 345
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY LỊCH SỬ ĐỊA
PHƯƠNG TỈNH BÌNH DƯƠNG
Huỳnh Thị Liêm – Nguyễn Thị Kim Ánh.............................. 372
LỜI NÓI ĐẦU
Để có thêm tài liệu phục vụ cho công tác giảng dạy, học tập,
đồng thời đẩy mạnh công tác xuất bản giáo trình, Trường Đại học
Thủ Dầu Một đã tổ chức biên soạn bộ sách Một số chuyên đề lịch
sử Việt Nam. Với 3 tập sách được xuất bản trong năm 2013 và
2014, bộ sách Một số chuyên đề lịch sử Việt Nam sẽ giới thiệu gần
30 chuyên đề nghiên cứu về lịch sử Việt Nam, trong đó phần lớn
là các chuyên đề đã và đang được giảng dạy cho sinh viên ngành
lịch sử ở Trường Đại học Thủ Dầu Một. Đây là những chủ đề khoa
học cơ bản thuộc một số lónh vực sử học, liên quan đến những vấn
đề lịch sử đương đại của cả nước, khu vực và địa phương. Các
chuyên đề trong bộ sách được thể hiện dưới dạng đề cương chi
tiết, gợi mở những vấn đề cụ thể trong giảng dạy, nghiên cứu và
tham khảo, học tập.
Trong tập 2 này, sách sẽ cung cấp cho giảng viên, sinh viên
và bạn đọc 11 chuyên đề được biên soạn công phu, phản ánh
những kết quả nghiên cứu của các tác giả trên nhiều lónh vực và
chủ đề khác nhau của lịch sử Việt Nam. Các chuyên đề trong tập
sách này không chỉ đề cập đến những vấn đề khoa học vừa căn
bản, vừa thiết thực với yêu cầu đào tạo chuyên ngành lịch sử hiện
nay mà còn giới thiệu hướng tiếp cận bài bản trong nghiên cứu
lịch sử Việt Nam. Trong 11 chuyên đề của tập sách, một số
chuyên đề có tính chuyên sâu, có khả năng gợi mở hướng nghiên
cứu mới; một số chuyên đề khác vừa gợi mở vấn đề nghiên cứu
giảng dạy, vừa giúp người học có khả năng liên hệ, vận dụng kiến
thức, rèn luyện kỹ năng và phương pháp trong đào tạo sư phạm
lịch sử.
Việc biên soạn các chuyên đề phục vụ giảng dạy sao cho
khoa học và hợp lý là công việc khó khăn, nhất là đối với Trường
Đại học Thủ Dầu Một khi mà đội ngũ giảng viên ít và chưa có
nhiều kinh nghiệm trong xây dựng các chuyên đề giảng dạy ở bậc
đại học, do vậy quyển sách này không tránh khỏi những thiếu sót
nhất định. Song với mong muốn đáp ứng yêu cầu phục vụ đông
đảo cán bộ, giảng viên và sinh viên trong tình hình giáo trình và
tài liệu tham khảo còn thiếu như hiện nay, Trường Đại học Thủ
Dầu Một mạnh dạn cho xuất bản. Nhà trường rất mong nhận được
ý kiến đóng góp của cán bộ giảng dạy, cán bộ nghiên cứu trong,
ngoài trường và bạn đọc để công tác biên soạn các chuyên đề tiếp
theo cũng như trong công tác biên soạn giáo trình của trường được
tốt hơn.
Chủ biên
TS. Nguyễn Văn Hiệp
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NHÀ NƯỚC
PHONG KIẾN VIỆT NAM
Trần Thuận*
I. VỀ KHÁI NIỆM NHÀ NƯỚC
1. Nhà nước là gì?
Theo Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), “nhà nước” là:
(1) tổ chức, đứng đầu là chính phủ, quản lý công việc chung của một
nước (bộ máy nhà nước); (2) phạm vi cả nước; quốc gia (ngân hàng
nhà nước; đề tài nghiên cứu cấp nhà nước) (dùng phụ sau danh từ).
Từ điển Triết học: “Nhà nước là tổ chức chính trị của giai cấp
thống trị về kinh tế nhằm mục đích bảo vệ trật tự hiện hành và đàn
áp sự phản kháng của các giai cấp khác. Nhà nước với tính cách là
công cụ của giai cấp bóc lột để đàn áp nhân dân bị bóc lột, đã xuất
hiện do sự phân chia xã hội thành các giai cấp. Quá trình hình thành
của nhà nước là quá trình xác lập quyền lực công khai đặc biệt cùng
với quân đội, cảnh sát, nhà tù và các cơ quan quản chế của nó”1.
2. Bản chất của nhà nước
– Nhà nước luôn có tính giai cấp sâu sắc,
– Nhà nước là công cụ để thực hiện sự thống trị giai cấp. Lênin
định nghóa: “Nhà nước là một bộ máy đặc biệt phục vụ cho giai cấp
này đàn áp giai cấp khác”; Nhà nước xã hội chủ nghóa chỉ là “nửa nhà
nước”.
3. Chức năng cơ bản của nhà nước
– Chức năng đối nội.
– Chức năng đối ngoại.
* Tiến só, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh.
1. Từ điển Triết học, NXB Tiến Bộ – NXB Sự Thật, 1986, tr. 395.
9
Hai chức năng này có quan hệ mật thiết với nhau. Muốn thực
hiện tốt chức năng đối ngoại phải dựa vào tình hình thực tế của đất
nước, tức chức năng đối nội; ngược lại, chức năng đối ngoại sẽ tạo điều
kiện, hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển của đất nước, tức thực hiện tốt
chức năng đối nội.
4. Các kiểu nhà nước, hình thức nhà nước
Các kiểu nhà nước
– Kiểu nhà nước là tổng thể những dấu hiệu cơ bản, đặc thù
của nhà nước, thể hiện bản chất giai cấp và những điều kiện tồn
tại, phát triển của nhà nước trong mọi hình thái kinh tế – xã hội
nhất định
– Trong lịch sử xã hội có giai cấp đã tồn tại 4 hình thái kinh tế
– xã hội và tương ứng với nó là 4 kiểu nhà nước: nhà nước chủ nô,
nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản, nhà nước xã hội chủ nghóa.
Các hình thức nhà nước
Hình thức nhà nước là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước và
những phương pháp để thực hiện quyền lực nhà nước của giai cấp
thống trị.
Hình thức nhà nước được xét trên 4 phương diện:
– Hình thức chủ quyền, gồm nhà nước độc lập và nhà nước lệ
thuộc.
– Hình thức chính thể: dựa vào cách tổ chức và trình tự
thành lập các cơ quan nhà nước, có các hình thức nhà nước quân
chủ (gồm nhà nước quân chủ tuyệt đối và nhà nước quân chủ hạn
chế) và nhà nước cộng hòa (gồm nhà nước cộng hòa quý tộc; nhà
nước cộng hòa dân chủ).
– Hình thức cấu trúc nhà nước: gồm nhà nước đơn nhất; nhà
nước liên bang; nhà nước liên hiệp (hay còn gọi là nhà nước liên
minh).
– Chế độ chính trị: dân chủ và phản dân chủ.
Nhà nước phong kiến
Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) có các định nghóa liên
quan:
– Chế độ phong kiến: Hình thái xã hội – kinh tế xuất hiện
sau chế độ chiếm hữu nô lệ, trong đó giai cấp địa chủ, quý tộc
10
chiếm hữu đất đai, bóc lột địa tô, chính quyền tập trung trong tay
vua chúa, địa chủ.
– Chế độ phong kiến phân quyền: Chế độ phong kiến trong đó
quyền hành phân tán trong tay các lãnh chúa cát cứ địa phương.
– Chế độ phong kiến tập quyền: Chế độ phong kiến trong đó
quyền hành tập trung vào chính quyền trung ương do vua nắm giữ.
– Chế độ quân chủ: Chế độ chính trị trong đó vua đứng đầu nhà
nước.
– Chế độ quân chủ chuyên chế: Chế độ quân chủ trong đó quyền
lực của vua không bị hạn chế, không bị chia xẻ1.
Bách khoa thư mở Wikipedia nêu: “Về mặt thuật ngữ, chế
độ phong kiến (phong tước, kiến địa) là một từ gốc Hán – Việt: 封 建,
xuất phát từ hệ tư tưởng chính trị thời Tây Chu, Trung Quốc. Vào
thời này, vua Chu ra chế độ đem đất đai phong cho bà con để kiến
lập các nước chư hầu gọi là “phong kiến thân thích”. Do chế độ này
giống chế độ phong đất cho bồi thần ở châu Âu nên người ta đã dùng
chữ “phong kiến” để dịch chữ féodalité từ tiếng Pháp. Tuy vậy cả hai
chữ này chỉ mới phản ánh hình thức phân phong đất đai chứ chưa
phản ánh bản chất của chế độ đó. Trong các ngôn ngữ châu
Âu, féodalité bắt nguồn từ chữ feod trong tiếng Latin nghóa là “lãnh
địa cha truyền con nối”.
Phong kiến phản ánh hình thức truyền nối và chiếm hữu đất
đai của chế độ quân chủ thời xưa, trong thời quân chủ chuyên chế.
Trong nhiều trường hợp, những thời kỳ quân chủ trước kia cũng được
gọi là thời kỳ phong kiến. Tuy nhiên, trong thời hiện tại, thể chế về
chế độ quân chủ thời nay là chế độ quân chủ lập hiến, cho nên phong
kiến chỉ phản ánh một giai đoạn, một thời kỳ hay là một hình thái
của chế độ quân chủ.
Nhà nước quân chủ
Nhà nước quân chủ trung ương tập quyền là nhà nước trong đó
quyền lực thuộc về triều đình trung ương do vua đứng đầu.
Nhà nước quân chủ chuyên chế là nhà nước trong đó, vua quyết
định tối hậu các quyền về kinh tế, chính trị, văn hóa, tôn giáo. Vua có
quyền kết án tử hình đối với mọi người mà không cần phán xét; có
quyền tịch thu tài sản của thần dân. Vua là biểu tượng tối thượng của
quốc gia, có hệ thống đại thần giúp việc trị nước ở trung ương, và các
1. Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), NXB Khoa học Xã hội, 1988, tr. 144.
11
quan lại cai trị ở các địa phương. Vua bổ nhiệm và thuyên chuyển các
quan lại. Đất đai trong nước do vua quyết định. Vua thống trị đất
nước theo thể thức cha truyền con nối. Lúc có chiến tranh vua là
người chỉ huy tối cao. Bộ luật của đất nước do vua chủ trì soạn thảo và
ban hành.
Nhà nước quân chủ quý tộc là nhà nước quân chủ trung ương
tập quyền, nhưng được xây dựng trên cơ sở cao nhất là nguyên tắc
“liên kết dòng họ”, vượt lên trên cả nguyên tắc “tôn quân quyền”.
II. NHÀ NƯỚC CỦA CÁC VƯƠNG TRIỀU PHONG KIẾN VIỆT
NAM (THẾ KỶ X – XIX)
1. Mô hình nhà nước quân sự thời Ngô – Đinh – Tiền Lê
(năm 939 – đầu thế kỷ XI)
a) Nhà Ngô củng cố nền độc lập và xây dựng nhà nước
trung ương tập quyền
Sau chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, năm 939
Ngô Quyền xưng vương, lập nên nhà Ngô – triều đại phong kiến đầu
tiên ở Việt Nam. Ngô Quyền xây dựng triều đình mới, chọn Cổ Loa
((?), Đông Anh, Hà Nội) làm kinh đô. Bộ máy nhà nước trung ương
đương thời chỉ bao gồm một số chức quan võ (chỉ huy sứ) và một số
quan văn giúp việc. Triều đình quy định nghi lễ, phẩm phục, đặt cơ
sở cho sự phát triển của nhà nước quân chủ ở giai đoạn sau. Ở địa
phương, các châu, huyện vẫn giữ nguyên; các làng, giáp là những đơn
vị hành chính cơ sở. Bên cạnh một số làng, giáp cổ truyền, còn có một
số làng mới được hình thành và một số trang trại.
Sự tồn tại của nhà Ngô, đứng đầu là Ngô Quyền chưa đủ điều
kiện để giữ vững sự ổn định lâu dài. Vì vậy, đến năm 944 khi Ngô
Quyền mất, em vợ là Dương Tam Kha cướp ngôi, thái tử Ngô
Xương Ngập phải bỏ trốn. Năm 951, em Ngô Xương Ngập là Ngô
Xương Văn lật đổ được Dương Tam Kha, khôi phục lại chính
quyền, cho rước Ngô Xương Ngập về cùng trị nước. Ngô Xương
Ngập xưng là Thiên Sách Vương, Ngô Xương Văn xưng là Nam
Tấn Vương. Năm 954, Xương Ngập mất, Xương Văn toàn quyền cai
trị. Bấy giờ, trong triều đã phân hóa, chia bè kết cánh, các thế lực
cát cứ nổi lên khắp nơi. Năm 965, khi đi dẹp loạn, Xương Văn bị
giặc giết, con là Ngô Xương Xí nối ngôi, nhưng thực chất chỉ còn là
một sứ quân trong thời loạn.
12
Cục diện 12 sứ quân xuất hiện đầy đủ từ năm 965, sau cái chết
của Ngô Xương Văn. Chính quyền trung ương lúc này đã suy yếu, đất
nước rơi vào tình trạng hỗn chiến. Các thổ hào địa phương, nhiều cựu
thần của nhà Ngô nhân đó phân tán về các địa phương, mỗi người
chiếm giữ một vùng, tạo thành cục diện các sứ quân mà sử cũ gọi là
“Thập nhị sứ quân” (loạn 12 sứ quân). Hầu hết các sứ quân đều chiếm
giữ vùng đồng bằng và trung du Bắc bộ. Đây là vùng đất trù phú,
đông dân cư, là đầu mối giao thông thuận lợi cho việc xây dựng cát cứ.
b) Nhà Đinh xây dựng thể chế quân chủ chuyên chế
Năm 968, Đinh Bộ Lónh dẹp xong loạn 12 sứ quân và thống
nhất đất nước, ông lên ngôi hoàng đế, hiệu là Đinh Tiên Hoàng, lập
nên nhà Đinh.
Sau khi lên ngôi hoàng đế, Đinh Tiên Hoàng đặt tên nước là
Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư (Ninh Bình) và tiến thêm một bước
trong công cuộc xây dựng chính quyền độc lập tự chủ, bắt đầu định
giai phẩm cho hàng ngũ quan văn, quan võ, tăng đạo. Đinh Tiên
Hoàng phong cho con nhỏ là Hạng Lang làm Thái tử, con thứ Đinh
Toàn làm Vệ vương, con cả Đinh Liễn làm Nam Việt vương.
Trong triều đình, vua là người đứng đầu, nắm mọi quyền hành,
giải quyết mọi công việc chính trị, vừa là quan tòa tối cao, vừa là tổng
chỉ huy quân đội. Dưới vua, ở trung ương đã có sự phân công, phân
nhiệm cho các quan văn, quan võ và tăng quan. Có các chức quan văn
võ như só sư, tướng quân, nha hiệu, phò mã, đô úy. Bên cạnh các quan
văn võ, còn có một hệ thống tăng quan và đạo só với các chức đại sư
được nhà Đinh rất trọng vọng như Ngô Chân Lưu, tăng lục như
Trương Ma Ni, sùng chân uy nghi như Đặng Huyền Quang... Các công
thần được nhà Đinh phong tước và cấp thái ấp như Đinh Điền,
Nguyễn Bặc...
Nhà Đinh chia cả nước làm 10 đạo, chú ý xây dựng một đạo
quân mạnh đủ sức bảo vệ chính quyền trung ương mới xây dựng và
đè bẹp xu hướng cát cứ địa phương. Quân đội được tổ chức thống
nhất, gồm 10 đạo. Theo phiên chế thì mỗi đạo có 10 quân, mỗi
quân có 10 lữ, mỗi lữ có 10 tốt, mỗi tốt có 10 ngũ, mỗi ngũ có 10
người.
Năm 970, Đinh Tiên Hoàng không dùng niên hiệu nhà Tống, tự
đặt niên hiệu là Thái Bình, cho đúc tiền để lưu hành trong nhân dân,
13
sử dụng hình phạt nghiêm khắc để trấn áp lực lượng chống đối như
đặt vạc dầu lớn ở sân triều, nuôi hổ dữ trong củi...
Nhà Đinh tồn tại ngắn ngủi. Năm 979, Đinh Tiên Hoàng và con
trai trưởng của ông là Đinh Liễn bị một viên quan trong triều là Đỗ
Thích giết hại, Đinh Toàn nối ngôi khi còn quá nhỏ (6 tuổi). Nhà
Tống nhân cơ hội đó tổ chức cuộc tấn công xâm lược nước ta. Trước
tình thế đó, triều thần và Thái hậu Dương Vân Nga nhất trí đưa
Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên làm vua. Nhà Đinh chấm dứt. Nhà
Tiền Lê được thành lập (năm 980).
c) Nhà Tiền Lê tiếp tục củng cố thể chế quân chủ chuyên
chế
Sau chiến thắng quân xâm lược Tống, Lê Hoàn tìm cách lập lại
bang giao với nhà Tống và cố gắng khôi phục quan hệ bang giao với
Champa. Tiếp tục sự nghiệp xây dựng đất nước của nhà Đinh, Lê
Hoàn tiến hành củng cố thể chế quân chủ chuyên chế, chấn chỉnh bộ
máy chính quyền. Nhà Lê ban hành một số luật lệ và pháp lệnh để
ổn định trật tự xã hội. Chế độ kiểm kê dân số để tuyển lính cũng bắt
đầu được thi hành. Lực lượng quân đội được tăng cường về số lượng và
trang bị. Quân đội thường trực của triều đình đều thích vào trán ba
chữ “Thiên tử quân”.
Các khu vực hành chính trong nước được sắp xếp lại, chia thành
các lộ rồi đến phủ, châu. Quyền lực và ảnh hưởng của chính quyền
trung ương ngày càng được mở rộng.
Sau khi Lê Hoàn mất (1005), các người con của ông đem quân
đánh nhau để tranh ngôi, không chấp nhận sự kế vị của Long Việt.
Sau 8 tháng xung đột, Khai Minh vương Long Đónh đánh bại được các
hoàng tử khác, giết Lê Long Việt (mới ở ngôi vua chỉ được 3 ngày), rồi
tự lập làm vua. Ban đầu Lê Long Đónh còn lo chấn chỉnh bộ máy nhà
nước, đàn áp lực lượng ly tán. Năm 1009, khi tình hình đã tương đối
yên ổn, Long Đónh xoay sang ăn chơi trụy lạc, mắc bệnh nên không
ngồi được, phải nằm để hội chầu với các quan nên sử cũ gọi là Lê
ngọa triều. Hơn nữa, Lê Long Đónh còn bạo ngược, hiếu sát, nên lòng
dân oán hận.
Cuối năm 1009, Long Đónh chết, một số triều thần do Chi hậu
Đào Cam Mộc đứng đầu, được sự ủng hộ của các sư tăng, nhất là sư
Vạn Hạnh, đã nhất trí đưa Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công
Uẩn lên làm vua, lập nên triều Lý. Nhà Tiền Lê sụp đổ.
14
2.2. Mô hình nhà nước tập quyền thân dân thời Lý –
Trần – Hồ (thế kỷ XI – thế kỷ XV)
a) Nhà Lý xây dựng và củng cố thể chế trung ương tập
quyền
Cuối năm 1009, Lê Long Đónh chết, nhà Tiền Lê không còn đủ
uy tín để mọi người tin phục. Triều thần chán ghét nhà Tiền Lê, vì
vậy các tăng sư và đại thần, đứng đầu là Đào Cam Mộc, tôn thân vệ
Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, nhà Lý thành
lập. Đầu năm 1010, Lý Công Uẩn chính thức lên ngôi hoàng đế, đặt
niên hiệu là Thuận Thiên. Nhà Lý thành lập, mở ra một trang sử mới
thanh bình.
Năm 1010, Lý Công Uẩn quyết định dời đô về Đại La rồi đổi
thành Thăng Long. Nhà Lý giữ quan hệ bình thường với Tống, tạo
điều kiện cho nhân dân hai bên biên giới qua lại buôn bán làm ăn. Để
ổn định biên giới phía nam, nhà Lý đã dẹp tan cuộc tấn công của
Champa do nhà Tống xúi giục. Sau đó, Việt – Chăm quan hệ bình
thường.
Từ khi mới thành lập, triều Lý đã chuyển các quan chức từ Hoa
Lư ra Thăng Long thiết lập một triều đình tập trung quyền hành vào
tay hoàng đế, chấn chỉnh lại bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa
phương, phân chia lại các khu vực hành chính trong cả nước. Chăm lo
xây dựng quân đội. Ban hành bộ Hình thư (1042) – bộ luật thành văn
đầu tiên của nước ta. Đồng thời, nhà Lý cũng dùng nhiều biện pháp
tăng cường quý tộc hóa và quan liêu hóa dòng họ Lý. Năm 1054, Lý
Thánh Tông đổi tên nước ta từ Đại Cồ Việt thành Đại Việt. Vua là
người đứng đầu nhà nước, nắm giữ mọi quyền hành. “Dân ai có gì oan
ức thì đánh chuông (đặt ở hai thềm cung điện) xin vua xét xử”. Vua ở
ngôi theo chế độ cha truyền con nối. Các chức vụ quan trọng, nhà vua
cử những người thân cận đảm trách. Giúp vua có các đại thần, các
quan văn võ. Chia cả nước làm 24 lộ, phủ, đặt các chức tri phủ, tri
châu. Công việc ở đây được giao cho con cháu nhà vua hoặc các đại
thần cai quản. Dưới lộ, phủ là huyện, hương.
Cùng với việc xây dựng và phát triển nhà nước quân chủ trung
ương tập quyền, nhà Lý ra sức xây dựng và phát triển kinh tế, văn
hóa độc lập, tự chủ. Quân đội thời Lý gồm hai bộ phận: cấm quân và
quân địa phương. Thi hành chính sách “Ngụ binh ư nông”. Quân gồm
quân bộ và quân thuỷ, kỷ luật nghiêm minh, được huấn luyện chu
15
đáo. Tại phía tây kinh thành Thăng Long có khu Giảng Võ là nơi
giảng dạy, luyện tập cho các tướng só và binh lính. Tuy nhiên, vũ khí
trang bị còn thô sơ: giáo mác, dao kiếm, cung nỏ, máy bắn đá…
Nhà Lý có chính sách ban thưởng cho các quý tộc tôn thất
nhằm đoàn kết trong hoàng tộc. Mở hội thề Đồng cổ hàng năm ở
kinh đô nhằm củng cố lòng trung thành của quan lại. Nhà Lý còn gả
các công chúa và ban quan tước cho các tù trưởng dân tộc miền núi.
Nếu có ý tách khỏi Đại Việt là bị trấn áp.
Vua thường vi hành tìm hiểu đời sống của dân. Nguyên phi Ỷ
Lan tạo nên không khí tăng gia sản xuất và dùng hàng trong nước
(trước hết là hoàng tộc và cung phi). Việc làm này có tác dụng thu
phục nhân tâm với hình ảnh Quan Âm Nữ.
b) Nhà Trần xây dựng và củng cố chế độ quân chủ quý
tộc
Cuối thế kỷ XII – đầu thế kỷ XIII, nhà Lý mất hết khả năng
thống trị xã hội. Cần phải có một tập đoàn phong kiến khác thay thế
để ổn định tình hình, thúc đẩy sự tiến lên của chế độ quân chủ trung
ương tập quyền. Nhà Trần thành lập.
Nhiệm vụ của nhà Trần mới lên là phải giải quyết tình trạng
cát cứ, ổn định tình hình xã hội, chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa,
giáo dục… Đến cuối năm 1229, những thế lực cát cứ cuối cùng bị tiêu
diệt. Đất nước trở lại thống nhất. Nhà Trần tập trung đẩy mạnh chế
độ phong kiến tiến lên một bước, củng cố nhà nước quân chủ trung
ương tập quyền, củng cố quyền lực tôn thất nhà Trần.
Cũng như thời Lý, thời Trần, người trong nước gọi quốc hiệu
nước ta là Đại Việt, còn các triều đình Trung Hoa (Tống, Nguyên)
gọi ta là An Nam quốc và phong cho vua Trần làm An Nam Quốc
vương. Kinh đô nước ta đặt tại Thăng Long. Năm 1397, theo ý
muốn của Hồ Quý Ly, Thuận Tông dời đô về An Tôn (Thanh Hóa)
gọi là Tây Đô. Biên giới phía bắc và phía tây được giữ vững trước
sự tấn công và quấy rối của giặc ngoài, đánh bại quân xâm lược
Mông – Nguyên, buộc Ai Lao phải thuần phục. Về phía nam bờ
cõi không ngừng được mở rộng, nhất là năm 1306, vua Trần gả
công chúa Huyền Trân cho Chế Mân và nhận lấy hai châu Ô, Lý.
Năm 1242, nhà Trần đổi 24 lộ của thời Lý thành 12 lộ. Dưới lộ
có phủ, châu huyện và xã. Xã là đơn vị hành chính cấp cơ sở. Đầu
Trần chưa có huyện mà tổ chức theo kiểu liên xã là những xã gần
16
nhau có điều kiện kinh tế, ngành nghề giống nhau. Cuối thời Trần,
liên xã được thay bằng huyện.
Nhà Trần cho phép vương hầu, tôn thất được quyền lập điền
trang, có thái ấp và xây dựng dinh thự, phủ đệ, có lực lượng vũ trang
riêng, khi có việc phải vào chầu và làm việc ở kinh sư. Chế độ điền
trang – thái ấp phát triển mạnh chứng tỏ nhà nước quân chủ do nhà
Trần lập nên vẫn còn mang trong mình tính chất phân tán chứ chưa
mang tính chất tập trung triệt để. Đây “thực chất là một hình thức
tản quyền, thừa nhận chế độ chủ động, tự quản của từng khu vực
lãnh thổ, qua đó có thể làm gia tăng sản xuất trong nước, tăng thêm
sức mạnh cho nhà nước trung ương, góp phần tăng cường lực lượng
quân sự, làm cho việc chống ngoại xâm thêm thuận lợi hơn…”.
Nét độc đáo trong cơ chế chính trị thời Trần là chế độ Lưỡng
đầu đã đạt đến mức hoàn chỉnh. Chế độ thăng thưởng, thăng chức
theo niên hạn, phẩm phục, nghi tiết cho bộ máy quan lại, cũng như
đối tượng nào thì được cất nhắc làm quan và những ai thì làm lính…
đã được xác định cụ thể. Tổ chức nhà nước và các quy chế hành chính
đã được quy định khá rõ ràng.
Dưới vua có lục bộ Thượng thư đứng đầu. Các cơ quan mới được
đặt ra thành những hệ thống riêng gọi là: quán, các, sảnh, cục, viện,
đài,… những cơ quan chuyên trách về văn hoá, giáo dục, y tế, tư pháp,
quốc phòng,… đã được hình thành, đặc biệt là Ngự sử đài – cơ quan
thuộc triều đình có nhiệm vụ đàn hặc bách quan; Hàn lâm viện,… đã
ra đời.
Ngoài các quan chức như dưới thời Lý, nhà Trần đặt thêm hệ
thống Tam Tư (Tư đồ: phụ trách việc ngọai giao, văn hóa, lễ nghi; Tư
mã: phụ trách việc quốc phòng, an ninh, tư pháp; Tư không: phụ
trách các việc khác), Tướng quân (tương đương với Tể tướng),… Bên
cạnh đó vẫn giữ lại các quan chức phụ trách tôn giáo như: Quốc sư,
Tăng thống, Tăng thục, Tăng chính…
Dưới trung ương là các lộ, mỗi lộ có An phủ sứ và An phủ phó sứ
đứng đầu, dưới lộ có phủ, châu, huyện. Ở mỗi phủ có Trấn phủ sứ và
Trấn phủ phó sứ phụ trách; ở mỗi châu có chức Thông phán, Thiêm
phán phụ trách; ở mỗi huyện có quan Tri huyện trông coi. Đơn vị
hành chính cơ sở là xã. Các quan từ ngũ phẩm trở lên được sung chức
Đại tư xã, lục phẩm trở xuống sung chức Tiểu tư xã, có nhiệm vụ quan
hệ trực tiếp với dân chúng. Vì Đại tư xã, Tiểu tư xã trông coi liên xaõ
17
nên ở mỗi xã còn có xã quan cai trị gọi là Xã chính, Xã sử hay Xã
giám.
Dưới thời Trần, quan lại có nhiều nhưng vua quan rất thân mật
với nhau. Những lúc có liên hoan vui vẻ, uống rượu xong vua quan có
thể dắt tay nhau múa hát, nằm ngủ chung giường, gác chân lên nhau,
không giữ lễ phép nghiêm khắc như các đời khác. Việc tuyển dụng
nhân tài qua khoa cử ngày một quy củ hơn. Dần dần các quan lại Nho
học thay thế các tăng quan trong triều. Bên cạnh các khoa thi Thái
học sinh (cấp Tiến só sau này), Tam giáo (Phật, Nho, Lão) để tuyển
chọn những người hiền tài bổ dụng làm quan, nhà nước còn tổ chức
các kỳ thi lại viên để tuyển thư lại sung vào làm việc ở các cục, sảnh,
viện… Nhà Trần còn sử dụng những người hay chữ (nho só) không qua
thi cử để dùng vào Trung thư sảnh hoặc dùng người bình dân vào làm
việc ở mật viện.
Năm 1236, vua Trần Thái Tông quy định lương bổng cho các
quan văn võ ở cấp trung ương và các địa phương. Quỹ tiền lương lấy
từ nguồn thuế các địa phương nộp về cũng như các địa phương tự chi
trả. Đến năm 1244, chế độ lương bổng một lần nữa được quy định rõ
ràng hơn. Sau kháng chiến thắng lợi, quan lại được cấp ruộng đất và
lương bổng.
Hệ thống pháp luật thời Trần đã có những tiến bộ đáng kể. Bên
cạnh những chiếu, lệnh, các văn bản đơn hành,… đã có tới năm bộ
luật, căn bản điều chỉnh các mối quan hệ khác nhau trong xã hội. Nổi
bật nhất là sự xuất hiện của ngành luật hành chính với các bộ luật
hoàn chỉnh: Quốc triều thông chế, Quốc triều thường lễ, Hoàng triều
đại điển, Công văn cách thức,…
Về ngoại giao, ngay từ khi mới thành lập, đã cho sứ sang đặt
mối quan hệ giao hảo với nhà Tống và triều cống theo lệ cũ. Tuy
nhiên, vẫn giữ được tinh thần độc lập tự chủ trong quan hệ với nước
láng giềng và trong khu vực. Nhà Trần đứng trước một thách thức lớn
là phải đối phó mưu đồ bành tướng của phong kiến Mông – Nguyên.
Sau kháng chiến chống Mông – Nguyên thắng lợi, nhà Trần nối lại sự
hoà hiếu giữa hai nước.
Nhà Trần cử nhiều quan lại am hiểu phong tục tập quán cư dân
thiểu số lên vùng biên giới trấn giữ, các tôn thất trực tiếp nắm giữ các
cửa khẩu và cửa biển quan trọng, thực hiện mối quan hệ thân thiện
với một số quan lại và tù trưởng Nguyên ở vùng giáp biên.
18
Về quân đội, nhà Trần rất quan tâm xây dựng và củng cố lực
lượng quân đội. Quân đội thời Trần có hai loại: cấm quân (còn gọi là
nội quân, phụ trách bảo vệ an ninh cho kinh thành, quân số lên đến
một vạn người) và lộ quân (quân địa phương, còn gọi là ngoại quân
tức quân các lộ được tuyển lựa trong số thanh niên trai tráng ở các
địa phương). Quân đội nhà Trần gồm có lục quân và thủy quân. Thực
hiện chính sách Ngụ binh ư nông. Các vương hầu, quý tộc tổ chức lực
lượng vũ trang riêng, khi hữu sự, phải tham gia chiến đấu theo sự
điều động của nhà nước trung ương. Về mặt kỹ thuật quân sự: đạt
được một số thành tựu quan trọng như sử dụng thuốc súng, chế hỏa
pháo, thuyền chiến… đặc biệt tổng kết về nghệ thuật quân sự của nhà
chiến lược thiên tài Trần Quốc Tuấn. Bộ Binh gia diệu lý yếu lược (gọi
tắt là Binh thư yếu lược) và sách Vạn Kiếp tông bí truyền thư (goi tắt
là Vạn Kiếp binh thư) vừa là tài liệu để huấn luyện binh pháp cho
tướng só, đồng thời là hai công trình khoa học nghiên cứu và tổng kết
kinh nghiệm chiến đấu chống ngoại xâm của dân tộc, trình bày
những tư tưởng quân sự quan trọng.
Cơ chế quân chủ tập trung phát triển cao hơn hẳn so với nhà Lý
về nhiều mặt, cả quy mô lẫn trình độ quản lý. Nhà Trần tuyển dụng, tổ
chức đào tạo, huấn luyện, sử dụng tầng lớp quan lại nho só. Trong bộ
máy nhà nước có sự phân công, phân cấp khá rõ ràng, đã có sự chuyên
môn hóa giữa các tổ chức cơ quan, các chức sắc quan lại… Để tập trung
mọi quyền hành về tay dòng họ mình, nhà Trần đã giao các chức quan
quan trọng trong triều cho các vương hầu nắm giữ. Ở địa phương, phân
phong cho một số vương hầu trấn trị những vùng trọng yếu.
Có thể nói, bộ máy nhà nước thời Trần được xây dựng thành
một hệ thống hoàn chỉnh từ trung ương đến địa phương. Lưỡng đầu
chế được thực hiện gần như thống nhất, ngày càng hoàn chỉnh; hệ
thống pháp luật phong phú và chặt chẽ hơn; tính chất quan liêu trong
bộ máy chính quyền ngày được gia tăng, chế độ lương bổng cụ thể;
khoa cử ngày càng quy củ hơn.
c) Nhà Hồ xây dựng chính quyền lấy Nho giáo làm nền
tảng tư tưởng
Cuối thế kỷ XIV, nhà Trần suy yếu, tạo điều kiện cho Hồ Quý
Ly từng bước nắm giữ những chức vụ trọng yếu trong triều đình và
có điều kiện thuận lợi để thực hiện nhiều biện pháp cải cách từ
cuối thế kỷ XIV, rồi tiếp tục cuộc cải cách sau khi lật đổ nhà Trần
vào năm 1400.
19
Năm 1395, Quý Ly được phong Nhập nội phụ chính Thái sư
bình chương quân quốc trọng sự, tước Tuyên trung vệ quốc đại vương.
Quyền hành hầu như nắm hết trong tay Hồ Quý Ly. Để chuẩn bị cho
cuộc kháng chiến chống xâm lăng từ phía Bắc và toan tính cho việc
thành lập vương triều mới, năm 1397 Hồ Quý Ly cho xây kinh đô mới
ở An Tôn (Vónh Lộc – Thanh Hoá) rồi sau đó bắt vua Trần Thuận
Tông (con rể của Hồ Quý Ly) chuyển vào đây. Năm 1398, ép vua làm
lễ nhường ngôi cho con là Thiếu Đế (3 tuổi) để xuất gia. Năm 1399,
ông sai người thắt cổ giết chết Thuận Tông. Tháng ba năm Canh
Thìn (1400), Hồ Quý Ly bức vua Thiếu Đế (cháu ngoại của Hồ Quý
Ly) phải nhường ngôi rồi tự lập làm vua, đặt niên hiệu là Thánh
Nguyên, lấy lại họ Hồ (từ họ Lê) và đổi quốc hiệu là Đại Ngu (An vui
lớn), thành lập triều đại nhà Hồ.
Trong 30 năm làm quan dưới triều Trần và những năm tạo dựng
nhà Hồ, Quý Ly đã tiến hành nhiều cải cách kinh tế, văn hóa, xã hội,
giáo dục có ý nghóa tiến bộ, song chưa đưa lại kết quả nhiều. Về mặt
đối ngoại, nhà Hồ ba lần tiến đánh Champa, chiếm thêm đất Chiêm
Động (nam Quảng Nam), Cổ Lũy (bắc Quảng Ngãi), sau đó chia
Chiêm Động làm hai châu Thăng và Hoa, chia Cổ Lũy thành hai châu
Tư và Nghóa.
Nhà Hồ cũng ra sức chuẩn bị lực lượng để chống xâm lược phương
Bắc, nhưng các chính sách của triều Hồ, về khách quan đã làm cho
vương triều này mất khả năng lãnh đạo một cuộc kháng chiến thắng
lợi. Năm 1406, nhà Minh tiến đánh nước ta. Cuộc kháng chiến do nhà
Hồ lãnh đạo bị thất bại nhanh chóng. Tháng 6 năm 1407, Hồ Quý Ly
cùng với những người lãnh đạo của triều Hồ rơi vào tay giặc.
3. Mô hình nhà nước tập quyền quan liêu thời Lê sơ (thế
kỷ XV); nhà nước lưỡng đầu thời Lê – Mạc, Lê – Trịnh, Trịnh –
Nguyễn (thế kỷ XVI – cuối thế kỷ XVIII)
a) Nhà Lê sơ xây dựng và hoàn thiện mô hình nhà nước
tập quyền quan liêu (thế kỷ XV)
Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, khôi phục lại quốc hiệu Đại Việt.
Chính quyền quân chủ trung ương tập quyền được xây dựng đầy đủ
dần, đến thời Lê Thánh Tông thì hoàn thiện. Đứng đầu triều đình là
vua. Để tập trung quyền lực vào nhà vua, Lê Thánh Tông bãi bỏ một
số chức vụ cao cấp nhất như tể tướng, đại tổng quản, hành khiển. Vua
trực tiếp nắm mọi quyền hành, kể cả tổng chỉ huy quân đội. Giúp việc
20
cho vua có các quan đại thần. Ở triều đình có 6 bộ (Binh, Hình, Lễ,
Lại, Hộ, Công); giúp việc cho 6 bộ có 6 tự, 6 khoa giám sát công việc ở
6 bộ. Ngoài ra còn có một số quan chuyên môn.
Ở địa phương, thời Lê Thái Tổ, Lê Nhân Tông, cả nước chia làm
5 đạo. Dưới đạo là phủ, huyện (miền núi là châu), xã. Đến thời Thánh
Tông, đổi thành 13 đạo thừa tuyên, dưới đạo thừa tuyên có phủ, châu,
huyện, xã.
Tổ chức quân đội: Chế độ “ngự binh ư nông” tiếp tục được thực
hiện. Quân đội có hai bộ phận, ở triều đình và ở địa phương. Có các
binh chủng: Bộ, Thuỷ, Tượng, Kỵ binh. Vũ khí có đao, kiếm, giáo,
mác, cung tên, hỏa đồng,… Hàng năm, quân lính được luyện tập võ
nghệ, chiến trận. Vùng biên giới đều có bố trí quân đội mạnh canh
phòng và bảo vệ.
Dưới các thời vua Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông, pháp luật đã
được chú ý xây dựng. Lê Thánh Tông cho biên soạn và ban hành bộ
Lê triều hình luật (thường gọi là Luật Hồng Đức).
Trong xã hội có hai giai cấp chính là địa chủ phong kiến và
nông dân.Địa chủ phong kiến gồm vua, quan, địa chủ; nông dân
chiếm tuyệt đại đa số nhân dân, sống chủ yếu ở vùng nông thôn. Họ
có rất ít hoặc không có ruộng đất, phải cày thuê ruộng đất công, nộp
tô, thuế, đi phu dịch cho nhà nước (đi lính, đi phu,…) hoặc phải cấy
ruộng thuê của địa chủ, quan lại và phải nộp một phần hoa lợi (tô)
cho chủ ruộng. Tầng lớp thị dân, thương nhân, thợ thủ công ngày
càng đông hơn, họ phải nộp thuế cho nhà nước và không được xã hội
phong kiến coi trọng. Nô tỳ là tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội,
bao gồm cả người Việt, người Hoa và dân tộc ít người. Nhà nước Lê sơ
hạn chế việc nuôi hoặc nô tỳ. Số lượng nô tỳ trong xã hội giảm dần và
bị xoá bỏ.
Nhà Lê kiện toàn bộ máy nhà nước quân chủ tập trung, mang
tính chất quan liêu chuyên chế. Đến đời Lê Thánh Tông (1460 –
1497), nó đạt đến đỉnh cao, trở thành một nhà nước toàn trị, cực
quyền. Đây là một bước ngoặt lịch sử, một sự chuyển biến mô hình,
từ nền quân chủ quý tộc thời Lý – Trần mang đậm tính Phật giáo
màu sắc Đông Nam Á sang một nền quân chủ quan liêu Nho giáo
Đông Á. Trong thiết chế quân chủ tuyệt đối thời Lê sơ, vai trò của
nhà vua là “con trời”, người giữ mệnh trời, thay trời trị dân (“Thuận
Thiên thừa vận”, “Đại Thiên hành hóa”). Lê Thánh Tông bãi bỏ
21
chức Tể tướng và một số chức quan quan trọng khác, để nắm lấy
toàn quyền điều khiển triều đình. Quyền lực của quý tộc tôn thất bị
hạn chế.
Bộ máy quan liêu hành chính và chuyên môn cũng được kiện
toàn từng bước. Khi nhà Lê sơ bước vào giai đoạn suy thái, Mạc Đăng
Dung đã tập hợp lực lượng và chiếm lấy ưu thế trong triều. Năm
1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi vua Lê, lập nên nhà Mạc. Trước
tình hình đó, một cựu thần nhà Lê là Nguyễn Kim chạy sang Lào
tìm gặp Lê Duy Ninh, con cháu vua Lê, tôn lên làm vua. Năm 1533,
Lê Duy Ninh chính thức làm vua là Lê Trang Tông, Trung hưng nhà
Lê. Khi Nguyễn Kim bị một hàng tướng nhà Mạc đầu độc chết, con
rể là Trịnh Kiểm kế vị. Con cháu họ Trịnh từng bước thâu tóm quyền
lực, biến vua Lê thành bù nhìn.
b) Mô hình nhà nước lưỡng đầu thời Lê – Mạc, Lê –
Trịnh, Trịnh – Nguyễn (thế kỷ XVI – cuối thế kỷ XVIII)
Cơ chế quản lý hành chính dưới triều Mạc – Bắc triều (1527 –
1592)
Sau khi cướp ngôi Lê, nhà Mạc cơ bản duy trì tổ chức bộ máy
cũ, nhưng chú trọng việc tăng cường và xây dựng lực lượng quân đội.
Bấy giờ nhà Minh gọi nước ta là An Nam đô thống ty, phong Mạc
Đăng Dung là An Nam đô thống sứ, đổi các lộ thành Tuyên phủ ty
(chỉ là danh nghóa, nhà Minh chưa đủ sức vươn tới nước ta).
Bộ máy chính quyền Mạc cơ bản duy trì theo khuôn mẫu thời
Lê sơ. Mạc Đăng Dung truy phong ông tổ 7 đời là Mạc Đónh Chi là
“Kiến thủy khâm minh văn Hoàng đế” rồi lập con trưởng Mạc Đăng
Doanh là Thái tử, phong em trai Mạc Quyết làm Tín Vương, em trai
Đốc làm Từ Vương, 3 người em gái làm công chúa, phong tước cho các
con cùng anh dòng họ Mạc, cho những người có công tôn phò họ Mạc.
Tháng 12 – 1529, Mạc Đăng Dung nhường ngôi cho con là Mạc Đăng
Doanh rồi về Kinh Dương (cung điện ở làng Cổ Trai) làm Thái
Thượng hoàng (lúc 46 tuổi).
Để củng cố công cụ bạo lực, các vua Mạc ban hành chính sách
lộc điền đối với binh lính (từ ruộng công và ruộng chùa); duy trì chế
độ quân điền như Lê sơ (trên thực tế ruộng đất còn lại quá ít, không
có điều kiện thực thi nữa); phong cấp ruộng đất cho một số công thần
như Lê sơ, có điều khác là loại ruộng này (nghiệp điền, phần điền...),
đều trở thành ruộng tư, có quyền mua bán, chuyển nhượng. Ruộng tư
hữu phát triển mạnh.
22
Nhà Mạc chủ trương mở rộng thi cử đều đặn, 3 năm 1 lần
nhằm đào tạo lực lượng quan liêu bổ sung cho bộ máy hành chính (60
năm mở được 22 khoa thi; nhiều trạng nguyên lừng danh). Nhà Mạc
cũng rất chú ý về an ninh trật tự xã hội, chẳng hạn như cấm dân
chúng mang vũ khí khi ra đường...
Về đối ngoại, vua Minh Chiêu Tông gây sức ép ở biên giới. Để
tạo được sự bình yên, Mạc Đăng Dung cùng 40 viên quan lên tận cửa
ải nói xin hàng và nộp sổ sách. Họ Mạc cắt đất 5 động ở phía Đông
Bắc dâng cho nhà Minh; vua Minh sắc phong cho Mạc Đăng Dung
làm An Nam đô thống sứ ty với quả ấn bằng bạc và hàm tòng nhị
phẩm duy trì cho đến lúc nhà Mạc bị suy yếu và cô lập. Trong khi đó,
nạn tham nhũng, ăn chơi trong vua quan ngày càng phổ biến làm
cho bộ máy nhà nước trở nên mục ruỗng, nhất là sau khi Mạc Kính
Điển qua đời (1580). Khi Lê – Trịnh tấn công, triều Mạc sụp đổ và
thất bại (1592, thực tế còn tồn tại ở Cao Bằng cho đến năm 1688).
Cơ chế quản lý hành chính của Nam triều (vua Lê – chúa
Trịnh ở Thanh Hóa 1533 – 1592)
Chiến tranh Nam – Bắc triều diễn ra từ 1539, kéo dài 50 năm.
Từ năm 1546 Nam triều đã làm chủ vùng đất từ Thanh Hóa vào
Nam. Năm 1545, Nguyễn Kim bị đầu độc chết, Trịnh Kiểm làm Thái
sư Lang quốc công nắm toàn bộ binh quyền của Nam triều mở đầu
cho thời kỳ vua Lê – chúa Trịnh. Trịnh Kiểm có toàn quyền định
đoạt việc quân ở ngoài cũng như ở nội triều.
Năm 1548, Lê Trang Tông mất, Hoàng tử Duy Huyên 15
tuổi nối ngôi (Lê Trung Tông) lấy niên hiệu Thận Bình. Năm
1553, Trịnh Kiểm cho dời Hành tại của vua lên xã Yên Trường.
Năm 1554, lại dời đến xã Biện Thượng (nơi Trịnh Kiểm sống với
mẹ thời nhỏ). Cũng năm này, nhà Lê mở khoa thi để chọn nhân
tài. Nhiều quan nhà Mạc bỏ vào Thanh Hóa theo nhà Lê (tư
tưởng trung quân).
Năm 1556, vua Trung Tông mất (22 tuổi), không có con nối
dõi. Trịnh Kiểm tìm được Lê Duy Bang (25 tuổi, cháu dòng trên
xa đời của Lê Lợi) đưa về làm vua với niên hiệu Thiên Hựu, gọi
là Lê Anh Tông. Thời gian này Ngọc Bảo (chị của Nguyễn
Hoàng) sinh được hoàng nam là Trịnh Tùng nên được Trịnh
Kiểm sủng ái. Sợ bị hãm hại, Nguyễn Hoàng xin vào Nam và
được Trinh Kiểm chấp nhận.
23
Năm 1570, Trịnh Kiểm mất, anh em Trịnh Cối và Trịnh Tùng
đánh nhau tranh giành quyền bính, triều Lê lục đục, vua Lê Anh Tông
phải nhiều phen giàn xếp, kể cả việc phải cầm quân ra trận. Vua Lê
Anh Tông vẫn tin tưởng và giao cho Trịnh Tùng tước Trưởng quận
công thống lónh quân đội. Tuy nhiên có khi vua làm Đô tướng thống
đốc đại binh, đem quân cùng Trịnh Tùng đi đánh Mạc ở phía Bắc.
Chiến tranh Trịnh – Nguyễn và cục diện Đàng Ngoài – Đàng
Trong
Năm 1558, Nguyễn Hoàng được vua Lê Anh Tông cho vào trấn
thủ ở xứ Thuận Hóa, từ đó cơ nghiệp riêng của họ Nguyễn bắt đầu
được gây dựng. Năm 1570, sau khi Trịnh Kiểm mất, Trịnh Tùng lên
nắm quyền, đã cho quân vào đánh úp Nguyễn Hoàng nhằm tiêu diệt
lực lượng của họ Nguyễn. Nhưng Nguyễn Hoàng đã đẩy lùi được quân
Trịnh. Sau hành động này, mâu thuẫn giữa hai họ Trịnh – Nguyễn
lên cao, bên ngoài thì bằng mặt phò tá vua Lê, nhưng bên trong đã
ngầm chuẩn bị lực lượng riêng cho mình.
Năm 1592, về cơ bản Nam triều thắng Bắc triều. Năm 1593,
vua Lê trở về Thăng Long, Nguyễn Hoàng phải ra chầu, chúc mừng
thắng lợi và mang sổ sách quân dân, binh lương kho tàng dâng lên
vua Lê, được sắc phong tước Quốc Công. Nguyễn Hoàng ở lại giúp
triều đình đánh dẹp các tàn dư của họ Mạc. Trịnh Tùng muốn mượn
tay của quân Mạc để tiêu diệt Nguyễn Hoàng. Mâu thuẫn giữa hai
dòng họ Trịnh – Nguyễn nay trở thành cuộc đối đầu công khai và
chiến tranh có thể xảy ra bất cứ khi nào. Nguyễn Hoàng khôn khéo
tránh sự đụng độ và bắt đầu thực hiện một chính sách cai trị mới,
tách khỏi ràng buộc của họ Trịnh.
Năm 1614, sau khi Nguyễn Hoàng mất, Nguyễn Phúc Nguyên
tự ý bổ dụng các chức quan ở Thuận Hóa, thải hồi các quan lại do vua
Lê, chúa Trịnh phong trước đây. Chúa Nguyễn đã có ý ra mặt công
khai đối đầu với họ Trịnh. Năm 1627, Trịnh Tráng lấy cớ họ Nguyễn
không nộp thuế mà phát binh, chiến tranh Trịnh – Nguyễn xảy ra.
Đến năm 1672, khi cuộc chiến không phân thắng bại, hai bên chấp
nhận chia đôi đất nước lấy sông Gianh làm giới tuyến, phía Bắc gọi
Đàng Ngoài, phía Nam gọi Đàng Trong.
Cơ chế quản lý hành chính dưới thời vua Lê – chúa Trịnh ở
Đàng Ngoài (1593 – 1786)
Từ khi Lê trung hưng thành lập, quyền bính thuộc về họ Trịnh,
cho nên cơ cấu bộ máy hành chính khác trước nhiều. Trước thì trên
24
cùng có quan Tham tụng, Bồi tụng coi việc hành chính (giống như
chức Tể tướng, Thủ tướng) rồi đến các quan Thượng thư ở Lục bộ.
Đến năm 1718, đời vua Dụ Tông, Trịnh Cương đặt ra Lục phiên, ở
bên phủ chúa, cũng như Lục bộ ở bên cung vua, để coi việc quản lý
hành chính. Mỗi phiên có Phiên Tri đứng đầu và một phó Tri với các
quan viên. Hình thành chế độ gọi là “Vua Lê – chúa Trịnh”. Mà thực
quyền thuộc phủ chúa (còn gọi Phủ Liêu). Bên cạnh các Bộ còn có
Ngự sử đài do các quan Ngự sử phụ trách (giám sát thẩm tra quan
lại, là cơ quan xử án cao nhất). Thời Lê – Trịnh, các quan lại được
chia thành ba ban: ban văn, ban võ và ban giám (trước có hai ban
văn, võ). Ban giám tồn tại đến cuối đời Cảnh Hưng (1740 – 1786)
mới bị bãi bỏ.
Các cấp hành chính địa phương: đến thế kỷ XVII, các đạo đổi
thành các trấn, sang thế kỷ XVIII lại đổi thành các thừa tuyên giống
như thời Hồng Đức. Ở mỗi trấn, bộ máy cai trị gồm 3 ty: Trấn ty
(thay Đô ty thời Lê sơ, giữ quyền hành về quân sự, an ninh, xét xử vụ
kiện); Thừa ty (quản lý dân tình, hành chính sự vụ, xem xét công
trạng của quan lại; Hiến ty (chuyên giám sát các hoạt động công vụ
của các quan lại trong trấn, thẩm định lại những việc do Trấn thủ
xét xử. Dưới trấn là phủ, huyện, châu, xã. Đứng đầu là phủ quan,
huyện quan, châu quan, xã quan.
Quan lại nghỉ hưu thì hưởng dân lộc.
Việc đào tạo quan lại và thi tuyển, chủ yếu lấy kinh sách Nho
giáo làm cốt lõi. Do điều kiện chiến tranh nên đến 1580 chính quyền
Lê – Trịnh mới mở kỳ thị Hội ở Tây Đô. Từ đó, 3 năm tổ chức 1 lần.
Phải đến triều vua Lê Huyền Tông, quy chế thi Hội mới được chặt
chẽ và quy củ. Từ năm 1678, quy định rõ thể thức thi Hương, 3 năm
mở 1 kỳ. Nhưng việc tổ chức thi Hương còn lộn xộn (thu tiền lệ phí,
ai nộp 3 quan tiền thì khỏi qua kỳ khảo hạch... ). Trường thi biến
thành chợ thi mua bán danh vọng.
Đến đời vua Lê Dụ Tông, chúa Trịnh Cương mở trường dạy võ.
Ba năm một lần mở kỳ thi võ chọn nhân tài bổ làm quan võ. Thí
sinh phải thi đủ các môn võ thuật, phi ngựa, bắn cung, múa giáo và
trả lời về nghóa sách, phương lược chiến thuật.
Chúa Trịnh nắm toàn bộ kinh tế – tài chính quốc gia. Về tô
thuế ruộng đất, hầu hết mọi loại ruộng đất canh tác đều phải
nộp thuế. Việc thu thuế bằng tiền thay thóc ngày càng phổ biến.
Quan lại và binh lính được hưởng nhiều ưu tiên, ưu đãi trong việc
25
chia ruộng và nộp thuế. Ngoài tô thuế ruộng đất, hàng năm dân
đinh phải nộp thuế thân, và tạp thuế (tế lễ, lao dịch, phu phen).
Thuế khóa nặng nề, dân tình cực khổ. Chúa Trịnh còn mở rộng
thu thuế các lónh vực khác như khai thác khoáng sản, thổ sản,
lâm sản..., sản xuất thủ công, buôn bán... Bán chức quan để thu
tiền.
Tiền thời Hồng Đức vẫn còn sử dụng, nhưng ở các trấn đều có
cơ sở đúc tiền tạo ra sự nhũng lạm. Đến 1735, chúa Trịnh Doanh chỉ
để lại 2 sở đúc tiền gần Thăng Long để dễ quản lý. Chúa Trịnh cũng
quy định lại đơn vị đo lường. Năm 1734 đời vua Lê Thuần Tông bắt
phải khắc mộc bản để in và phát hành cho mọi nơi. Nghiêm cấm
mua sách in bên Trung Quốc. Đây cũng là chính sách kinh tế nhằm
tiết kiệm tiền và phát triển thêm ngành nghề.
Về quân đội, sau khi thắng Mạc, củng cố triều chính, chúa
Trịnh chia quân đội làm 2 thứ quân: Ưu binh (đóng giữ kinh thành),
Nhất binh (đóng giữ các trấn và hầu hạ các quan. Số còn lại sau
phiên chế cho về quê làm ruộng, khi cần mới gọi đến. Quân đội Đàng
Ngoài có đủ cả bộ binh, tượng binh, pháo binh và thủy binh. Luôn
phát triển lực lượng để củng cố quyền lực và đối đầu với thế lực Đàng
Trong.
Chính sách đối ngoại, nhà Lê – Trịnh duy trì chính sách hòa
hợp với các dân tộc ít người; tiếp tục thần phục nhà Thanh và giữ
quan hệ hòa hiếu. Nhà Thanh phong cho vua Lê làm An Nam quốc
vương. Đây là lần đầu tiên Trung Quốc phong cho vua Việt là Quốc
vương.
Năm 1667, quân chúa Trịnh đánh Mạc, chiếm Cao Bằng. Hai
năm sau theo lời cầu khẩn của vua Mạc, nhà Thanh buộc chúa Trịnh
trả lại Cao Bằng cho Mạc. Đến 1677, nhân cuộc nổi loạn của Ngô
Tam Quế (Trung Hoa), nhà Lê mới diệt Mạc ở Cao Bằng, làm chủ
hoàn toàn Đàng Ngoài.
Đầu thế kỷ XVIII, đất nước ổn định, chúa Trịnh tỏ ra tự chủ
hơn trong quan hệ với nhà Thanh. Năm 1726, một dải đất thuộc 2
châu Vị Xuyên (Tuyên Quang) và Thủy Vó (Hưng Hóa) được nhà
Thanh trả lại cho Đại Việt. Năm 1728, nhà Thanh trả nốt một dải
đất rộng thuộc Vị Xuyên, trong đó có mỏ đồng Tu Long.
Đối với Ai Lao, sau khi thiết lập lại chính quyền, nhà Lê –
Trịnh đặt lại quan hệ. Vua Thuần Tông đã gả con gaùi cho vua Lang
26